Những đối tác của Princeton - Newport 1969 -1988
Đối với nhiều nhà quản lý danh mục đầu tư, số liệu lưu trữ suốt 19 năm hoạt động của Princeton - Newport có tính quyết định đối với việc quản lý điều hành. Một đô la đầu tư vào quỹ tại thời điểm gây dựng hoạt động kinh doanh năm 1969 sẽ tăng trưởng đạt đến 14,78 đô la tại thời điểm quỹ chấm dứt hoạt động vào năm 1988. Hơn 19 năm, tỷ suất lợi nhuận kép trung bình hàng năm khoảng 15,1% sau khi trừ chi phí. Công ty S&P 500 trung bình hàng năm đạt 8,8% lợi nhuận trong cùng một thời kỳ.
Lợi nhuận vượt trội chỉ là một phần của câu chuyện. Một vài người khác còn đạt được lợi nhuận cao hơn trong những khoảng thời gian tương đối dài. Quỹ chống rủi ro của Geogre Soros đã vượt đỉnh lợi nhuận của Princeton - Newport một cách khiêm tốn. Berkshire Hathaway của Warren Buffett đạt lợi nhuận trung bình hơn 25% (trong khi Thorp phải đạt khoảng 20% lợi nhuận để nhường lại 15% cho những nhà đầu tư của ông ta. Là một tập đoàn, Bershire Hathaway không tính chi phí này).
Sự khác nhau là ở chỗ lợi nhuận của Buffett và Soros không ổn định. Độ lệch tiêu chuẩn của lợi nhuận ở Princeton - Newport vào khoảng 4%. Điều đó làm cho quỹ ít thay đổi đột ngột hơn rất nhiều so với bản thân của chính thị trường chứng khoán, S&P 500 đã giảm hơn 1/4 giá trị của nó vào năm 1974 và đỉnh điểm của sự sụt giảm diễn ra vào ngày “thứ Hai đen tối của năm 1987."
Một biểu đồ lợi nhuận của Princeton - Newport trông không hề giống như biểu đồ đầy kinh hãi về sự giàu có ngày càng tăng của những người các cược Kelly: Thông qua sự đa dạng hóa, với vị trí nhỏ bé ở Kelly và triết lý về việc phạm lỗi có sự cẩn trọng, Thorp có được sự tăng trưởng theo mũ số, bác bỏ sự đánh đổi theo quy ước giữa lợi nhuận và sự mạo hiểm.