← Quay lại trang sách

- VI - Giặc Võ Trứ

Năm Mậu Tuất - 1898 [1], tại tỉnh Phú Yên, dưới sự lãnh đạo của Võ Trứ và một nhóm thầy chùa, dân chúng đứng lên chống lại chính phủ Bảo hộ.

Sau khi đám dân binh thất bại, nhà cầm quyền Bảo hộ khám phá được rất nhiều võ khí giấu cất, phần nhiều là thứ rựa đốn củi, và lùng bắt được một số dân binh, trong đó phần đông là thầy chùa, nên người ta gọi giặc năm ấy là giặc Võ Trứ, hay là giặc Thầy Chùa, lại có người gọi là giặc Rựa.

Duyên do phát sinh giặc ấy:

Sau lúc từ giã cụ Cao Vân, Võ Trứ vào huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên là nơi đã sẵn có nhiều người quen thuộc với ông ta, lúc bấy giờ ông càng nỗ lực hoạt động hơn trước.

Một mặt ông áp dụng ngay cái phương thuật sở trường từ những việc cho thuốc, phát bùa, nhương sao, giải hạn, cho đến tống quái, trừ tà... ông đều làm nốt không bỏ sót một cơ hội, miễn là lôi cuốn được quần chúng theo mình.

Một mặt ông bí mật liên lạc với các nhà sư ở các chùa, khắp phủ, huyện, xã, thôn là những đồng chí đã kết giao cùng ông từ lâu, hoặc mới gia nhập, để phân phát hành động.

Một mặt nữa, ông lại rất khéo vận dụng cái thuật phù pháp ấy chinh phục thổ dân Mọi, Mán, dọc theo dãy Trường Sơn, thuộc miền thượng du các phủ, huyện: Đồng Xuân, Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, làm cho chúng tòng phục và tôn kính ông như một vị thánh thần.

Nhờ sự nỗ lực hoạt động như thế, chẳng bao lâu hầu hết các chùa chiền ở hai tỉnh Bình Định, Phú Yên, trở nên là những trụ sở bí mật của đảng Võ Trứ, những cơ quan tuyên truyền chống chế độ Bảo hộ có hiệu lực, những nơi quyên góp tiền bạc dồi dào.

Nhờ sự tổ chức khéo léo, tất cả hành động của Võ được chi phối khắp nơi, và bành trướng một cách mau chóng, mà trước mắt các quan cai trị địa phương không sao khám phá được.

Công tác của Võ Trứ vừa thực hành được một giai đoạn, thì cụ Cao Vân từ thành Bình Định cũng dọn vào Phú Yên, ở trọ nhà của một môn đồ thân tín huyện Đồng Xuân.

Cụ Cao Vân vào Phú Yên lần này vì nhận được tin mời của Võ Trứ, và chính cụ cũng quyết định vào để hợp lực cùng Võ trù hoạch thêm đường lối tiến hành.

Theo lời tường thuật của Nguyễn Nhuận (Xã Soạn), người được hiểu biết nhiều về các biến cố đã xảy ra hai tỉnh Bình Định và Phú Yên hồi ấy, thì công cuộc mưu đồ khởi nghĩa của Võ Trứ lúc ban đầu chỉ có ông ta với năm ba nhà sư, là những dư đảng Cần vương, từ ngày bị quân Bảo hộ đánh tan, lẩn khuất vào ở các chùa khoác áo tu hành để mai danh ẩn tích.

Công cuộc hành động của các sư cùng Võ Trứ lúc bấy giờ còn trong một phạm vi rất chật hẹp, với một ít thân bằng, một số tín đồ chưa đáng kể.

Sau nhờ có việc phát bùa cho thuốc, và sự cộng tác với cụ Cao Vân mới lôi cuốn được một số quần chúng rất đông. Trong đám người ô hợp ấy, có cả giới thân hào thân sĩ tham dự, nên phương pháp hoạt động tuyên truyền mới bắt đầu có đường lối.

Rằm tháng Bảy năm Đinh Dậu nhằm ngày lễ Trung Nguyên, bổn đạo thập phương đi lại các chùa đông đảo. Để che mắt nhà đương cuộc, cụ Cao Vân cùng Võ Trứ lợi dụng ngay cơ hội, triệu tập hội nghị bí mật tại một ngôi chùa trên đỉnh núi thuộc phủ Tuy An, cách Sông Cầu độ hai mươi cây số. Ngôi chùa này tên chính là gì chưa khảo được, chỉ nghe người ta thường gọi là chùa Đá Trắng.

Cuộc đại hội này là lần đầu tiên có mặt cụ Cao Vân, Võ Trứ, các nhà sư, các thân hào, thân sĩ, ước gần ba mươi người đến dự, mục đích để xem xét lại thực lực và các việc đã làm, để ủy thác nhiệm vụ theo hệ thống tổ chức, hành động theo quy củ và mệnh lệnh chung, và để ban hành kế hoạch chuẩn bị chờ thời cơ thuận tiện khởi nghĩa.

Sau buổi họp ấy, toàn thể đảng viên chia nhau mua sắm khí giới, lớp phân phát mỗi nhà, giấu cất ở các chùa, ở khu rừng huyện Đồng Xuân. Và các phường Mọi cũng đua nhau chế tạo cung nỏ.

Năm Mậu Tuất (1898), dân chúng tỉnh Phú Yên lại gặp phải một tình cảnh hết sức khốn khổ: nỗi mùa màng mất sạch! nỗi sưu thuế lại đến kỳ! ăn không đủ! mặc không đủ! còn phải lo trả một mối nợ, mối nợ không khất triển được: nợ sưu thuế!

Sau ngày lịnh quan trên truyền ra, những người không đóng góp được đều bị bọn cường hào thi hành bắt cả trâu bò, khuân cả từ khí, cho đến mâm thau, nồi đồng, giường thùng, rương xe cũng đem phát mãi để nộp. Những dân nghèo nàn không có gia sản thì bị đóng gông giải về huyện!

Người dân tỉnh Phú Yên lúc bấy giờ đã phải đau khổ đến mực ấy, họ biết thống trách ai? Tất nhiên họ càng thù oán bọn tổng lý là những người trực tiếp bóc lọt họ, và họ mong làm được những gì để trả thù!

Trong lúc lòng dân sôi nổi, lại Võ Trứ cũng đương băn khoăn vì việc đảng bị tiết lộ, bởi có người trong bọn đã cáo báo việc bí mật với nhà đương chức. Thế nên ông ta càng vội vàng thương lượng với cụ Cao Vân, triệu tập toàn đảng mở hội nghị bất thường quyết định ngày khởi nghĩa.

Lực lượng chuẩn bị mặc dù chưa kiện toàn, nhưng lần này cảnh ngộ không cho cụ Cao Vân can ngăn Võ Trứ như những lần trước nữa. Bởi công cuộc mưu đồ đã mấy năm chỉ mong chờ có cơ hội là nổi lên chống lại chính phủ Bảo hộ, lúc bấy giờ cơ hội đã đến, lòng dân đã tán thành, nếu không khởi nghĩa còn chờ đợi lúc nào? Huống nữa, công việc bí mật của đảng đã bị tiết lộ thì, dù khởi nghĩa hay không khởi nghĩa, cũng không tránh được những trận khủng bố nặng nề sẽ đến. Thà khởi nghĩa mà đành chịu lấy sự khủng bố ấy, để tạo một mối công phẫn trong quốc dân, làm mầm mống cho những cuộc cách mệnh liên tiếp.

Người sinh trên cõi đời, ai rồi cũng một lần phải chết, người tráng sĩ thà chịu rơi đầu ở chốn sa trường, chứ không bao giờ chịu khoanh tay để chờ kẻ địch đến hạ thủ!

Vảo khoảng mùa hè năm Mậu Tuất (1898, không nhớ rõ ngày tháng), một đêm, dưới bóng cờ to tướng đề bốn chữ “Minh trai chủ tễ”, Võ Trứ ngồi trên ngựa thân lãnh đốc suất một đạo dân binh, từ khu rừng huyện Đồng Xuân kéo xuống tỉnh lỵ Phú Yên là Sông Cầu.

Theo kế hoạch của Võ, trước hết vây cướp trại lính tập, đoạt lấy súng đạn để thiên chuyển chủ lực của họ về cho dân binh, rồi đến các dinh sở Bảo hộ Nam triều là việc sau.

Võ tổ chức cho đi đầu độ một trăm tên Mọi, cung tên đây đủ (vì cung tên là một thứ khí giới tinh nhuệ nhất của thời bấy giờ và bọn Mọi là những người thiện xạ hơn hết). Kế đó, độ ba bốn trăm đồ đảng đều cầm võ khí bằng mác rựa, và mỗi người đều có đeo một lá bùa hộ mệnh (vì họ rất tin Võ Trứ là tay phù pháp cao cường, nên đeo bùa ấy súng bắn không thủng, gươm chém không đứt; ông ta dựa theo lòng tin ấy để làm cho tinh thần của dân binh càng thêm hăng hái dũng cảm). Còn Võ Trứ đích thân đi giữa, tả hữu có các vị sơn tăng điều khiển dân binh tiến tới.

Dọc theo khoảng đường mười mấy cây số, các đồ đảng ứng chực sẵn để hô hào dân chúng gia nhập rất đông; lúc gần đến Sông Cầu, đã trở nên một đạo dân binh hùng mạnh ước trên một nghìn người, hăm hở xông tới...

Bên chính phủ Bảo hộ, từ dẹp, xong các đảng Cần vương, Văn thân, công cuộc đô hộ nước Nam vững như bàn thạch không còn gì mệt nhọc nữa.

Về chính trị đã tổ chức bộ máy cai trị được chu toàn, giao phó Nam triều trực tiếp điều khiển.

Về quân sự, chỉ có tánh cách trị an, không gì đáng kể, nên những tỉnh không phải là trọng trấn chỉ còn để một ít lính tập dưới sự chỉ huy của viện quan một hoặc quan hai và một ít quản đội người Pháp. Thế nên tỉnh Phú Yên, một tỉnh nhỏ, có độ vài trăm tên lính tập, một viên quan một, vài viên quản đội mà thôi.

Bên Nam triều thì có một đội lính phòng thành độ ít chục người để canh gác giữ trật tự và chạy công văn, chỉ có thế.

Một vài tháng trước, do mật trình của viên Tri huyện Sơn Hòa, công sứ và bố chính Phú Yên đã mật sức các phủ huyện, tổng lý phải dò xét rất kỹ hành tung của Võ Trứ.

Chiều một hôm nọ, Lưu Tuấn, người Bắc kỳ, đương chức Tri huyện Đồng Xuân, đến tỉnh phi báo: mấy ngày rày Võ Trứ tụ tập đồ đảng ở khu rừng thuộc phủ Tuy An, huyện Đồng Xuân, toan nổi giặc. Báo xong, tối hôm ấy, Lưu lẻn xuống chiếc thuyền con ra trốn ở một làng ngoài gành bể, sáng sớm ngày hôm sau mới về huyện. Vì vụ trốn này nên sau giặc Võ Trứ, Lưu bị giáng chức và đổi đi.

Được tin báo giặc, viên bố chính Phú Yên lập tức xuống tòa báo sứ, và yêu cầu quân lính Bảo hộ đối phố.

Công sứ Phú Yên nghe báo vẫn nghi ngờ, bởi ông tin rằng; không thể có một sự biến cố lớn lao được. Tuy nhiên, ông vẫn cho quan một đồn lính tập hay để đề phòng, và cắt sẵn một đội lính đi tuần tiễu.

Đêm hôm ấy, các dinh thự thuộc Nam triều then gài cửa khóa, lính phòng thành canh giờ nghiêm nhặt. Bên Bảo hộ, tòa sứ, đồn lính cũng có vẻ đề phòng.

Công sứ Phú Yên, viên quan một và thông ngôn Nguyễn Chính (người làng Bạch Mai, Hà Nội), mỗi người một ngựa, đem theo mấy mươi tên lính tập súng đạn đầy đủ, từ Sông Cầu theo con đường thiên lý đổ về phía Tây nam, đi tuần tiễu và dò thăm tin tức luôn thể.

Khoảng mười một giờ đêm, lúc qua khỏi giốc Găn, giốc Quít, cách Sông Cầu chừng bốn năm cây số, nghe xa về phía phủ Tuy An có tiếng người thì thầm như một đoàn ong võ tổ. Trông về phía ấy dưới bóng trăng mập mờ, một đoàn người đen nghịt từ trên những đồi núi kéo xuống; lính tuần đoán được là binh của Võ Trứ, lập tức lắp đạn vào súng sẵn sàng để đối phó.

Quả thật dân binh đã tiến đến. Võ Trứ đang giục ngựa xua tới, bỗng có tiếng súng từ phía trước đưa lại. Võ Trứ biết có quân Bảo hộ đề phòng, liền hạ lịnh bắn! Tức thì hằng trăm cây cung đồng thời bắn ra một lượt, tên bay như mưa, hằng nghìn dân binh reo hò vang dậy để trợ oai. Lúc ấy bên lính tuần cũng bắn trả lại ráo riết. Tiếng người la, tiếng súng nổ inh ỏi một phương trời, tưởng không khác nào một trận đại chiến của thời cổ.

Dân binh đương hăng tiến, chẳng may bốn năm tên Mọi trúng phải đạn, ngã gục tại trận, và một số dân binh bị thương. Chúng Mọi hoảng kinh kêu rú lên, cả bọn đều quay đầu chạy trở lại, làm cho đám dân binh ô hợp ấy càng thêm rối loạn hảng ngũ, xô nhau mạnh ai nấy chạy. Võ Trứ và các sơn tăng không còn đốc suất được nữa, đành phải rút lui vào rừng với mấy trăm đồ đảng, có cả tù trưởng và vài chục tên Mọi trung thành.

Theo phưong lược cụ Cao Vân hoạch định, lấy rừng núi làm thế thủ, thừa lúc đêm mở thế công, thế nên trong đêm ấy Võ Trứ cắt đặt người võng những kẻ bị thương và kéo rốc tàn binh, lặn suối băng rừng về đến vị trí đã dự định. Đến nơi, số đồ đảng tản lạc trong lúc hỗn loạn cũng lần lượt chạy về, kiểm điểm lại tất cả độ năm trăm người và vài ba chục tên Mọi. Võ Trứ phân phát nhiệm vụ bố trí đâu đó xong xuôi, cho người dò nghe tin tức bên chính phủ Bảo hộ để trù bị đối phó và thừa dịp tiến binh...

Theo lời thông ngôn Nguyễn Chính, lúc trông thấy đoàn dân binh đương đổ xô tới như triều nước đương dâng, công sứ Phú Yên ra lịnh bắn bổng lên không mấy phát súng để dọa giải tán. Không ngờ đoàn người ấy càng tiến mạnh, càng bắn xả tên ra, túng thế công sứ, viên quan một và thông ngôn Nguyễn Chính xuống núp phía sau ba con ngựa, mấy mươi lên lính tập sắp hàng nằm mệp xuống bắn trả lại.

Độ nửa giờ sau, đoàn dân binh rối loạn bỏ chạy.

Đội lính tuần nhờ địa thế của eo giốc nên không thiệt hại nhiều.

Dân binh tuy bỏ chạy, nhưng lính tuần không dám đuổi theo vì đường rừng núi quanh co hiểm trở, lại trời ban đêm, nên kéo về Sông Cầu canh gác cẩn thận.

Tiếp theo mấy ngày sau, viên quan một và một trăm lính tập do theo đường làng, kéo lên bắn phá sào huyệt Võ Trứ ở một khu rừng cực tây thuộc huyện Đồng Xuân (chưa khảo được địa điểm).

Bắn phá cũng không tiêu diệt được đám dân binh ấy, bởi ban ngày thì họ trốn mất ở rừng sâu núi hiểm, ban đêm họ mới hiện ra để thao diễn. Tuy hồi ấy chưa có danh từ du kích, nhưng chiến lược của họ cũng giống như chiến thuật du kích ngày nay.

Kết cuộc, quân Bảo hộ phải dùng cái thuật sở trường nhất của các nhà binh pháp xưa nay là thuật hỏa công! Ngọn lửa bốc lên gặp trời mùa hè của xứ Trung, cỏ cây khô cháy, nên chỉ trong ngày đêm là ba làng thuộc huyện Đồng Xuân (chưa khảo được tên làng) hòa ra một đám tro tàn! Từ đây dân binh mới chịu tan...!

Chú thích:

[1] Năm 1898, tài liệu của ông Trần Nguyên (con trai cụ Cao Vân), đăng ở báo “Saigon”, cải chính với ông Phan Khôi về đoạn lịch sử ký sự cụ Cao Vân, đăng báo “Sông Hương” năm 1934.