← Quay lại trang sách

- XII - Cuộc cách mệnh năm 1916

Năm 1916, dân tộc Việt Nam đã cùng Hoàng đế Duy Tân đứng lên chống lại chính sách Bảo hộ bằng phương sách cách mệnh bạo động, một cuộc cách mệnh toàn diện không riêng cho một giai cấp nào, từ vua, quan đến các giới thân hào, thân sĩ, các cấp tư sản, quân nhân, nông dân... đều triệt để tham gia. Cuộc cách mệnh ấy tượng trưng cho tinh thần của một dân tộc thích tự do, muốn độc lập!

Các phương sách tăng cường hoạt động để thực hiện cuộc cách mệnh ấy, sau ngày gặp vua Duy Tân, các cụ Cao Vân, Thái Phiên, Tú Ngung, Cử Sụy thương lượng triệu tập các yếu nhân toàn kỳ khai hội tại nhà một đồng chí ở chợ Cầu Cháy, làng Xuân Yên, tỉnh Quảng Ngãi, để đem ý kiến vua Duy Tân ra thảo luận, để trù liệu kế hoạch phát triển đảng lực, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa.

Buổi họp suốt ngày đêm, sau những cuộc thảo luận ráo riết, toàn thể đồng ý đưa ra quyết nghị. Đại khái về nội bộ:

a) Củ soát và chỉnh đốn thêm chặt chẽ các tổ chức trong các tầng lớp dân chúng từ mỗi địa phương, các tổ chức trong các cấp lính Nam triều, Bảo hộ, nhất là đội lính mộ sắp đưa sang Pháp tùng chinh, trông cậy vào lực lượng binh sĩ ấy sẽ quay súng lại làm chủ lực tiền phong cho quân cách mệnh.

b) Tổ chức sẵn sàng bộ máy hành chính cai trị trong bóng tối, chờ sẽ thay thế vào các cấp quan lại Nam triều, Bảo hộ, trong lúc chính quyền về tay cách mệnh.

c) Huy động cả sức người và tiền của để sung vào công cuộc chế tạo võ khí, mua sắm quân nhu, quân phục, và tạm đúc bốn cái ấn kinh lược: 1 - Bình Trị, 2 - Nam Ngãi, 3 - Bình Phú, 4 - Khánh Thuận [1], để dùng vào các giấy tờ chỉ thị.

Về ngoại giao: phái người sang Xiêm vận động với viên sứ thần Đức cầu nhờ sự viện trợ võ khí...

Hoạt động trong thời gian ngắn, lực lượng đã bành trướng hầu khắp các tỉnh Trung kỳ, nhất là Quảng Nam, Quảng Ngãi thì kiện toàn hơn cả.

Sở dĩ thu được kết quả mau chóng như thế, một phần nhờ thời cuộc Âu châu lúc bấy giờ không một ai không nhận biết; một phần nhờ sự nhiệt liệt tham gia cách mệnh của vua Duy Tân, nhà vua bí mật ban hành chiếu chỉ, vả các giấy tờ tổ chức cũng được nhà vua chấp thuận đóng ấn “Văn lý mật sát”, nhờ thế mà lòng dân càng tin tưởng hăng hái sôi nổi; các phần tử dư đảng Cần vương, Văn thân, các giới tư sản phú hào đến một phần trong hàng quan lại cũng triệt để ủng hộ cách mệnh.

Quyết định ngày khởi nghĩa

Vì sự giục thúc của vua Duy Tân, - nhà vua đã quyết định đêm mồng một tháng Tư năm Bính Thìn (ngày 3-5-1916) khởi nghĩa - vì sự giục thúc của anh em lính mộ - một đội lính chịu ảnh hưởng cách mệnh và được tổ chức chặt chẽ hơn hết; đội lính ấy ước hơn nghìn người, lúc bấy giờ đương tập trung tại thành Huế và gần đến ngày xuống tàu sang Pháp - vì những lẽ ấy mà đại hội toàn kỳ buộc phải tức tốc khai hội lần thứ hai tại kinh đô Phú Xuân (Huế), vào khoảng trung tuần tháng Ba năm Bính Thìn, để kiểm điểm lại lực lượng và ban hành kế hoạch khởi nghĩa. Mặc dù trước ngày họp ấy, tại nhà ông Lâm Nhĩ, làng La Châu, huyện Hòa Vang (Quảng Nam), có mặt các cụ Thái Phiên, Phan Thành Tài... cụ Cao Vân đã tỏ ý còn chần chờ chưa muốn khởi nghĩa gấp [2], nhưng hôm nay trước đại hội, cụ cũng như các chiến sĩ khác là những người đã dâng mình cho non sông, thì ngày nay non sông đã thiết tha kêu gọi; trên mệnh vua hối giục khởi nghĩa! dưới lòng dân cũng giục thúc khởi nghĩa! như thế còn đợi gì? Ngày khởi nghĩa, đại hội đã tán thành theo đề nghị của vua Duy Tân, đại hội chỉ thông qua tình hình chung theo lời báo cáo của các cấp bộ toàn kỳ:

- Xét về thực lực tổng quát cũng tạm đủ.

- Xét về thực lực đơn vị thì Quảng Nam, Quảng Ngãi, đảng lực mạnh mẽ kiên cố hơn hết, nên lấy hai tỉnh ấy làm chủ lực trung kiên của cuộc cách mệnh.

- Thừa Thiên có một đội lính mộ là một lực lượng xung phong, các đội lính khố vàng, khố xanh sẽ hưởng ứng, ngoài có đội lính Bảo hộ ở đồn Mang Cá nhờ có viên thiếu tá chỉ huy người Đức sẽ điều động ám trợ.

- Quảng Trị có đội lính khố xanh do Quản Thiệu suất lãnh. Các tổ chức dân chúng do ông Khóa Bảo điều động.

- Bình Định thì thực lực trong hàng ngũ binh sĩ và dân chúng chưa được mạnh mẽ, sẽ chờ hưởng ứng với Quảng Ngãi.

Kế hoạch khởi nghĩa

1) Tổng phát động khởi nghĩa toàn diện, đúng giờ Tí ngày mồng hai tháng Tư năm Bính Thìn, khởi điểm tại kinh đô Huế, sẽ bắn súng thần công báo hiệu lịnh cho hai tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, đồng thời ở đèo Hải Vân cũng nổi lửa để báo hiệu cho hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi.

2) Huy động các đạo dân quân Thừa Thiên hưởng ứng trợ oai với các đội binh sĩ chiếm lấy kinh đô Huế.

3) Thu cả toàn lực Quảng Nam, Quảng Ngãi, dân quân hợp lực với binh sĩ chiếm giữ cửa bể Đà Nẵng để mở đường giao thông với Đức. Ngoài ra các tỉnh khác cũng theo kế hoạch bạo động cướp chính quyền như thế...

4) Vạn nhất tấn công không thắng lợi, thì đạo quân Quảng Nam rút về phía tây chiếm vùng rừng núi Bà Nà, đạo quân Quảng Ngãi kéo lên miền Gió Rứt, là những địa thế hiểm trở để làm hậu thuẫn cho những cuộc phản công [3].

5) Do sự ủy nhiệm của Việt Nam quân chính phủ [4], các yếu nhân cách mệnh mỗi người đều có công tác phụ trách điều khiển mỗi tỉnh, hai cụ Cao Vân, Thái Phiên điều động chiếm thủ kinh đô và phụ trách rước vua Duy Tân ra khỏi hoàng thành, chờ cuộc hỗn loạn bình định và chính quyền vãn hồi sẽ tôn nhà vua trở lại ngôi.

Kế hoạch đã quyết định và phân phối hoàn bị, chỉ còn chờ ngày thi hành...

Cơ mưu bại lộ

Khởi đoan từ tỉnh Quảng Ngãi, viên cai lính khố xanh Võ An, người làng Long Phụng, phủ Tư Nghĩa, hiện ngụ làng Năng An, là một đảng viên được tổ chức trong hàng ngũ cách mệnh. Vào hạ tuần tháng Ba năm Bính Thìn có lệnh quan trên đổi Võ An đi nơi khác; trước giờ cáo biệt, Võ An đến từ giã em là Võ Huệ [5], ở ngạch lính giản và hiện đương phục vụ tại dinh án sát. Trước giờ chia tay, Huệ bày bữa rượu tiễn anh lên đường, trong lúc chè chén hào hứng, Võ An không giấu được nỗi băn khoăn của mình về việc đảng, vì tình ruột thịt đối với em, An tỏ bày đại khái cho Huệ nghe, và dặn Huệ đến ngày biến động ấy nên xin phép về nhà nghỉ.

Vâng lời anh, ngày 30 tháng Ba (năm Bính Thìn), lúc hai giờ chiều, Võ Huệ vào xin phép viên án sát về thăm nhà.

Án sát Phạm Liệu nhân đã có nghe phong phanh việc hoạt động cách mệnh nhưng chưa tìm ra manh mối, nay tình cờ Võ Huệ lại xin về nhà một cách bất ngờ, án sát Phạm sinh nghi, vặn hỏi này kia. Trước uy quyền của một cụ án sát thời ấy, lính Võ Huệ trả lời luống cuống, án sát càng vặn hỏi, dùng đến lời lẽ hăm dọa, bí nước, Võ Huệ phải khai ra một cách úp mở, thế là án sát ra lịnh giữ Võ Huệ lại, chờ công sứ De Tastes và tuần vũ Trần Tiễn Hối đi kinh lý ở phủ Bình Sơn về sẽ đem việc ấy báo bẩm.

Câu chuyện Võ Huệ đến tai công sứ De Tastes và tuần vũ Trần Tiễn Hối, tức thì Võ An bị bắt về, tấn tuồng tra khảo diễn ra. An chịu không nổi, phải khai đến Trần Thiểm, người làng An Điềm, phủ Bình Sơn (Quảng Ngãi), đương giúp việc tại tòa sứ, là một đảng viên trọng yếu, vì thế mà cơ mưu bí mật của đảng bị bại lộ!

Biết được cơ mưu của đảng cách mệnh, tức tốc chiều hôm ấy công sứ Quảng Ngãi đánh mật điện cho viên khâm sứ Trung kỳ tại Huế; khâm sứ nhận được tin điện ấy, lập tức mật báo cho các công sứ các tỉnh nỗ lực canh phòng ráo riết, một mặt ra lịnh giới nghiêm, và sáu giờ chiều hôm ấy tất cả các đồn, các trại lính đồng thời có lịnh thâu súng đạn cất vào kho, các cửa đồn đóng chặt, các cơ lính người Nam bị giữ lại trong thành, ngoài các thành phố chỉ có các đội lính Tây tuần tiễu; tuy nhiên tòa khâm vẫn kín nhiệm không cho Nam triều hay biết chi cả.

Đến mồng một rạng mồng hai tháng Tư năm Bính Thìn (ngày 3.5.1916) - năm Duy Tân thứ 10 - cái đêm dân tộc Việt Nam vươn mình đứng lên tranh đấu lấy tự do, cái đêm lịch sử ấy đã ghi sâu vào gia phả nhà Nguyễn cũng như tâm hồn người dân Việt với bao kỷ niệm sâu xa!

Đêm hôm ấy, kinh thành Phú Xuân (Huế) cũng như các tỉnh thành Hội An, Đà Nẵng (Quảng Nam), Quảng Ngãi, Quảng Trị, Quảng Bình đều hiện ra quang cảnh có vẻ khác với ngày thường, làm cho các tay thủ lãnh cách mệnh sinh lòng hoài nghi, nhưng tuyệt nhiên vẫn chưa hay biết gì về việc cơ mưu đã bại lộ, nên cứ theo mật lịnh thi hành: khắp các nơi từ mỗi đơn vị phủ, huyện, các đoàn dân quân kéo nhau đến tập trung sẵn sàng ở các địa điểm đã chỉ định chờ nghe hiệu lệnh.

Hôm ấy, vào khoảng mười một giờ đêm, vua Duy Tân cải trang theo lối thường dân, do hai ông Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu hộ vệ ra khỏi hoàng thảnh, đến bến Thương Bạc sẵn có thuyền hai cụ Trần Cao Vân, Thái Phiên đón rước.

Nhà vua vừa đến Thương Bạc chưa kịp xuống thuyền thì đã gặp Phán Trứ (Trần Quang Trứ), là người hiện đương tùng sự tại tòa công sứ Thừa Thiên và cũng là người được đảng cách mênh ủy thác công việc tuyên truyền cơ lính Bảo hộ.

Sau khi gặp nhà vua, không hiểu vì lòng gian hoạt mưu phản của Trứ để lập chút công danh, hay Trứ đã dò nghe được manh mối từ tòa sứ về công việc đảng bị bại lộ, sợ lụy đến mình nên lật đật xuống đò qua sông, thẳng sang tòa khâm phi báo...?

Đêm hôm ấy, khắp các đồn trại, anh em binh lính ngôi đứng không yên, nhất là đội lính mộ ở đồn Thừa Thiên càng nôn nao bực tức! Kẻ chủ trương phá đồn, người toan leo thành ra ngoài, nhưng làm gì được! Cửa thành đã bị đóng chặt, khí giới đã bị tước sạch, lại với bao sự đề phòng cẩn thận dường ấy, dẫu có tài trí như Gia Cát Khổng Minh cũng đành phải bó tay. Thế nên đến một giờ khuya (rạng ngày mồng hai), chính cái giờ phát hiệu lệnh xuất quân, còn ai đâu để huy động chiếm lấy kinh đô! còn đâu để bắn súng báo hiệu cho Quảng Trị, Quảng Bình! Không nghe súng lệnh, làm sao đốt lửa ở đèo Hải Vân để báo hiệu cho Quảng Nam, Quảng Ngãi!

Không được lệnh báo hiệu của kinh đô, các tỉnh đành phải nằm êm, và các đoàn dân quân tụ tập ở các phủ, huyện, chờ đợi đến gần sáng rồi lần lần cũng phải tự giải tán! Duy có một vài địa phương, lòng dân quá sôi nổi, vì bọn quan lại, tổng lý tham nhũng làm nên những điều tình tệ bất công làm cho lòng dân oán ghét, như phủ Tam Kỳ (Quảng Nam), đêm hôm ấy dân chúng huy động kéo nhau đến vây đồn đại lý và phủ, bắt Tri phủ Tạ Thúc Xuyên trói lại, và một vài phủ, huyện ở Quảng Ngãi cũng có những hành vi bạo động như thế; nhưng đến sáng ngày mồng hai (ngày 4-5-1916), các đội lính Lê dương súng đạn tề chỉnh, rần rộ kéo lên khủng bố các làng, tức thì các nơi tụ họp ấy rồi cũng phải rút lui...!

Bên tòa khâm tuy hay biết trước được hành động của đảng cách mệnh, nhưng không ngờ đến câu chuyện tày trời, đêm hôm ấy Hoàng đế Duy Tân bỏ ngai vàng ra khỏi hoàng thành cùng tham gia điều động khởi nghĩa, chừng nghe Phán Trứ báo rõ đâu đuôi, hoảng hốt! Đổng lý văn phòng Le Fol cùng võ quan thẳng sang thành nội, quả thật hoàng cung bỏ trống, lật đật truyền báo Cơ mật và Lục bộ hay, thì tất cả triều đình đều kinh ngạc, ngơ ngẩn nhìn nhau như giấc chiêm bao! Tức thì tòa khâm hiệp lực cùng với Nam triều cho người mang quân đuổi theo tầm nã tướng lĩnh cách mệnh Trần Cao Vân, Thái Phiên và tìm vua đem về.

Các đội lính Nam triều, Bảo hộ chia nhau rông tìm khắp chỗ, nhưng chẳng tìm ra tăm tích nhà vua đi về ngả nào, chỉ nhặt được chiếc ấn phong lại bỏ ở đầu cầu Trường Tiền, mãi đến một vài ngày sau mới dò nghe được tông tích nhà vua còn đương ở tại một ngôi chùa trên núi phía nam kinh đô.

Được tin báo đích xác, tòa khâm cùng Nam triều lập tức phải người đến vây chặt ngôi chùa ấy, quả thật nhà vua còn lưu trú tại chùa cùng với người tùy tùng Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu, cả hai nhà cách mệnh Trần Cao Vân, Thái Phiên.

Sở dĩ nhà vua phải đi về phía Nam, vì tối hôm ấy hai cụ Cao Vân, Thái Phiên rảo qua kinh thành Huế, thành phố thiết quân luật, không một người lính Nam qua lại như những đêm khác; hai cụ tụ biết việc lớn không xong. Đến lúc rước vua xuống thuyền lại gặp Phán Trứ; hai cụ sinh nghi công việc rước vua bại lộ, nên cùng bàn kế gói ấn bỏ lại để đánh lừa quân lính đuổi theo, và tức tốc đưa nhà vua thẳng xuống làng Hà Trung, ghé trọ tại nhà một đảng viên để chờ đến giờ phát lệnh. Nhưng mãi đến ba giờ đêm vẫn lặng êm không nghe hiệu lệnh gì cả, thế là việc lớn không thành! Tiếp đến tin liên lạc báo về tình hình ở kinh đô... hai cụ Cao Vân, Thái Phiên nhìn nhau thở dài như truốt bao nỗi căm hờn phẫn uất, nhưng trước mặt nhà vua vẫn điềm tĩnh, trù tính đưa nhà vua theo đường núi cao, đi tắt vào địa điểm đã dự định ở hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi để tùy cơ sử dụng, hoặc đưa nhà vua ra nước ngoài.

Trù tính xong, hai cụ Cao Vân, Thái Phiên lật đật đưa nhà vua ra khỏi làng Hà Trung, theo đường mòn rừng núi nhắm về phía Nam thẳng tiến. Đường đi quanh co, trước mặt hiện ra bao lớp gồ ghề chơm chởm, phần thì suốt ngày đêm không ngơi nghỉ được, nhà vua tuy đương sức thanh niên tráng kiện, cũng phải mệt nhọc, nên tạm lưu lại chùa bên núi Ngũ Phong để nghỉ chân [6].

Vua tôi ra đi như một đoàn lữ khách, hành trang không có gì đáng nghi, nhưng cũng không thoát được lưới rập mật thám đã giăng bủa!

Quả thật, sáng ngày hôm sau, vua tôi sửa soạn hành lý lên đường, thì trông ngoài vườn chùa đã thấy lính tráng vây nghẹt!

Viên đổng lý văn phòng tòa khâm cùng triều thần văn võ kéo nhau vào chùa, trước cảnh nghiêm trọng ấy, nhà vua vẫn thản nhiên hỏi đáp như lúc ở triều.

Triều thần gặp nhà vua vừa mừng vừa tủi, vì trông thấy vua trong cảnh phong trần vất vả, cảm động rơi nước mắt năn nỉ mời vua trở về, nhưng đấng anh quân anh hùng ấy vẫn một mực khẳng khái, thà bị bắt, quyết không chịu nghe theo những lời ủy mị hèn nhát ấy, nhất định không về! Kết cuộc lý lẽ không thắng được sức mạnh, nhà vua bị điệu về cầm giữ ở đồn Mang Cá, các cụ Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu đưa về Huế tống giam!

Để kết luận cuộc cách mệnh năm 1916, và cũng để chứng thực cho từ những cuộc gặp gỡ đến những hành động giữa vua Duy Tân cùng các nhà cách mệnh, xin trích một vài khoản trong bản án của triều đình Huế kết tội vua Duy Tân, có câu:

“Vọng thính sàm ngôn, khuynh nguy xã tắc”.

(Nghe theo lời dua nịnh, làm cho xã tắc khuynh nguy).

Và các nhà cách mệnh phải cái tội giục vua xúi dân gây nên cuộc chính biến ấy, lời án có câu:

“Thủy nhi Hậu Hồ thùy điếu, thiện tả chiếu văn, nhi Thương Bạc đình thuyền, yêu nghinh Thánh giá. Hà Trung mạch phạn [7], Ngũ Phong kê thang, thánh thể phong trần dai bỉ bối vi chi tội nghiệt!”

(Ban đầu buông câu ở Hậu Hồ, chuyên quyền tả lời chiếu, kế đến đậu thuyền bến Thương Bạc, đón rước nhà vua. Thết vua cơm tẻ làng Hà Trung, cháo gà núi Ngũ Phong, mình rồng phải chịu giãi dầu gió bụi, tội nghiệt ấy đều bởi bọn kia gây ra).

Chú thích:

[1] Bình Trị tức Quảng Bình, Quảng Trị; Nam Ngãi tức Quảng Nam, Quảng Ngãi; Bình Phú tức Bình Định, Phú Yên; Khánh Thuận tức Khánh Hòa, Bình Thuận. (Tham khảo tài liệu ở báo “Cải Tạo”, số 95, trương 12, xuất bản tại Hà Nội).

[2] Ý kiến chần chờ của cụ Cao Vân, theo lời thuật lại của một thân sĩ có tham dự vào cuộc cách mệnh 1916 ấy, thì hôm tại nhà ông Lâm Nhĩ, các cụ bày ra việc bói quẻ, sau lúc bói xong, cụ Cao Vân tỏ ý muốn trì hoãn công cuộc khởi nghĩa lại... Căn cứ vào một bài thi tám câu của cụ Cao Vân, đầu đề vịnh “Tàu hỏa chạy từ Đà Nẵng-Huế”, để gửi cho các đồng chí, hẹn ngày khởi nghĩa. Bài thi:

Một mối xa thư đã biết chưa?

Bắc nam hai ngả gặp nhau vừa.

Đường rày đã sẵn thang mây bước.

Ống khói càng cao ngọn gió đưa.

Sấm dậy tư bề trăm máy chuyển.

Phút thâu muôn dặm một giờ trưa.

Trời sai ra dọn xong từ đấy.

Một mối xa thư đã biết chưa?

Bài thi này ông tú Phan Khôi đăng ở “Chương dân thi thoại”. Ông Phan chua nghĩa: đại khái người ta bảo “một giờ trưa” là cụ Cao Vân muốn chờ đến hội ngọ mới khởi nghĩa.

[3] Tham khảo tài liệu báo “Cải Tạo”, số 95, trương 12, xuất bản tại Hà Nội.

[4] Việt Nam quân chính phủ, trích ở tạp chí “Tiến Hóa” số 7, trương 15, xuất bản tại Huế.

[5] Đoạn này theo tài liệu của Ngân Lang, báo “Cải Tạo” số 96, trang 6, chép: “Võ Cư bảo em ruột là Trung, và Cư khai cho Trần Thiểm”.

[6] Xem lời án triều đình Huế, ở sau.

[7] Mạch phạn ở đây dịch là cơm tẻ hay cơm bắp (ngô), tưởng cũng không đúng, vì căn cứ vào thực tế thì năm 1916, lúc khởi nghĩa không phải thời tao loạn, hơn nữa vua ra khỏi hoàng thành mới một vài ngày, dân gian thiếu gì quý phẩm để cung hiến cho vua, đến phải thết vua bằng cơm bắp? Như thế không lầm thì hai chữ mạch phạn ở đây xuất sinh từ trong sử Tàu thời Đông Hán, lúc vua Quang Vũ cử binh đánh Vương Mãng, bị quân Vương Mãng đuổi chạy đến sông Hố Đà; trước tình cảnh bại binh, lương thảo hết sạch, vua Quang Vũ nhờ có dân gian dâng cơm bắp đỡ lòng... vì thế mới có bốn chữ: “Hố đà mạch phạn”, nên triều đình Huế lúc bây giờ mượn hai chữ mạch phạn ấy để tả nỗi gian khổ của nhà vua...?