- XIII - Kết liễu đời anh hùng-
Kết luận đời hành động của đấng anh hùng không cứ ở việc làm thành công hay thất bại, mà chính ở chí tự cường, lòng vị tha hy sinh cả đời mình để phụng sự tổ quốc dân tộc cũng như để bảo vệ công lý chính nghĩa. Dù gặp phải thiên nguy vạn khổn vẫn một lòng tiết tháo, nếu không đạt được chí nguyện thì cũng chỉ có cái chết mới thôi!
Chính thế, cuộc cách mệnh năm 1916 thất bại, Hoàng đế Duy Tân bị cầm ở đồn Mang Cá chờ xuống tàu vào Ô Cấp để đưa sang đày ở đảo Réunion, tận bên Phi châu. Các nhà cách mệnh Trần Cao Vân, Thái Phiên... bị hạ ngục, đồng thời các tỉnh cũng xảy ra một tình trạng thảm khốc như thế!
Ở Quảng Ngãi vì sự đổ bể của Võ An, rất nhiều người bị khốn khổ! Hai cụ Tú Ngung, Cử Sụy cùng một số đồng chí rất đông bị bắt, bị tử hình, bị tịch thu gia sản, và gần hai trăm người bị án khổ sai đày Côn Lôn, Lao bảo. Hai cụ Tú Ngung, Cử Sụy tuy đã tự sát bằng thuốc độc ngay ở khám đường, nhưng cụ Tú Lê Ngung cũng không thoát khỏi được cái án “lục thi trảm niệu”, nghĩa là chết rồi cũng vẫn đem thi hài ra chém, lấy đầu bêu lên ở làng Cam Lộ (Quảng Ngãi).
Ở Quảng Nam, một phần vì sự tố giác của tuần vũ Đỉnh [1] nên nhà chức trách khám phá được rất nhiều tài liệu: nào giấy tờ tổ chức chính phủ, nào các thức quân nhu, đến các thức quân phục toàn bằng vải rèn chôn ở các bãi cát, bắt được xã Mãi, người làng Phước Kiều, phủ Điện Bàn (Quảng Nam), là người đúc bốn ấn kinh lược, và khách Kim, một Hoa kiều ngụ ở phủ Tam Kỳ cho dân mượn súng, vân vân...
Thế nên ở Quảng Nam cũng rất nhiều người liên lụy, cụ Phan Thành Tài và một số bị tử hình, còn thì lớp đày Lao Bảo, lớp đày Thái Nguyên, và lớp đày trở ra Côn Lôn.
Trong những nhân sĩ bị đày, có những tay cách mệnh cừ khôi, như y sĩ Lê Đình Dương, một tay tân học khẳng khái; lý trưởng Lê Cơ, một tay thật hành tranh đấu có tiếng ở Quảng Nam; tú tài Trương Bá Huy, Đỗ Tự, những nhân sĩ đã từng bị tù, bị đày. Trần Chương, một người gan mật đây mình, trước kia cũng đã bị bắt, bị tra tấn cực hình, nhưng vẫn ngang nhiên không thèm khai một lời, giả câm ba năm không nói chờ đến ngày trắng án; lần này cũng bị đày và chết tại ngục Lao Bảo!
Đến những đệ tử tâm phúc của cụ Cao Vân cũng là những người khí tiết, như ông Thừa Phong (Nguyễn Đức Đạt) sau lúc bị bắt, đã tự uống thuốc độc chết ở nhà lao Quảng Nam, ông Lương Thái Hòa tẩu thoát được, chạy vào Nam kỳ mượn lốt thầy chùa trụ trì chùa Cổ Linh, làng Bình Thắng, tỉnh Gia Định (Nam Việt) và vân vân...
Ở Quảng Trị, ông Khóa Bảo cũng bị tra tấn khổ sở, ngoài ra, các tỉnh vì hưởng ứng chậm nên không thiệt hại gì mấy.
Cụ Cao Vân bị bắt điệu về giam ở ngục Thừa Thiên, cụ tự biết đời mình đến đây là kết liễu!
Người chí sĩ xem việc chết sống nhẹ như lông chim hồng, trọng danh tiết nặng như núi Thái. Huống nữa, cụ Cao Vân lại là một nhà tinh thông dịch học, trước công lệ sinh sinh diệt diệt của muôn sự muôn vật trên cõi đời này thì, với lẽ tồn vong ấy, cụ lại càng xem thường! Tuy nhiên, từ ngày bị bắt đến ngày ra pháp trường, mười mấy ngày trời cụ luôn luôn tỏ ra cùng các đồng chí trong ngục những nỗi ưu tư thống thiết của cụ lo cho Hoàng đế Duy Tân phải thiệt hại đến mình rồng. Cụ cố tìm cách để cứu vua và che chở một phần nào cho các môn đồ đồng chí! Cụ nghĩ mãi, lúc bấy giờ chỉ có Hồ Đắc Trung, đương chức Thượng thư bộ Học kiêm Cơ Mật đại thần, là người có uy thế trong triều đình và đương phụ trách việc thảo án, lại cũng là người quen biết có cảm tình với cụ, cụ hằng viết thư trần tình với Hồ thượng thư, nhận lãnh công việc bạo động xảy ra đều do cụ và Thái Phiên suất sử. Cuối thư, cụ thiết tha khẩn khoản họ Hồ tìm cách cứu vua, có câu:
“Trung là ai? Nghĩa là ai? Cân đai võng lọng là ai? Thà để cô thần tử biệt!
Trời còn đó! Đất còn đó! Xã tắc sơn hà còn đó! Mong cho Thánh thượng sinh toàn!”
Thư ấy viết trong cuộn giấy hút thuốc, cho người bí mật đưa đến tận tay họ Hồ.
Đến hôm ra khai, hai cụ Cao Vân, Thái Phiên khẳng khái tự nhận: cụ Cao Vân chức chánh quân sư, cụ Thái Phiên chức phó quân sư, chính cộng việc bạo động ấy do hai ông thủ xướng, thế nên lời án của triều đình đều đổ tội cho các nhà cách mệnh để che chở cho Hoàng đế Duy Tân.
Mùa hè năm Bính Thìn, cả non sông nước Việt đều nuốt thảm đeo sầu tiễn chân Hoàng đế Duy Tân đi đày ở châu Phi! Rồi một ngày nữa, non sông ấy lại cùng với bao tiếng rền rĩ thê lương của muôn lượng ba đào từ khơi bể Nam Hải hướng về phía làng An Hòa để gào khóc, để tán dương người chí sĩ đã vì tổ quốc dân tộc phải hy sinh, tiếp tục theo các đấng tiên liệt anh hùng, ghi thêm một trang sử hùng cường của một dân tộc thích tự do, yêu hòa bình, muốn độc lập!
Nhà chí sĩ Trần Cao Vân đã làm tròn nghĩa vụ của người trai nước Việt, đã nêu cao tinh thần cách mệnh tranh đấu không ngừng, từ năm hai mươi tuổi từ biệt gia hương, hai mươi bảy tuổi đặt chân trên đường tranh đấu, ba mươi ba tuổi vào ngục Phú Yên, ba mươi lăm tuổi vào ngục Bình Định và Quảng Nam, bốn mươi ba tuổi vào ngục Côn Lôn, đến năm năm mươi mốt tuổi, năm Bính Thìn, ngày 16 tháng Tư, cái ngày kết liễu đời anh hùng tại làng An Hòa (cách kinh đô Huế một vài cây số), nhà chí sĩ Trần Cao Vân đã cùng ba đồng chí Thái Phiên, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu, lên đoạn đầu đài để đền nợ non sông!
Tổng kếtĐời hành động của nhà chí sĩ Trần Cao Vân, soạn giả tưởng không phải kết luận nữa, vì chính người chí sĩ đã tự kết luận đời mình bằng sự hy sinh cao cả bữa 16 tháng Tư, tại làng An Hòa! Đức hy sinh ấy đã đủ tượng trưng cho một đời tranh đấu không ngừng, từ lúc thiếu niên đến ngày chung cuộc, nào hô hào cách mệnh, nào đề xướng dịch “Trung thiên”, đóng đủ vai trò từ một nhà nho, một nhà sư, đến một thầy bói quẻ, một thầy địa lý, trải bao gian lao thử thách không hề chán nản, uy quyền dọa nạt không hề khiếp phục, lợi danh câu nhử không hề bận lòng! Trên đường gió bụi, người chí sĩ đã chiến thắng một cách vẻ vang!
Để thay lời tổng kết, soạn giả xin chép vào đây hai bài thi, có thể nói là di ngôn của người thiên cổ, để bạn đọc nhận hiểu quan niệm người dân đối với tổ quốc, con người đối với đất trời của chí sĩ Trần Cao Vân.
Bài thi thứ nhất
Đọc ở nhà lao Huế trước ngày ra pháp trường
“Trung lập kiền khôn bất ỷ thiên,
Việt Nam văn vật cổ lai truyền.
Quân dân cộng chủ tinh thần hội,
Thần tử tôn châu nhật nguyệt huyền.
Bách Việt sơn hà vô bạch xỉ,
Nhất xang trung nghĩa hữu thanh thiên.
Anh hùng để cục hưu thành bại,
Công luận thiên thu phó sử biên”.
Xin dịch nôm:
“Giữa trời đứng sững không thiên,
Nghìn năm nước Việt còn truyền sử xanh.
Chu vương nhân chính đại hành,
Quân dân hợp sức lũy thành đắp xây.
Người thù non nước còn đây,
Trời xanh với tấm lòng này tương tri.
Anh hùng thành bại sá gì,
Nghìn thu lịch sử còn ghi lại đời”.
Bài thứ nhì
Vịnh Tam tài
“Trời đất sinh ta có ý không?
Chưa sinh trời đất có ta trong.
Ta cùng trời đất ba ngôi sánh,
Trời đất in ta một chữ đồng.
Đất nứt ta ra trời chuyển động,
Ta thay trời mở đất mênh mông.
Trời che đất chở ta thong thả,
Trời đất ta đây đủ hóa công.
Khóc chí sĩ Trần Cao Vân
Bốn câu thi của một người vô danh
“Hy tiên văn hậu thử chân thuyên,
Biệt tự trung gian tạo nhất thiên.
Học thuyết năng tương tiên huyết nhiệm,
Nam phương tân dịch tích vô truyền.
Cụ Huỳnh Thúc Kháng dịch nôm:
“Văn sau Hy trước vẫn kinh này,
Riêng giữa ‘Trung thiên’ đứng một tay.
Học thuyết đem bầu tâm huyết nhuộm,
Trời Nam dịch mới tiếc không thầy”.
Chú thích:
[1] Tài liệu tham khảo báo “Cải Tạo”, số 96, trang 6, xuất bản ở Hà Nội.