Chương 35
Khi trận đấu kết thúc, hai bố con lái xe tới cửa hàng Thức Ăn Thú Cưng. Trên đường đi, nó cứ nghĩ về Crenshaw suốt.
Chắc chắn phải có một lời giải thích hợp lý, nó tự nhủ.
Luôn luôn có mà.
Có thể nó đã ngủ gật và mơ thấy cậu ta.
Hoặc có thể – chỉ có thể thôi – nó thực sự bị thần kinh.
Bố đã quá mệt vì phải đứng suốt lúc ở Best Buy, nên nó tự đi mua thức ăn cho Aretha. “Túi nhỏ nhất và rẻ nhất ấy con,” bố nhắc.
“Nhỏ nhất và rẻ nhất ạ,” nó gật đầu.
Bên trong cửa hàng hơi lạnh và im ắng. Nó đi thẳng qua những dãy đồ ăn cho chó. Vài loại có gà tây với quả Nam việt quất. Một vài loại khác thì có cá hồi, cá ngừ, hoặc thịt trâu, dành cho mấy con chó bị dị ứng thịt gà. Thậm chí họ có cả đồ ăn cho chó làm từ thịt chuột túi.
Gần dãy thức ăn, nó thấy một giá bán áo len cho chó. Trên áo in những dòng như “CHÓ XỊN”, hoặc “BẮT BÓNG CỰC ĐỈNH”. Cạnh đấy là mớ vòng cổ và dây dắt lấp lánh. Aretha cực kỳ ghét mớ đồ này, nó nghĩ. Thú nuôi chẳng thèm quan tâm đến mấy đồ óng ánh. Đúng là phí phạm tiền bạc.
Nó đi ngang quầy bày bánh quy cho chó, những miếng bánh có hình khúc xương, mèo, và sóc. Trông chúng còn ngon hơn bánh quy cho người nữa. Và rồi, nó không biết tại sao, tay nó bắt đầu chuyển động. Bàn tay quơ một trong số những miếng bánh quy ngu ngốc đó.
Cái bánh có hình con mèo.
Chưa kịp suy nghĩ gì thì cái bánh đã nằm gọn trong túi nó rồi.
Cuối dãy hàng, một nhân viên mặc áo vét đỏ đang bò dưới sàn, ngay trước dãy đồ chơi cho chó. Anh ta đang lau bãi tè của một chú poodle nhỏ, và chú chó đang liếm mặt anh ta.
“Vòng cổ đang giảm giá một nửa đấy,” người nhân viên nói với nó.
Nó gần như đóng băng lại. Rồi nó bảo mình chỉ đang ngắm nghía chút thôi. Nó tự hỏi không biết người nhân viên có nhìn thấy mình lấy bánh quy không. Có vẻ không phải. Nhưng nó không thể chắc chắn được.
“Anh biết không, các nhà khoa học khám phá ra rằng loài chó có thể biết cười đấy,” nó nói. Ngôn từ liến thoắng thoát ra từ miệng nó, như những đồng xu rơi khỏi một cái túi thủng. “Chúng phát ra tiếng động khi chơi, không hoàn toàn là tiếng thở gấp đâu, mà giống tiếng phun nước bọt ấy. Nên các nhà khoa học cho rằng đó có thể là tiếng cười kiểu chó.”
“Chắc thế,” người nhân viên nói. Giọng anh ta có vẻ cáu kỉnh. Chắc bởi vì con cún vừa tè lên giày anh.
Con cún chạy tới chỗ nó hít hà. Nó kéo theo một thằng nhóc, khoảng chừng bốn tuổi. Thằng nhóc đang đi đôi dép hình khủng long, mũi thì thòng lòng nước.
“Nó đang vẫy đuôi,” thằng nhóc nói. “Nó thích anh đấy.”
“Anh từng đọc ở đâu đó rằng, khi một con chó vẫy đuôi về phía bên phải, thì nó đang vui vẻ phấn khích về chuyện gì đó,” nó bảo. “Còn bên trái thì không hẳn.”
Người nhân viên đứng dậy. Anh ta cầm mớ khăn giấy ướt nước tiểu giơ ra thật xa, như thể đó là chất độc phóng xạ.
Nó cố bắt bản thân nhìn vào mắt anh ta. Nó thấy người nóng bừng và run rẩy. “Hạt khô cho chó ở đâu ạ? Loại có bao bì đỏ và sọc xanh ấy anh?” Nó hỏi.
“Dãy số chín.”
“Anh biết nhiều về chó nhỉ,” thằng nhóc nói với nó.
“Sau này anh sẽ trở thành nhà động vật học,” nó bảo thằng nhóc. “Anh buộc phải biết nhiều chứ.”
“Em bị đau họng nhưng không bị viêm họng,” thằng nhóc quệt mũi bằng mu bàn tay. “Mẹ em đang mua thức ăn cho King Kong, con chuột lang ấy mà.”
“Tên hay đấy.”
“Còn đây là Siêu Tốc.”
“Cũng là một cái tên hay.”
Nó thò tay vào túi quần, chạm vào cái bánh quy.
Mắt nó cay sè và nhòe đi. Nó sụt sịt.
“Anh cũng bị cảm ạ?” Thằng nhóc hỏi.
“Cũng gần giống vậy.” Nó để Siêu Tốc liếm tay mình rồi quay lưng đi.
“Em nghĩ nó đang vẫy đuôi về phía bên phải đấy,” thằng nhóc gọi với theo.
I