- XI - Gặp vua Duy Tân
Ở vào thời đại chế độ quân chủ chuyên chế đương cực thịnh, vua là đấng chí tôn chí quý, đối với thần dân như trời với vực! Thế mà tiếng gọi của non sông là một sức mạnh thiêng liêng đã lướt qua bao lớp thành trì cung điện để làm môi giới cho cuộc gặp gỡ giữa vua Duy Tân và hai nhà chí sĩ, hơn nữa, hai người công dân: Trần Cao Vân, Thái Phiên.
Duyên do đưa đến cuộc gặp gỡ ấy, trước hết xin kể qua vua Duy Tân, một nhân vật liên quan với tập sử này.
Vua Duy Tân tức Hoàng tử Vĩnh San, con thứ của Hoàng đế Thành Thái, một ông vua sẵn có tư chất thông minh, tinh thần khẳng khái hoạt bát, thích tự do, trọng chính nghĩa, như phần đông bạn đọc đã biết. Ông vua ấy lại sinh trưởng phải hoàn cảnh xã hội đến lúc tiêu trầm đen tối; bao nhiêu những nỗi bầm gan, tủi nhục, ích kỷ, bất công, bao trùm đầy nghẹt cả người vua!
Nào những biến cố của gia tộc, từ vua Tự Đức nhắm mắt, triều chính ngày một khuynh đảo, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn văn Tường tự quyền phế lập bỏ vua Dục Đức còn bắt hạ ngục đến đói mà chết! Vua Hiệp Hòa lên nối ngôi được bốn tháng rồi cũng bị hạ ngục, ép phải uống thuốc độc mà chết! [1] Vua Hàm Nghi phải bỏ ngôi! Đến đức phụ hoàng (vua Thành Thái) của nhà vua cũng bị đày! Trước bao tấn kịch thảm khốc thê lương đã diễn ra, tưởng trong lịch sử hoàng tộc xưa nay chưa từng có, thì bảo ông vua thông thái ấy không tím ruột bầm gan làm sao được?
Nào những đau buồn của dân tộc, mỗi lần trông ra dãy non sông hùng vĩ từ Bắc chí Nam, trải bao đời các đấng tiên vương anh hùng đã phải hy sinh bao nhiêu huyết hãn mới mở mang chống giữ được, thì non sông gấm vóc ấy ngày nay nhà vua tự thấy mình không được hoàn toàn tự chủ! Như thế không tủi nhục làm sao được?
Nào những tình tệ của quan lại, những đau khổ của quốc dân, bao nhiêu nỗi ấy đập mạnh, kích thích mạnh vào tâm trường nhà vua, giục nhà vua phải tiến thân trên con đường cách mệnh chống lại chính sách bảo hộ giữa thời đương cường thịnh.
Muốn thực hành ý chí ấy, muốn tiếp xúc với các nghĩa sĩ cần vương, và cũng muốn khuây khỏa bao nỗi u hoài trong thâm cung, nhà vua tỏ ra bực bội muốn đi lại đó đây. Triều đình và chính phủ Bảo hộ chiều ý nhà vua, bày lập lương đình ở cửa Tùng (tỉnh Quảng Trị) để nhà vua nghỉ mát. Nhờ thế mà vua mới có dịp gặp ông Khóa Bảo, một nhân sĩ cách mệnh ở chợ phiên Cam Lộ [2], nhờ thế mà nhà vua càng được thấu đáo nhưng nỗi lầm than của quốc dân! Các nhân sĩ cách mệnh lúc bấy giờ cũng nhờ có cơ hội ấy mới hiểu thêm được ý chí nhà vua và từ mối tương thông tương cảm ấy đưa đến cuộc gặp gỡ sau này...
Hội “Việt Nam Quang Phục”
Cuộc Cách mệnh Tân Hợi (1911) thành công, dân tộc Trung Hoa đứng lên phất cờ dân chủ, nền đế chế Mãn Thanh bị sụp đổ! Trước cảnh trạng nô nức ấy giục thúc các nhà cách mệnh ta còn đương bôn lưu ở hải ngoại càng thêm băn khoăn nghĩ đến nước mình!
Năm 1912, cụ Sào Nam từ Xiêm sang Tàu hội họp các đồng chí tại Quảng Đông, thành lập hội “Việt Nam Quang phục” để vận dụng về nước.
Âu chiến bùng nổ năm 1914, đến năm 1915 khói lửa chiến tranh đương đỏ rực phía trời Âu, miền Đông bắc nước Pháp bị quân Đức uy hiếp mãnh liệt! Tình thế ấy cố nhiên nước Pháp phải lo thu cả toàn lực để bảo vệ chính quốc, chẳng những phải triệu hồi các quân đội ở các xứ thuộc địa, còn phải tuyển mộ thêm binh lính các xứ ấy nữa.
Chụp lấy thời cơ, lúc bấy giờ ở nước ta các đảng bộ cách mệnh dưới sự điều động gián tiếp của hội Quang Phục ở hải ngoại, các nhóm thân sĩ mặc dù trải qua những cơn khủng bố đến phải rời rã, ngày nay cũng bắt đầu hoạt động lại. Trong số ấy, đảng bộ Quảng Ngãi có phần khá hơn, nên ở Quảng Ngãi họp nhau cử dại biểu sang Xiêm để quan sát tình thế và cũng để liên lạc với hội Quang Phục ở Tàu [3].
Trước tình thế ấy, không hiểu những người Đức họ sẵn có cảm tình với các nhà cách mệnh Việt Nam, hay là ngón chính trị khôn khéo của họ muốn mượn tay các nhà cách mệnh Việt Nam cũng như các nhà cách mệnh khác để xúi dân chúng các xứ thuộc địa Pháp nổi lên chống lại chính phủ Bảo hộ, làm cho lực lượng nước Pháp phải bị chi phối nhiều nơi, như thế là để giúp họ hoàn thành cái chiến thuật dương đông kích tây? Thế nên mới có câu chuyện muốn gặp lãnh tụ cách mệnh Việt Nam để bàn việc viện trợ của viên lãnh sự Đức ở Xiêm, mà cụ Đặng Tử Kính viết thư cáo báo với cụ Sào Nam.
Lúc bấy giờ cụ Sào Nam ở Quảng Đông đương bị Long Tế Quang bắt hạ ngục. Mặc dù trong cảnh lao lung, nhưng cụ vẫn quan tâm theo dõi thời cuộc, nên lúc nhận được thư cụ Đặng Tử Kính gởi đến, cụ lập tức viết thư phúc đáp và giới thiệu cụ Mai Sơn Nguyễn Thượng Hiền sang Xiêm điều đình.
Kết cuộc lãnh sự Đức chỉ biếu cho các nhà cách mệnh Việt Nam một vạn bạc để tỏ tình thân thiện, và mong các nhà cách mệnh Việt Nam hãy cố làm làm sao có sự vang động ra để chính phủ Đức được biết, chừng ấy sẽ có sự viện trợ chính thức nhiều hơn.
Một vạn bạc dùng vào công việc quân binh thật nó có ăn thua vào đâu. Các nhà cách mệnh ta lúc bấy giờ cũng thừa hiểu như thế, nhưng vẫn cố áp dụng thủ đoạn phi thường trên con đường tranh đấu cố gây một biến cố trong nước để mong nhờ sư viện trợ chính thức của chính phủ Đức, thế nên nhận một vạn bạc ấy bỏ ra mua sắm quân khí, thu cả tàn lực tổ chức ba đội quân kéo về biên giới Bắc Việt đánh vào.
Phương lược tiến quân chia làm ba ngả. Đội quân thứ nhất dọc theo lối Đông Hưng về tấn công vùng Mông Cáy, do cụ Nguyễn Mạnh Hiếu chỉ huy. Đội thứ hai dọc theo ngả Long Châu tiến về khắc phục vùng Lạng Sơn, do cụ Mai Sơn Nguyễn Thượng Hiền điều động. Đội thứ ba kéo về Hà Khẩu để đột nhập Lào Kay, do cụ Hoàng Trọng Mậu suất lãnh. Nhưng lúc ấy cụ Hoàng Trọng Mậu ở Vân Nam, vì một ý kiến riêng nên không nhận lãnh; đội quân ít chục người ấy lại do hai cụ Võ Mẫn Đình, Nguyễn Hải Thần kéo về đánh một đồn binh Pháp ở Tà Lùng, gần Lạng Sơn [4].
Trong năm ấy, hai đại biểu của đảng bộ Quảng Ngãi nhận huấn lịnh từ Xiêm trở về nước báo cáo tình trạng ở nước ngoài. Tiếp đến tin bí mật từ hải ngoại gởi về do cố đạo Bàn Gốc trao lại. Các đảng bộ trong nước nỗ lực hoạt động chuẩn bị, chờ đến mùa đông năm Ất Mão (1915) nổi lên làm nội ứng với ba đội quân ở Tàu kéo về [5].
Được ân xá
Cụ Cao Vân ở Côn Đảo được sáu năm; nhờ có sự vận động của các người đệ tử, và những người có cảm tình với cụ như Tổng đốc Tạ, lãnh binh Lê, là hai nhân vật có thế lực đối với triều đình Huế hồi ấy, lại hiện đương trấn nhậm tỉnh Quảng Nam, nên cụ được ân xá.
Theo chuyến tàu đưa tù ở Côn Đảo về, hai cụ Cao Vân, Trương Bá Huy được đưa về đến nhà giam Hội An (Quảng Nam), nhằm bữa chiều 30 tháng Chạp năm Quý Sửu (tháng Giêng 1914). Sáng ngày mồng một Tết năm Giáp Dần, cụ Cao Vân được gặp mặt cụ bà, các con và những người thân trong gia tộc tại Hội An.
Còn được trở lại quê hương, còn được gặp mặt các người thân trong muôn nghìn sự bất ngờ, còn chi vui mừng hơn nữa! Nhưng đối với cụ Cao Vân thì nỗi vui chưa thỏa, nỗi buồn lại vương! Vì cái tin thân sinh cụ đau nặng, bệnh tình đương lúc nguy kịch, làm cho cụ tê điếng cả người! Thế mà còn phải chờ đợi ở nhà giam Hội An hằng một hai tuần, giấy tờ bẩm báo xong xuôi mới thẳng về quê được.
Ngày 30 tháng Giêng năm Giáp Dần, thân sinh cụ tạ thế, bao nỗi buồn thương ân hận càng giày xéo trong tâm trường cụ, làm chọ cụ không thể quên được nghĩa vụ của người con...!
Từ ngày từ biệt gia hương hai mươi tuổi đầu, đến nay gần năm mươi tuổi, hai mươi chín năm trời mới có được cái thời gian mười tám ngày gần gũi bên cạnh cha già, thì đấng từ phụ ấy cũng vội vàng vĩnh biệt, còn mong gì thù báo trong muôn một với công ơn sinh thành ấy!
Thật sinh đứng làm trai phải lúc nước nhà tai biến, hiếu thân, trung quốc, không làm sao được vẹn toàn!
Lễ tống táng thân sinh cụ xong, cách ít tháng sau, tiếng gọi non sông lại giục thúc cụ phải ra hoạt động. Anh em đảng bộ Quảng Ngãi mời cụ tham gia tổ chức để cùng điều động công cuộc cách mệnh... Mặc dù thời gian qua, đã mấy năm cụ không có mặt trong nước, nhưng các tổ chức của các môn đồ cụ vẫn còn nhiều và vẫn được chặt chẽ, nhất là hai tỉnh Bình Định, Phú Yên. Thế nên sau những cuộc hội họp, cụ lập tức ủy thác ông Lương, Thái Hòa, người làng Kim Bồng, phủ Điện Bàn (Quảng Nam), là đệ tử thân tín cũng một tay tổ chức rất giỏi, để liên lạc với các môn đồ các tỉnh miền Trung. Một mặt, cụ phái ông Thừa Phong (Nguyễn Đức Đạt), người làng Miếu Bông, huyện Hòa Vang (Quảng Nam), cũng một đồ đệ tâm phúc, hơn nữa, một ông bạn chí thân của cụ, để vào Nam kỳ quyên góp tiền bạc v.v...
Cố bành trướng lực lượng cách mệnh trong nước để kịp hưởng ứng với cuộc khởi nghĩa của quân cách mệnh hải ngoại theo ngày giờ đã hứa hẹn, không ngờ ba đội quân ấy bị thất bại, các tổ chức trong nước đành phải nằm êm.
Cuối năm 1915, tình thế Âu chiến càng quyết liệt, quân đội Đồng minh bại trận, quân Đức vượt qua sông Aisne ồ ạt toan tiến vào kinh thành Paris. Lúc bấy giờ các nhà cách mệnh ta dòm được thanh thế nước Pháp ngày một suy kém, ở nước ta lại diễn ra câu chuyện tuyển mộ thêm binh lính làm cho dân tình ta thán! Thừa cơ, các đảng bộ Việt Nam Quang Phục tức tốc triệu tập hội nghị toàn kỳ, để trù liệu thêm phương sách hoạt động.
Cuộc hội họp này tại nhà ông Đoàn Bổng, một viên thư lại bộ Hộ, ở đường Đông Ba (Huế), có mặt các cụ Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thành Tài, Đỗ Tự (Quảng Nam), Lê Ngung, Nguyễn Mậu, Lê Triết (Quảng Ngãi), Đoàn Bổng (Thừa Thiên), Phan Phù Tiên (Quảng Trị), Nguyễn Chính (Quảng Bình)... Thảo luận suốt mấy ngày trời, đến khoản chính thể, kẻ chủ trương quân chủ, người dân chủ, kết cuộc đều công nhận: phải căn cứ vào hoàn cảnh và trình độ quốc dân làm căn bản, thế là đồng thinh đưa ra khẩu hiệu: “Phụng Kim thượng vi an dân cơ sở” (rước vua Duy Tân tham gia vào công cuộc cách mệnh để yên lòng dân). Và phân phát công tác: các cụ Trần Cao Vân, Thái Phiên lo việc tiếp xúc vua Duy Tân. Nguyễn Thụy, Lê Đình Dương giao thiệp với cố đạo Bàn Gốc để mật giao với thiếu tá người Đức hiện đương chỉ huy quân đội Pháp đóng ở đồn Mang Cá (Huế). Lê Ngung thảo tờ hịch. Nguyễn Chính ủy viên củ soát, v. v... [6].
Tiếp xúc vua Duy Tân
Tâm sự và ý chí vua Duy Tân, lúc ấy ai cũng đoán hiểu được, nhưng đến câu chuyện tiếp xúc với vua, thật một việc rất khó. Hai cụ Cao Vân, Thái Phiên phải bỏ ra một số tiền vận động cho tên tài xế của nhà vua thôi việc, đặng đưa Phạm Hữu Khánh vào thay.
Phạm Hữu Khánh là một đảng viên ưu tú, lại cũng một thanh niên có tài năng lỗi lạc, vào nhận việc tài xế chỉ trong thời gian đã dọ hiểu được tâm ý nhà vua, và cũng đã làm cho nhà vua cảm mến. Một hôm, nhà vua đương đi lại trong nội với cử chỉ hiện ra vẻ bực tức, Phạm Hữu Khánh đến dâng cho nhà vua phong thư của cụ Cao Vân. Thư ấy kể qua tình trạng của nước của dân với những lời lẽ lâm ly cảm khích! Đại khái có câu:
“Tha Mỹ quốc hắc nô chủng tộc, ngũ thập niên du khả tự cường; huống ngô dân Hoàng đế tử tôn, nẫm ngũ triệu khởi cam chung nhược!”
(Kìa nước Mỹ dòng giống rợ đen, năm mươi năm còn có thể tự cường; huống dân ta con cháu nhà vua, hai mươi lăm triệu nỡ đành hèn yếu!)
Và câu:
“Thiên khải thánh minh hữu bài Pháp hưng binh chi chí. Địa sinh tuấn kiệt hữu truất dân thảo tặc chi quyền”.
(Trời sinh vua thông minh sẵn có cái chí cử binh chống Pháp. Đất sinh người tài giỏi có quyền đuổi giặc thương dân).
Đến đoạn thống trách chính phủ Bảo hộ lại có câu:
“Phụ hoàng Hoàng đế hà tội kiến thiên? Dực Tôn [7] tôn lăng hà cớ kiến quật?”
(Đức vua cha của ngài vì tội gì mà bị đày? Lăng tẩm vua Dực Tôn vì cớ gì mà bị bới?)
Đọc xong thư ấy như lửa đốt tim não, như đao cắt ruột gan! Nhà vua tức tốc cho vời cụ Cao Vân và chỉ định nơi sẽ gặp [8].
Vào khoảng đâu năm 1916, do sự liên lạc và hướng dẫn của viên đội thị vệ Nguyễn Quang Siêu (Đội Siêu) và tài xế Phạm Hữu Khánh, hai nhà cách mệnh Trần Cao Vân, Thái Phiên đã làm người câu cá, lẻn vào Hậu Hồ [9], đúng theo giờ đã định, vua Duy Tân cũng vi hành đến đó. Hai nhà cách mệnh bày tỏ tình thế trong nước và ở hải ngoại... tâu rõ đầu đuôi công cuộc tổ chức chuẩn bị khởi nghĩa.... Nhà vua rất đồng ý, hứa sẽ ban mật dụ cho tiện việc thi hành, và khuyên các nhà cách mệnh nên hành động gấp gấp kẻo trễ mất cơ hội...
Để kết luận câu chuyện gặp vua Duy Tân, để góp vào kho sử liệu một vài tài liệu về cuộc gặp gỡ này mà các nhà chép sử mỗi người chủ trì một thuyết, tham khảo kỹ lại theo “Di cảo” cụ Huỳnh Thúc Kháng, theo tài liệu của soạn giả Mãn Khánh, thì cuộc gặp gỡ lịch sử này tại hồ Tịnh Tâm, nhưng căn cứ theo lời án của triều đình thì lại chính ở Hậu Hồ, và Hậu Hồ mới chính là nơi đính ước của cuộc cách mệnh năm 1916.
Chú thích:
[1] Tài liệu trích ở tập “Phan Đình Phùng”, trang 42.
[2] Tài liệu báo “Cải Tạo”, trang 5, số 95, xuất bản 29-4-50, ở Hà Nội.
[3] Tài liệu Âu chiến trích ở báo “Tiến Hóa”, trang 8, số 6, ngày 21-5-48, tại Huế.
[4] Tài liệu hội Quang Phục trích ở tập “Tự phán”, di cảo của cụ Phan Sào Nam.
[5] Tài liệu trích báo “Tiến Hóa”, trang 8-9, số 6, xuẩt bản ngày 21-5-48.
[6] Tài liệu trích ở tạp chí “Tiến Hóa”, số 7, trương 6, xuất bản ở Huế, và tham khảo ở báo “Cải Tạo”, trang 12, số 95, xuất bản tại Hà Nội.
[7] Dực Tôn là vua Tự Đức.
[8] Tài liệu tham khảo ở báo “Tiến Hóa”, số 7, trương 7, xuất bản ở Huế, và “Cải Tạo” số 95, trương 12, xuất bản tại Hà Nội.
[9] Xem lời án của triều đình Huế, ở sau.