← Quay lại trang sách

- X - Sáu năm Côn Đảo.-Vụ dân Trung kỳ kháng thuế

Năm Mậu Thân (1908), tại tỉnh Quảng Nam lại xảy ra một biến cố quan trọng gây ảnh hưởng cả mười tỉnh Trung kỳ, làm cho quan lại Nam triều một phen mất vía, chính phủ Bảo hộ cũng có phần lo ngại. Ấy là vụ “kháng thuế”, mà có nơi người ta gọi là “giặc Đồng bào” hoặc “giặc Cúp tóc”.

Duyên do phát sinh vụ ấy, từ phong trào Cần vương hạ màn, tình thế nước ta lúc bấy giờ không thể còn dùng phương sách võ lực chống lại chính sách Bảo hộ một cách ồ ạt như thế nữa. Hàng sĩ phu lại quay sang con đường xuất dương vận động đưa học sinh trốn sang nước ngoài học tập; trong nước thì hô hào: “khai trí trị sinh” [1], lập học trường, lập thương hội, cắt tóc, Âu trang, vân vân. Với sự tàn ác bất công, đám dân chúng phải sống trong những ngày đau khổ đen tối dưới chế độ thừa hành của quan lại Nam triều mặc tình hống hách! Đại khái như vụ Đề đốc Trần Tuế, phủ Tam Kỳ (Quảng Nam) đánh đập dân xâu tàn nhẫn! Có lúc y ghé vào nhà bên đường nghỉ trưa, nghe trẻ con khóc, bắt chủ nhà căng thẳng ra đánh, lại còn giải về huyện tống giam! Đã thế, còn nỗi xâu cao thuế nặng, dân chúng họ cảm thấy những nỗi bất công ấy đã tạo ra một mối căm hờn trong lòng họ, nhưng họ có làm gì nổi!

Từ ngày các sách vở báo chí mới, các lời kêu gọi thống thiết của cụ Sào Nam ở hải ngoại gởi về như: “Việt Nam vong quốc sử”, “Đề tỉnh quốc dân ca”, v.v. được ngấm ngầm truyền bá trong dân chúng, tiếp đến lời “Điều trần” của cụ Tây Hồ gởi cho Toàn quyền Paul Beau kẻ vạch tình tệ quan lại Nam triều v.v... quần chúng như đã được tiêm sâu vào huyết quản họ một tia máu tự cường, làm cho họ không còn quá khủng khiếp đối với uy quyền quan lớn như trước nữa. Họ biết cách phản đối bọn quan lại tham ô bằng cách tố cáo, như học trò phủ Tam Kỳ (Quảng Nam) hợp bảy tổng kiện viên Tri huyện, và nhiều vụ khác nữa...

Từ đấy cái mầm phản đối quan lại tham ô, chống lại chế độ quá hà khắc, đã kết cấu trong lòng dân chúng, chờ có cơ hội là nảy ra.

Vào khoảng thượng tuần tháng Hai năm Mậu Thân (1908), vụ kháng thuế xảy ra trong một trường hợp bất ngờ. Đầu tiên ở huyện Đại Lộc (Quảng Nam), năm ba bác hào lý, cùng vài ba cậu học trò (Lương Châu, Trương Hoành, Hứa Tạo, người làng Phiếm Ái, Hà Tân, La Đái), nhân ăn đám dỗ ở một nhà nọ, trong lúc hào hứng cùng đem câu chuyện xâu cao thuế nặng ra bàn, rồi cùng nhau nghĩ cách làm đơn lấy ký để trình lên huyện, nhờ huyện quan bẩm tỉnh, tòa, khẩn khoản xim giảm bớt sưu thuế cho dân, kẻo nặng quá không đóng nổi.

Công việc lấy chữ ký bắt đầu tiến hành năm, bảy làng lân cận trong tổng, đã có mười lăm, mười bảy lý trưởng ký vào, không ngờ bác lý làng La Đái sinh tâm, lẻn đi báo huyện câu chuyện đầu đuôi để lập chút công lao.

Tri huyện Đại Lộc nghe bảo đen trắng chưa tường, hoảng hốt, lập tức xuống tỉnh, tòa phi báo!

Anh em chủ trương vụ lấy ký hay được lý trưởng La Đái đã báo huyện, tự biết việc không xong, nếu không kíp đến trình bày tự sự với huyện quan, không khỏi bị gán cho cái tội quần tụ thì khốn! Thế là cùng nhau thẳng lên huyện, xin vào yết kiến để bày tỏ câu chuyện xin xâu và mong huyện quan đứng ra xin giùm. Không ngờ đến huyện gặp phải quan đề bọc thơ, nghe dân kéo tới đông, lạt đật bảo lính đón lại không cho vào và truyền ra: quan huyện đã xuống tỉnh bẩm việc tụ tập của các anh rồi!

Không được vào hầu, lại nghe lính bảo như thế, anh em xin xâu nhìn nhau ngơ ngẩn, kẻ bàn thế này, người bàn thế kia; trong lúc bàn tán phân vân, một vài anh học trò đứng ra đề xướng: việc chúng ta làm, quan đã báo tỉnh, thì dù có tan về cũng không tránh khỏi tội quân tụ ký chỉ, chừng ấy chúng ta sẽ bị bắt bớ tra hỏi lôi thôi, lụy mình mà không danh nghĩa gì. Chi bằng ta cùng theo quan huyện mang đơn xuống tỉnh kêu nài, dù nguyện vong chúng ta không được thỏa mẫn, quan trên cũng hiểu được hành động của chúng ta với tính cách kêu ca, chứ không gì trái phép.

Đồng ý kéo nhau xuống tỉnh, dọc theo khoảng đường hai mươi bốn cây số từ Đại Lộc đến tỉnh Quảng Nam, hai bên làng xóm dân cư trù mật, nghe thấy đoàn người kéo đi xin xâu, họ cũng rủ nhau lục tục nhập vào; đến Vĩnh Điện, cách tỉnh một cây số, đã có hằng sáu trăm người; khi vào đến cửa thành, đã có lính vâng lịnh quan tỉnh ra ngăn lại, vẹn hỏi: dân ở đâu, kéo đến có việc gì?

Anh em dân kể chuyện dân chúng Đại Lộc theo quan huyện xin vào yết kiến cụ Tỉnh xin xâu, v.v. Lính bảo: “Quan huyện của các anh đã báo tỉnh, các anh tụ tập khởi ngụy! Bây giờ đã xuống tòa báo Sứ rồi, không cỏ ở đây!”

Anh em dân không ngờ câu chuyện hóa ra tày trời, đã đến nước này âu đành hè nhau vừa hô hào xin xâu, vừa kéo thẳng xuống tòa (Công sứ phủ).

Khoảng đường mười cây số từ tỉnh đến tòa, xã dân bên đường nghe thấy lời lẽ tuyên truyền rất hợp ý, lại thêm cảm khích với cảnh trạng cuồng nhiệt của đoàn người đương rần rộ kéo đi, họ đua nhau nhập thêm vào, mãi đến phố Hội An, số người đã lên tới hằng nghìn.

Công sứ Quảng Nam được tin Tri huyện Đại Lộc báo: “Dân Đại Lộc khởi ngụy”, tiếp đến lính tuần phi báo: “Đoàn dân ồ ạt kéo xuống đông như kiến!” Công sứ lập tức ra lịnh canh gác nghiêm nhặt, và ngăn cản đoàn dân ấy lại, truyền cho họ biết: muốn gì chỉ được phép phái đại biểu vào, không được làm náo nhiệt.

Theo lời lính truyền ra, anh em cử ba đại biểu: Lương Châu, Trương Hoành, Hứa Tạo, vào để bày tỏ với công sứ nỗi đau khổ và nguyện vọng của dân...

Ban đầu công sứ đe dọa mấy câu: “Các anh kêu ca gì thì gửi đơn đến là đủ, tụ tập thế này là các anh có ý làm loạn!” Và trả lời tiếp, đại ý việc xâu thuế, ở đây công sứ không có đủ thẩm quyền tăng giảm, dân chúng giải tán ra về lo làm ăn, chờ tư bẩm lên Toàn quyền và Nam triều sẽ trả lời sau...

Ba đại biểu ra thuật lại những lời của viên công sứ, anh em dân không bằng lòng, vì những lời hứa ấy không gì chắc chắn, nên không chịu giải tán, cứ ở lại nằn nì van nài. Công sứ ra lịnh đàn áp, bắt ba đại biểu hạ ngục, rồi chiều hôm ấy đày đi Lao Bảo tức thì! Thế là vụ xin xâu từ đấy càng sôi nổi...

Câu chuyện xin xâu đồn ra, dân chúng các phủ, huyện Quảng Nam cũng như các tỉnh khác, sẵn có một tâm sự như anh em dân Đại Lộc, nên nghe việc xin xâu, tức thì rần rần nổi lên hưởng ứng như triều nước đang dâng!

Ban đầu từ tỉnh Quảng Nam rồi lan rộng ra các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Thừa Thiên, Quảng Trị, Hà Tịnh, Nghệ An, v.v. dân chúng cứ tiếp tục rủ nhau kéo đến vây các công sở tỉnh, phủ, huyện, xin giảm xâu thuế.

Vụ này hai tỉnh Bình Định, Phú Yên mạnh mẽ nhất, nêu ra cả những khẩu hiệu “đồng bào”, và thi hành “cúp tóc”, thế nên mới có câu chuyện “giặc Đồng bào”, “đảng Cúp tóc”.

Vụ dân xin xâu, một hành động bất ngờ không tổ chức, tiếc vì quan cai trị địa phương hồi ấy không khéo dàn xếp, để xảy ra một vụ biến cố tày trời, đến không tránh được những tấn kịch thảm thiết, bao nhiêu người vô cớ bị bắn giết trong lúc hỗn loạn, hầu hết thân sĩ toàn kỳ lớp bị án tử hình, lớp bị đày Côn Lôn, Lao Bảo, làm cho sĩ dân nước ta lúc bấy giờ đối với chính sách chính phủ Bảo hộ họ càng thêm vào một mối bất bình!

Cụ Cao Vân ra khỏi ngục Quảng Nam trở về với gia đình, cái gia đình sở hữu đầu tiên và cũng là duy nhất của đời cụ, một túp nhà tranh nhỏ ngoài cửa hậu thành tỉnh Quảng Nam.

Tháng Hai năm Mậu Thân (1908), vụ dân xin xâu nổi lên một hành động mà chính cụ không hiểu biết chi cả.

Một hôm, vừa tảng sáng đã có lính đến bắt cụ tống giam vào ngục Quảng Nam mà không cho biết duyên cớ gì, mãi đến hằng tuần mới hay vì câu chuyện xin xâu! Rồi cách mấy tuần sau các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyện, Tiểu La Nguyễn Thành, Châu Thơ Đồng, Lê Bá Trinh, Trương Bá Huy và các thân sĩ khác từ nhà lao Hội An hoặc các nơi mới giải về giam ở ngục Quảng Nam để chờ ngày lãnh án. Nhờ thế mà các cụ được gặp nhau, một sự gặp gỡ bất ngờ! Thì ra, câu chuyện xin xâu cụ nào cũng không hay biết gì cả. Nhân thế, cụ Cao Vân đọc bài “Ca trù” dài, xin trích một vài câu mở đâu:

“Nhất xang ngâm sái sái,

Thiên trận bút thao thao.

Hỏi việc chi ùa! Có biết đâu nào?

Khi không thỉnh vô lao ngồi lúc ngúc.

Nào những khách triều đình, nào những

trang khoa mục,

Cục hỗn nguyên vinh nhục xáo nhất trường

Xâu một xâu ngô đạo thấy mà thương,

Thử nhân vấn bĩ thương hề thùy tạo? [2]

Phen này quyết niếu lưng con Tạo,

Mở bùng ra xin hỏi đạo đại nguyên”.

............................

Đến ngày tuyên án, tòa án Nam triều tỉnh Quảng Nam kết tội các thân sĩ, đại khái vì “hô hào dân trí, cổ vũ dân quyền”, v.v. là mầm mống xui dân dấy loạn. Tuyên án người thì năm năm, mười năm tù, kẻ thì chung thân khổ sai đày Côn Lôn, Lao Bảo, gặp ân xá không được về. Các tỉnh khác cũng tiếp tục có những phiên tòa tuyên án kết án như thế.

Vụ án này có cái chết của hai nhà chí sĩ Quảng Nam, Trần Quý Cáp (Trần Nghị), Châu Thơ Đồng (Châu Thượng Văn), là cái chết vô cùng cảm động.

Cụ Trần Quý Cáp, một tay cừ khôi trong giới cựu học, lại cũng là một lãnh tụ đề xướng tân học, chính vì tính cụ ngay thẳng, làm cho giới quan lại hồi ấy sẵn có mối ác cảm đối với cụ. Nhân vụ dân xin xâu nổi dậy, chúng tạo ra những bằng cớ vu khống cho cụ để kết cho cụ án tử hình rồi đưa lên đoạn đầu đài; sau mới tư bẩm triều đình Huế.

Cụ Châu Thơ Đông, lại cũng một tay cự phách trong giới cách mệnh lúc bấy giờ, là bạn chí thân với cụ Sào Nam và cụ Tiểu La. Gặp vụ dân biến ấy, cụ khẳng khái đứng ra đảm nhận hết các việc đều do mình suất sử, rồi cụ tuyệt thực hai mươi hôm, chết tại lao Phủ Thừa (Huế).

Trước cái chết bi thảm ấy, cụ Cao Vân có câu đối khóc cụ Châu:

“Ngã bất năng xã sinh! Nại hà tại ‘Trung thiên dịch’ sơ khai, Dũ lý thất niên tiền vị diễn.

Quân nãi năng tựu nghĩa! Nan đắc giả vạn thế kinh độc thủ, Thú dương thiên tải hậu du văn”.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng dịch nôm:

“Ta có tiếc sống đâu! Ngặt vì dịch ‘Trung thiên’ mới mở đầu, Dũ lý bảy năm chưa kịp diễn.

Người hẳn theo nghĩa đấy! Khó nhất kinh muôn đời hay giữ chắc, Thú dương nghìn thuở vẫn còn nghe”.

Án đã kết thành, đến ngày 8 tháng Tám năm Mậu Thân (1908) mới bắt đầu có những chuyến tàu tiếp tục đưa các thân sĩ ra đày ở Côn Lôn.

Ở Quảng Nam, riêng cụ Cao Vân vì những hành động dĩ vãng của cụ đều xảy ra trên đất Bình Định, Phú Yên, nên còn chờ để tra hỏi thêm hai tỉnh ấy rồi cũng kết án khổ sai chung thân, qua năm sau (năm Kỷ Dậu - 1909) mới đày cụ ra Côn Đảo [3].

Lần này cụ Cao Vân đặt chân lên đất Côn Lôn mang theo huy bài chung thân khổ sai, là một lần đi vĩnh biệt, không phải như ngày từ biệt gia hương trước kia, thế nên cụ không tránh được bao nỗi nghĩ ngợi băn khoăn! Nghĩ đến Tổ quốc đương trong những ngày đen tối, công cuộc vận động giải phóng biết bao giờ mới thành công!?

Nghĩ đến gia đình, nhà còn thân sinh tuổi độ bảy mươi, trong những lúc yếu đau, ai là người sớm hôm quạt nồng đắp lạnh!

Nghĩ đến các môn đồ đồng chí, người góc bể kẻ chân trời, rời rạc tan tác! Những phút hoài cảm thê lương ấy, cụ đã ngâm lên bao bài thi, lời văn vừa hùng tráng, vừa bi cảm, xin chép vào đây hai bài để chứng cho tâm tình cụ trong lúc ấy, và cũng để kết luận mục “Sáu năm Côn Đảo”.

Bài thứ nhứt

“Vấn dư hà sự đáo Côn Lôn?

Tứ vọng thương mang ỷ ngục môn.

Trung quốc vị thù nam tử trái!

Hiếu gia du hám lão thân tồn!

Ngư thơ hải ngoại truyền tâm huyết,

Kình hống thiên biên tỉnh mộng hồn.

Hồng lạc hồi tư khai Việt tổ,

Thử thân thệ hữu thử kiền khôn!”

Xin dịch nôm:

“Cớ gì ta lại đến Côn Lôn?

Trời bể mênh mang tựa ngục trông.

Thù nước chưa nguôi cơn báo phụcl

Thảo thân khôn thấu nỗi hàn ôn!

Cá đi muốn gửi lời tâm huyết,

Sóng vỗ như khua giấc mộng hồn.

Nhớ tổ Lạc Hồng công dựng nước,

Thân này thệ nguyện với kiền khôn!”

Bài thứ hai

“Phương châm vị định thốn tâm huyền,

Đa tích nhiệt thành dĩ hữu niên.

Bất đáo Côn Lôn chân lạc địa,

Yên tri hoàn hải đại toàn thiên.

Ngô đồ lạc lạc hưu đa thán,

Tạo chủ thương thương tự hữu quyền.

Tối thị anh hùng ma luyện xứ,

Cổ kim kỳ cục hựu kỳ duyên”.

Xin dịch nôm:

“Phương châm chưa định dạ chưa yên,

Tâm sự bao năm chửa phỉ nguyền.

Chẳng đến Côn Lôn nơi thắng cảnh,

Biết đâu hoàn hải cõi toàn thiên.

Khuyên cùng bè bạn đừng ta thán,

Đã có cao xanh tự chủ quyền.

Rèn đúc anh hùng đây đã sẵn,

Nghìn xưa kỳ cuộc cũng kỳ duyên”.

Chú thích:

[1] Mở mang học hành, nâng cao đời sống.

[2] “Nguyên nhân ấy chỉ có hỏi trời ai gây nên”. Vì không cụ nào hiểu biết gì cả.

[3] Tài liệu dân Trung kỳ kháng thuế trích ở “Di cảo” cụ Huỳnh Thúc Kháng.