- VII - Động Bà Thiên
Địa điểm động Bà Thiên (chưa khảo được đích xác), cứ theo địa thế và lời tường thuật của cụ bà Trần Cao Vân, thì nơi ấy trong một vùng núi cao thâm hiểm thuộc miền cực tây tỉnh Phú Yên. Từ Sông Cầu đến đấy phải trải qua bao gồ ghề quanh co lên đèo xuống suối. Nơi đây là quê hương riêng biệt của dân Mọi, người Việt ta không một ai léo hánh đến.
Chính lúc Võ Trứ phất cờ xuất quân, cụ Cao Vân đương nằm trên giường bệnh cho ma sốt rét hoành hành. Tuy nhiên, cụ vẫn tiếp xúc cùng Võ để điều động công cuộc hưng binh...
Từ nghĩa quân thất trận, tin tức báo về liên tiếp... Một đêm, vào lúc canh tư, một sơn tăng cùng với mấy tên Mọi đến nơi trọ của cụ Cao Vân, xin võng cụ lên động Bà Thiên, theo kế hoạch đã dự định để cụ ẩn mình.
Trước tình cảnh vô cùng bối rối, phần thì quân lính Bảo hộ kéo lên đốt phá làng mạc, khủng bố ráo riết, phần thì bệnh tình cụ Cao Vân ngày một trầm trọng, cụ bà còn phải đeo mang hai trẻ dại, một trẻ năm tuổi, một trẻ vừa mới thôi nôi. Nỗi nước, nỗi nhà gặp bước éo le cấp bách dường ấy, không đưa cụ Cao Vân lên trốn ở xứ mọi, còn biết đường nào?
Đưa cụ đi trong lúc yếu đau nguy kịch, lại đến nơi rừng sâu nước độc, thú dữ ma thiêng, thật là một điều bất đắc dĩ; hơn nữa, làm sao săn sóc thuốc thang cho cụ! Cụ bà đành phải gạt nước mắt chìu theo cảnh ngô, cắt đứt tình mẹ con để theo phụng sự chồng, một ông chồng lịch sử! Cụ bà gởi hai trẻ lại, trẻ năm tuổi giao đệ tử Nguyễn Nhuận trông nom, trẻ một tuổi giao cho một môn đồ thân tín đưa về Bình Định cấp dưỡng; còn cụ bà theo cụ Cao Vân lên xứ Mọi. Chuyến đi này, một chuyến đi gian lao cam khổ của đôi vợ chồng người chí sĩ trót đã hiến mình cho non sông!
Công việc lên xứ Mọi, đồ đảng họ đã tổ chức từ bao giờ. Lúc đến nơi, họ đưa cụ Cao Vân vào ngay động Bà Thiên, ở tận trong một thung lũng núi thâm u không làng mạc dân cư. Xa xa mới trông thấy một vài chòi mong để canh phòng ác thú, của thổ dân Mọi cất để chen giữ ruộng rẫy. Họ để cụ Cao Vân ở một cái chòi mong cao và rộng rãi, rồi hằng ngày tù trưởng và ít tên Mọi đi lại thăm nom giúp đỡ với cụ bà.
Khốn thay bệnh sốt rét của cụ Cao Vân vì trải bao ngày cảm nhiễm phải khí độc, uống phải nước độc của rừng núi, ngày nay lại mang cái quái tật ấy trở về với rừng núi, thật là một cơ hội tốt cho ma bệnh càng đắc thế tung hoành. Thế nên lên động Bà Thiên chỉ trong thời gian, ma sốt rét rừng chưa hàng phục được, bệnh phù thủng lại nổi lên, làm cho tính mệnh người chí sĩ mỏng manh như ngọn đèn hết dầu treo trước gió!
Lên động Bà Thiên để trốn, làm sao có được thầy thuốc để xem xét bệnh tình? Phần thì không dám nhờ Mọi xuống chợ quán phố phường mua một thức gì có thể người ta nghi ngờ, thì làm sao có được thuốc thang! Sinh mệnh người chí sĩ chỉ còn trông vào các thức rễ cây, lá cây của dân Mọi hái cho, là phương thuốc tạm vãn hồi chút tàn lực để tranh đấu với tử thần kéo dài từng giờ phút! Dằng co như thế hằng tháng trời mới tiếp nhận được thuốc men, lương thực do đồ đảng bí mật tổ chức nhờ Mọi mang lên; từ đây bệnh tình cụ Cao Vân lần lần mới chịu thuyên giảm.
Cám cảnh thay cho cụ bà với những ngày não nùng thê thảm ở động Bà Thiên! Mỗi lúc nhìn đến chồng, nhớ đến con, trăm chìu thắt ruột! Nhưng tình chồng vợ, nợ non sông, là một sức mạnh phi thường giục thúc “người gái Việt”, xưa kia đã đuổi quân Tô Định ra khỏi biên thùy! Sức mạnh ấy ngày nay đã giúp cụ bà Cao Vân chiến thắng được muôn nghìn nỗi đắng cay giữa chốn rừng hoang núi thẳm để phò tá chồng.
Mặc dù được sự giúp đỡ của thổ dân Mọi, sự tiếp tế của các môn đồ, cụ bà cũng phải vất vả cực nhọc không xiết kể, thế nên cụ Cao Vân vừa khá dậy, thì cụ bà lại ngã xuống, cũng mắc phải cái bệnh sốt rét ác nghiệt ấy. Mỗi lẫn cơn rét rùng rợn nổi lên, cụ Cao Vân phải bò dậy lấy cả chăn chiếu lại đắp cho cụ bà, vì vỏn vẹn có hai chiếc chiếu và một mảnh chăn vải ta cũng đã cũ mèm.
Lúc này phải nhờ đến dân Mọi cả những việc cơm cháo thuốc thang, mãi đến hai ba tuần sau sức khỏe cụ bà mới hồi phục. Một hôm cụ bà ráng chồm dậy mang bầu đi lấy nước, lâu ngày mới xuống suối, trông thấy cua, rạm ở gần đá, mừng quá! Cụ bà đuổi theo bắt được một mớ; mảng theo bắt cua, quên việc mang nước về. Cụ Cao Vân nằm ở chòi trông đợi cụ bà ngày một mất, hoảng kinh! Lo cho cụ bà gặp phải đều chẳng may, vì ở núi này có lắm độc xà ác thú, nên cụ vội vàng leo xuống chòi chống gậy lần theo đường mòn trèo lên một tảng đá kêu rú lên. Một lúc sau mới thấy cụ bà mang bầu nước xách trụi cua từ dưới chân núi lần lên vừa thở hào hển!
Bữa cơm trưa hôm ấy, ngoài những thức ăn hằng ngày, cá khô, mắm mặn, lại có thêm được một món cua rất khoái khẩu. Ăn xong, còn thừa lại một ít để dành tối, chẳng may cụ bà lỡ tay đánh rơi bể mất cái trả đất; nhìn theo cái trả bể, cụ bà có vẻ rất tiếc vì từ đồng quê mang lên vỏn vẹn chỉ có hai cái. Trước tình cảnh thảm thiết ấy, cụ Cao Vân xúc cảm ngâm lên tám câu thi để khuyên cụ bà:
“Hầm đúc xưa nay sẵn núi đồng,
Ăn rồi trách trả bể vừa xong.
Kho lâu rịn nước bầu Nhan Tử,
Nấu chín còn manh mẻ Thạch Sùng.
................. [1]
.................
Thôi thôi đồ đất phường chi tiếc,
Dành để bếp trời hiểm [2] chảo bung”.
Ở động Bà Thiên được một thời gian ngắn, thình lình một đêm nọ vào lúc canh một, từ trong dãy Trường Sơn, mờ mịt, Võ Trứ hiện ra cùng đi với hai tên Mọi vào động, vừa thấy mặt cụ Cao Vân chưa kịp hỏi một lời, Võ ôm lấy cụ khóc rống lên hồng hộc! Một hồi lâu mới đem hết tình trạng của nghĩa quân từ ngày thất trận kéo vào rừng, tưởng sẽ tập trung tại vị trí cố thủ để trù liệu tấn công; không ngờ, trong bọn có người mưu phản, tố cáo với nhà cầm quyền Bảo hộ, dắt đường cho quân lính lên đốt phá sào huyệt, khủng bố lương dân, khám xét các chùa chiền, bắt các sư, các tăng chúng hạ ngục! Trước tình cảnh ấy, lực lượng nghĩa quân không đánh mà tự phải tan rã; các sơn tăng, đạo sĩ ai thoát được thì chạy về thâm sơn cùng cốc ẩn mình. Chính Võ cũng nay lẻn trốn phường Mọi này, mai đến phường Mọi khác, mãi cho đến mấy tháng sau tấn thảm kịch khủng bố vẫn kéo dài mãi, vì họ chưa bắt được người thủ lãnh. Thế nên mục đích Võ đến động Bà Thiên để diện hội cùng cụ Cao Vân, thăm hỏi bệnh tình cụ, bày tỏ những nỗi thống khổ của xã dân cho cụ nghe, và gửi gắm bao việc về sau cho cụ. Còn Võ quyết phải ra mặt nhận lãnh hết công việc đã làm, để cứu vót đồ đảng lương dân thoát được một phần nào trong bao nỗi thảm khốc.
Trước bao lời lẽ vừa bi cảm, vừa phẫn nộ của người tráng sĩ đến bước cùng đồ, bao tiếng gầm thét não nùng của con hùm thiêng đến phút sa cơ, cụ Cao Vân cố dằn mà không được. Cụ cũng nắm tay Võ Trứ, nước mắt chan hòa, vừa ấm ức, vừa khuyên can. Nhưng Võ quyết một hai không chịu nghe. Đến lúc phân tay, cụ chỉ thốt được mấy lời: “Ngày nay ông đã liều chết để cứu lấy đồ đảng, lương dân, tôi còn sống lại sau này cũng nguyện đem cái chết để đền nợ non sôngl” rồi gạt nước mắt mà tiễn biệt Võ Trứ...
Chú thích:
[1] Hai câu này vì lâu ngày nên cụ bà Cao Vân đã quên.
[2] Hiểm là hiếm gì, ý nói nhiều.