-IX - Vụ án Trung thiên dịch.-Ba năm ngục Bình Định và Quảng Nam
Năm Canh Tý - 1900 [1], hai tỉnh Bình Định Phú Yên lại xảy ra câu chuyện rất xôn xao náo nhiệt không kém với các cuộc biến cố vừa qua: vụ án “Trung thiên dịch”!
Kinh “Dịch”, một bộ sách rất cổ trong kho tàng triết học Trung Quốc, sáng tác từ vua Phục Hy, đờị thượng cổ.
Theo “Thế giới đại sự biểu”, thì vua Phục Hy có vào khoảng bốn nghìn năm trước tây lịch kỷ nguyên.
Phục Hy làm ra Dịch “Tiên thiên”, Văn Vuơng bày thêm Dịch “Hậu thiên”, Chu Công, Khổng Tử phụ thêm vào các lời: “Hào từ, Thoán từ, Văn ngôn, Hệ từ, Thuyết quái, Tự quái, Tạp quái, v.v.” để bàn cho rộng và rõ thêm nghĩa “Dịch”. Về sau, từ nhà Hán đến nhà Thanh, hằng trăm học giả Trung Quốc đua nhau bàn tán về kinh “Dịch”, kẻ bàn thế này, người luận thế khác, nhưng chưa ai bàn ra ngoài thể tài của Dịch “Tiên thiên” và “Hậu thiên”. Đến những tay cự phách trong làng Tống nho như Chu Hy, Trình Di cũng chưa có ý kiến gì khác.
Cụ Cao Vân được ra khỏi ngục Phú Yên trở về với nghề cũ. Lần này cụ lại chuyên vào công việc mở trường, dạy học, giảng nghĩa kinh “Dịch”, một bộ sách có thể nói là chuyên nhất của đời cụ. Đại khái chúng tôi đã lược bày ở mục “Cổ Lâm”, ngoài những lúc mưu đồ phục quốc, thì cụ chuyên vào việc khảo cứu Dịch học.
Có lẽ nhờ chuyên tâm nghiên cứu mà cụ thông được Dịch lý; nhờ thông “Dịch” mà cụ có cái lối bói quẻ rất tài tình. Nhờ bói quẻ mà thời ấy cụ đã hấp dẫn được quần chúng, họ đã cảm phục cụ như những nhà tiên tri, họ quá ca tụng đến bịa cho cụ có cái tài nham độn xuất quỷ nhập thần.
Nhưng thông “Dịch” giỏi quẻ chưa phải đủ điều kiện để xướng tác ra một thuyết “Dịch” thứ ba nếu không phải một thiên tài! Phương chi đương cái thời đại mà nền Hán học (lối học khảo cứu nghĩa lý) như đã suy đồi, đột nhiên cụ Cao Vân đề xướng thuyết “Trung thiên dịch”, đem Dịch “Tiên thiên” của Phục Hy và Dịch “Hậu thiên” của Văn Vương phối hợp thành Dịch “Trung thiên”, thật là một thuyết mới mẻ nhất trong học giới Hoa Việt xưa nay! Chính cái thuyết mới ấy làm cho sĩ phu nước ta lúc bấy giờ ai nghe đến cũng không khỏi ngạc nhiên! Mãi cho đến ngày nay cũng chưa ai hiểu nó ra làm sao.
Thuyết lý “Trung thiên dịch” thế nào thật không ai biết. Những đồ đệ cao cấp, những ông bạn đồng song và những người đã được nghe cụ Cao Vân nói về “Trung thiên dịch” thì ngày nay không còn. Chúng tôi có gặp được vài người có thể gọi là học trò cụ, thì họ cũng thú nhận họ không được hiểu lắm, họ bảo: lúc bấy giờ cụ Cao Vân đã làm thành “Trung thiên dịch đồ”, đã biên soạn rất nhiều tài liệu, dự định viết thành sách, nhưng chưa thực hành được thì cụ bị bắt, “Dịch đồ” và tài liệu ấy [2] lớp bị tịch thu, lớp bị thất lạc, lại nhà nào có một tí giấy tờ dính líu đến “Trung thiên dịch” cũng bị liên can, nên đành phải hủy diệt hết, không một ai dám giữ lại.
Thuyết “Trung thiên dịch” truyền ra hai tỉnh Bình Định, Phủ yên, người ta theo đông lắm! Dường như phần đông họ tòng phục thuyết ấy không phải lối thông đạt nghĩa lý, trái lại, họ tin bằng lối tín ngưõng quỷ thần hay một vấn đề thần bí của thời ấy. Họ tin tưởng đến trong hàng môn đệ của cụ mỗi nhà đều có treo một tờ giấy viết sáu chữ, giữa “Trung thiên”, tả “Tiên thiên”, hữu “Hậu thiên”, để hàng ngày chiêm ngưỡng.
Vì số người lui tới với cụ ngày càng đông, vì vấn đề “Trung thiên dịch” trong dân chúng cứ thầm thì bàn tán, nhà chức trách địa phương lo sợ câu chuyện Võ Trứ lại phục sinh, bèn ra lịnh bắt cụ Cao Vân và một số đồ đệ mà họ cho là những người quan trọng đem tống giam ngay vào ngục Phú Yên, và đồng thời khám xét khắp xã thôn, nhà nào có thờ “Trung thiên dịch” cũng bị bắt và tịch thu ngay giấy tờ ấy đưa về các phủ, huyện.
Lần này cụ Cao Vân, cụ bà và đệ tử Nguyễn Nhuận đều bị hạ ngục cả.
Giặc Võ Trứ hạ màn, chưa đầy ba năm tỉnh Phú Yên lại xảy ra một vụ biến cố nữa. Như thế quan cai trị địa phương không tránh khỏi sự khiển trách của triều đình Huế; thế nên bố chính Bùi Xuân Huyến càng cáu tiết, bắt cụ Cao Vân tra tấn ngay.
Lần này không xét bắt được một bằng cớ gì liên quan đến quốc sự, nên Bố chính Bùi lại quay về tra khảo cụ Cao Vân về vụ “Trung thiên dịch” mà bố chính cho là hoặc thế vu dân xúi dân phiến loạn.
Chiều hôm ấy, lính điệu cụ Cao Vân đến dinh bố chính. Trước công đường có trải chiếc chiếu để cụ viết lời khai, tình cờ con cóc đâu nhảy vào chiếu. Bố chính Bùi bảo cụ Cao Vân: “Nghe anh có tài làm thi giỏi, anh hãy thử vịnh bài thi con cóc kia xem!”
Cụ Cao Vân suy nghĩ trong chốc lát, viết ra tám câu thi:
“Muôn vật thân ta nghĩ lại càng...
Nỗi mình trông thấy cóc ngồi hang.
Áo sồi một tấm trời che đậy,
Hang thẳm mấy từng đất mở mang.
Giếng ếch nõ thèm đua lặn hụp,
Cung Thiềm riêng ở mặc nghinh ngang.
Nghiến răng sấm dậy chừng ra cửa,
Lưỡi quét xong ruồi kiến thảy tan”.
Bố chính Bùi nổi giận lôi đình, cho bài thi ấy có ý mỉa mai và ngạo mạn, truyền lính đem cụ Cao Vân ra đánh và bắt cụ phải khai.
Vụ khai này suốt mấy ngày trời mà vẫn chưa xong, phải khai từ lý do nào có “Trung thiên dịch” và phải bàn về nghĩa lý của thuyết dịch ấy.
Khai đi khai lại mãi, lời khai dài hằng mười mấy tờ giấy đại. Đại khái những đoạn nói về khởi đoan của sách “Trung thiên dịch” ấy người ta còn truyền đọc mấy câu:
“Vãng Ngũ Hành sơn, ngộ nhất lão ông, hậu, đái nhất thanh đồng, tả chấp thư nhất quyển, hữu chấp liên nhất hoa, thả bộ thả ngâm, đoan tọa thạch bàn thượng...............
.................................
Truyền thọ ‘Thiên thư’ tam quyển..............
Hựu viết: ‘Ngô nãi đông, tây, nam, bắc nhân, ngô hiệu nang danh...’
Nghĩa là:
“Đến núi Ngũ Hành, gặp một ông già, dắt theo một thanh đồng, tay trái cầm quyền sách tay phải cầm hoa sen, vừa đi vừa ngâm, rồi nghiêm trang ngồi lên tảng đá............
......................
Ông già ấy trao cho ba quyển ‘Thiên thư’...
và bảo: ‘Ta là người đông, tây, nam, bắc, tên ta khó nói là gì...!’
Bố chính không tin, cho là nhưng lời bịa đặt. Cùng nước, bố chính dùng đến khổ hình tra tấn cụ Cao Vân và các môn đệ, nhưng, thủy chung lời khai vẫn không thay đổi. Đến lượt cụ bà cũng bị mấy chục roi da, máu rơi thịt nát! Nỗi thống thiết ấy, trong lời “Tự thuật”, cụ Cao Vân có mấy câu:
“Mắt nhìn trẻ tay cầm gông đỡ,
Đau ruột vì nghĩa vợ tình con.
Mẹ cha luống những hao mòn,
Đẻ thằng Tứ Hải nước non mong nhờ.
Nào hay mưa gió mịt mờ,
Mình đương gánh khổ ra cơ hội này”.
............................
Vụ tra tấn kết liễu, bố chính Bùi Xuân Huyến kết tội cụ Cao Vân dùng “yêu thơ yêu ngôn” xúi dân phiến loạn, tuyên án tử hình! Bản án tư bẩm về triều đình Huế xin phê chuẩn. Còn gia quyến cụ Cao Vân giải về giam ở ngục Bình Định.
Triều đình Huế lúc bấy giờ trong hàng các quan nhiều người cỏ cảm tình với cụ Cao Vân, họ muốn che chở cụ, bằng tìm những lẽ bác bỏ cái án tử hình của tỉnh Bình Định. Cho tất cả hành động cụ Cao Vân chỉ có tính cách mê tín, chứ chưa có gì can hại đến quốc chính. Tuy thế, cụ Cao Vân cũng phải bị cái án ba năm khổ sai; cụ bà, Nguyễn Nhuận và các môn đệ, mỗi người hai năm, một năm, hoặc năm, bảy tháng tù ở; đến thân sinh cụ cũng phải bị phạt 40 đồng về cái tội cha, anh không dạy dỗ con em...
Cụ Cao Vân ở ngục Bình Định được tin thân sinh cụ cũng bị liên lụy, bị xét nhà, bị phạt vạ, cụ vô cùng thống thiết, đã thốt ra mấy câu trong bài “Tự thuật”:
“Bốn mươi trự [3] chẳng nghèo là mấy,
Phạt vạ này ai thấy không thương.
Nợ con cha trả lạ dường!”
.............................
Lúc này tuy dấn thân trong chốn lao tù, cụ Cao Vân thì bị đau ghẻ, cụ bà lại bị sốt rét liên miên, nhưng còn được may mắn là vợ chồng, cha con, thầy trò được đoàn tụ, lại có cả anh em dân tăng là những đồng chí cũ bị tù từ vụ Võ Trứ còn lại cũng được gặp gỡ. Bên ngoài thì trong hàng lính tráng; cai, đội, một số môn đồ cụ, họ tìm cách che chở cho nhưng anh em môn đồ các tỉnh đi lại dễ dàng để viếng thăm và tiếp tế các thức dùng đầy đủ. Như thế, mặc dù mất cả tự do, nhưng khách ưu thời cũng vui được với những phút cao hứng trong chốn khám đường; cao hứng đến thỉnh thoảng cụ Cao Vân lại ngâm lên bài thi còn nhớ được hai câu rất lý thú:
“Một lỗ cùm xây vòng tạo hóa,
Hai vai gông nặng gánh kiền khôn”.
.....................
Được một năm, cụ bà và đệ tử Nguyễn Nhuận được tha trước. Ra khỏi nhà lao, nhờ các môn đồ giúp đỡ cho cụ bà thuê nhà trong thành Bình Định buôn bán nuôi các con dại. Nguyễn Nhuận thì tìm việc làm ở ngoài để phụ trợ với cụ bà và cũng để đi lại giao thông với các môn đồ cụ ở các tỉnh.
Tổng đốc Bình Định hay được môn đồ cụ Cao Vân lẫn lộn với dân chúng đi lại tụ tập trong thành lập tức ra lịnh ngăn cấm. Một mặt, những người cai, lính bị tình nghi là môn đồ cụ đều đổi vào Phú Yên hoặc các nơi. Cấm được một vài tháng, họ lại liên lạc nhau bằng cách khác, rồi cũng tụ tập trở lại như cũ. Kết cuộc phải đưa cụ Cao Vân về giam ở ngục Quảng Nam.
Được lịnh cụ Cao Vân bị đưa về Quảng Nam, cụ bà cùng đệ tử Nguyễn Nhuận, thầy trò thu xếp bán nhà cửa đồ đạc, tay dắt tay bồng ba trẻ dại theo về Quảng. Các môn đồ lo góp tiền bạc cho người mang theo để giúp cụ bà thuê đất cất một túp nhà tranh, bên ngoài cửa hậu thành tỉnh Quảng Nam để gần gũi cụ Cao Vân.
Kết luận, cái án “yêu thơ yêu ngôn” tưởng đã là lời khai tử để kết liễu cuộc đời cụ Cao Vân, đồng thời với ngày khai tử thuyết “Trung thiên dịch”, không ngờ cụ Cao Vân vẫn còn sống sót lại với cái án ba năm tù: một năm ngục Bình Định, hai năm ngục Quảng Nam.
Chú thích:
[1] Năm phát sinh vụ án này, theo tài liệu ông Trần Nguyên, đã đăng ở báo “Saigon” hồi năm 1934, cải chính với ông Phan Khôi báo “Sông Hương”, về lịch sử ký sự cụ Cao Vân.
[2] “Dịch đồ” và tài liệu tịch thu, đưa về Bộ (triều đình Huế).
[3] Trự tức là đồng bạc, tiếng nói địa phương của tỉnh Quảng Nam.