← Quay lại trang sách

Chương 4

Lân rời làng đi bộ đội được mấy hôm thì vết thương của Bân lành hẳn.

Một buổi sáng giữa tháng chín, Bân rời quân y viện.

Bệnh viện quân đội ở một vùng làng quê tĩnh mịch, gần lèn đá. Ở đấy có những vườn na rất rộng. Đã sang giữa mùa thu mà trời còn nắng gắt. Những cành na trong vườn nhìn thẳng sang khu nhà "trung thương" đã ra một lớp lá non sau trận mưa đầu tháng, đến nay lại héo quắt. Một ngày nắng và đẹp trời trên vùng trung du báo hiệu vào buổi mờ sáng bằng tiếng gà gáy thanh thoát, một vòm trời xanh nhẹ bổng và vô vàn tiếng chim sâu kêu lách rách trong những luống đất khô nẻ trong vườn na.

Mặc dầu đã ở xa các vùng mặt trận, các thương binh đang nằm điều trị vẫn nghe tiếng súng vọng tới. Buổi sáng hôm ấy cũng như mọi buổi sớm khác, giữa không khí mát mẻ và tĩnh mịch, lúc phía chân trời đàng đông hửng dần, có tiếng máy bay phản lực của địch bay rất xa. Rồi từng tràng tiếng bom nổ rền làm rung chuyển cả buổi sớm.

Các thương binh đã khỏi, da dẻ hồng hào và trắng trẻo nom như những học sinh đứng xếp hàng trong gian nhà tranh.

Một chị hộ lý có tuổi làm công việc trông kho quân trang nheo cặp mắt đen, in một quầng thâm rất rõ nghiêm nghị nhìn qua vai Bân:

- Cha nó, nó lại bỏ bom ở đâu rồi đấy, các đồng chí ạ!

Chị hộ lý nghe dứt tiếng nổ rồi mới bắt đầu làm việc. Từng người tiến đến trước mặt chị, đưa trả những bộ quần áo trắng đã nhuộm thành màu gỉ đồng. Họ trả quần áo của viện và nhận những bộ quân phục riêng của mình. Sau khi trao cho mỗi người những bộ quần áo đã tẩy, là sạch sẽ, người nữ hộ lý có tuổi lại bắt tay vào nhìn từng người bằng đôi mắt quyến luyến.

- Chúc đồng chí mạnh khỏe nhé!

Bân mặc bộ quần áo hải quân trắng tinh và soi vào gương, thấy mình hình như trẻ ra rất nhiều. Như thế là anh đã nằm liệt ở đây hơn hai tháng. Hai tháng! Quãng thời gian ấy, hồi Bân còn ở nhà, còn là một kế toán trưởng của hợp tác xã thì có là bao! Hai tháng chỉ là quãng thời gian của một phần vụ mùa, hay chưa đầy một phần vụ lúa chiêm. Nhưng đối với anh hiện nay, quãng thời gian nằm điều trị ở đây sao mà dài thế, đã có biết bao nhiêu sự việc và thay đổi xảy ra xung quanh. Nói làm sao hết được những biến đổi quan trọng xung quanh người lính giữa thời chiến!

Ngày hôm đó, Bân thay quần áo xong, liền chạy đi từ biệt tất cả các đồng chí phục vụ, từ đồng chí bác sĩ điều trị đến các đồng chí hộ lý. Xong, anh khoác ba lô ra viện với nét mặt thanh thản, và không thể nào giấu được một niềm vui ngấm ngầm đang bùng lên, niềm vui của một kẻ vừa thắng cuộc.

Lệ thường ở quân y viện, các thương binh loại "trung thương" trở lên sau khi lành vết thương đều phải nằm lại khu an dưỡng một thời gian để bồi bổ sức khỏe. Họ sẽ kéo dài thêm mấy tuần lễ an nhàn, tiếp tục khoác bộ quần áo riêng của bệnh viện, hàng ngày đọc báo, nghe đài, ăn "tiểu táo" và đánh cờ. Mới nghĩ đến như thế, các chiến sĩ đã cảm thấy như mình bị cầm tù, cho nên người nào cũng ngong ngóng chờ vết thương liền miệng là lập tức xin trở về đơn vị. Với ai, đồng chí bác sĩ có vóc người cao lớn, đeo cặp kính trắng cũng nhăn nhó đến thiểu não:

- Đồng chí ạ, tôi rất khâm phục tinh thần của đồng chí. Nhưng làm sao đồng chí có thể hiểu rõ cơ thể đồng chí bằng tôi được? Đồng chí phải an dưỡng... Đồng chí phải biết rằng chúng ta đánh thằng Mỹ còn lâu dài, năm năm... mười năm...!

Đồng chí bác sĩ vừa dỗ dành, vừa giở nguyên tắc cứng rắn của chuyên môn bắt buộc mọi người phải phục tùng. Các chiến sĩ cũng có cách của họ. Khi nào vết thương sắp khỏi là họ bám sát đồng chí bác sĩ. Họ tâm sự, làm thân, rồi xin xỏ... Họ thừa biết đồng chí bác sĩ rất yêu mến họ và con người như thế nhưng tính tình lại rất cả nể. Bân cũng bằng con đường ấy "lung lạc" được đồng chí bác sĩ, và thoát khỏi mấy tuần lễ nằm lại khu an dưỡng.

Trên đường về đơn vị, khi niềm thích thú của kẻ vừa thắng cuộc lắng dần xuống, Bân chợt thấy nhớ biển, nhớ tàu và các đồng chí ở nhà. Trong thời gian nằm chữa vết thương, hai lần Bân đã tường thuật tỉ mỉ trận chiến đấu của tàu T.730 của mình - một lần cho các anh chị em cán bộ và nhân viên quân y nghe, một lần khác cho một cô viết báo trên Bộ Tư lệnh xuống. Lần nào cũng thế, khi bắt đầu kể, Bân đều cảm thấy như có một bầy chim đang sải cánh bay trên đầu mình...

Buổi trưa hôm ấy, tàu của Bân đang neo ở một cái eo biển. Ở đấy, có một giống chim bé hơn con hải âu, lông trắng tuyền, cánh dài, kêu những tiếng kêu đột ngột và sắc mỗi khi chao cánh sát mặt nước.

Buổi trưa, các chiến sĩ ăn cơm xong đang chơi bài tú lơ khơ và cãi nhau ầm ĩ trong khoang ngủ. Từng đàn chim bay tới đậu xúm xít trên chiếc bia tập bắn thả giữa biển. Lúc trên tàu nổi hiệu còi báo động, Bân và Ái đang chèo chiếc xuồng con bập bềnh giữa biển, hai người được lệnh đi sửa bia để chuẩn bị đợt huấn luyện tập ngắm buổi chiều. Ái là khẩu đội trưởng pháo ở vị trí Một (1). Bân là quan sát viên. Nghe tiếng còi thét lên như xé biển, hai người chưa kịp nhìn nhau đã lao ra khỏi chiếc xuồng. Họ bơi, họ nhắm thẳng tàu mà bơi, một nửa người nhô lên khỏi mặt nước. Trên đầu họ, đàn chim trắng kêu sợ hãi và bay trốn. Hai người về tàu nhanh đến nỗi thuyền trưởng Cương và tất cả các thủy thủ đều không ngờ! Bân chạy qua mặt boong. Anh nhảy lên chiếc thang sắt ba bậc một với cái ý nghĩ đinh ninh: "Mình là người quan sát, là con mắt của tàu!". Anh nhón chân trèo lên đứng hẳn trên chiếc vòng sắt và nhìn bầu trời qua những khắc ly giác của chiếc ống nhòm "vọng hải" rất lớn. Bầu trời vẫn yên tĩnh, sóng vẫn cồn lên ở đường ranh giới trời và nước xa tít. Nhưng chỉ trong phút chốc, giữa tiếng sóng ào ạt, vừa sôi nổi vừa trầm lặng và rất quen thuộc chợt bật ra một âm thanh rất lạ tai, như tiếng gió vờn qua sợi dây kim khí. Bân nhận ra cái tiếng kêu rền rền của máy bay phản lực của địch không phải chỉ bằng hai tai, mà bằng tất cả cái giác quan thính nhạy của người chiến sĩ quan sát. "Như thế là cuộc chiến đấu sắp bắt đầu!". Anh chưa kịp nhắc xong với mình câu ấy thì đằng sau những vạch khắc ly giác của chiếc ống nhòm đã hiện ra hai tốp máy bay đang bay qua đường chân trời lao vào. Bân bỏ tốp đầu, đưa ống nhòm rà một lượt trên từng ngọn sóng và phát hiện thêm hai tốp khác, như những chiếc vảy cá lấp lánh trên đường viền sóng. Bân lựa một tư thế đứng cho thật vững, vẫn không ngớt báo cáo cự ly giữa tàu và tốp địch đi đầu. Lúc bấy giờ mặt biển vẫn xanh một màu xanh rực rỡ và bình thản, chẳng khác gì một cô gái phô trương sắc đẹp không đúng lúc. Trên tàu, không khí chuẩn bị chiến đấu rất khẩn trương. Các pháo thủ đã ngồi sẵn sàng, các nắp thùng đạn đã mở hết. Các pháo thủ dự bị chuyền thêm những hòm đạn dự trữ từ dưới khoang lên. Trên đài quan sát nhìn xuống, Bân hết sức mừng rỡ nhận thấy neo đã cuốn xong. Theo lệnh thuyền trưởng, tàu nổ máy rạch biển chạy về hướng mặt trời.

Qua ống nhòm, những tốp máy bay rõ dần. Bân không hiểu tại sao đến lúc ấy, anh lại bình tĩnh đến như thế, một thái độ bình tĩnh mà chính anh cũng chưa ước đoán được từ trước. Từ vụ "mồng 5 tháng 8" (2), lần đầu tiên đế quốc Mỹ xâm phạm miền Bắc, các chiến sĩ tàu T.730 chỉ mới có một số đã chiến đấu, một số khác chưa được đánh trận nào, trong đó có Bân. Đây là trận thử lửa đầu tiên của anh. Đây là cái phút mà trước đây từ lâu, anh đã nghĩ tới.

-----

(1) Vị trí 1: Khẩu pháo đặt ở mũi tàu.

(2) Ngày 5 tháng 8 năm 1964: ngày bọn đế quốc Mỹ lần đầu ném bom miền Bắc.

- Lần đầu tiên đánh nhau, cậu có hồi hộp nhiều không? - Đôi lúc, Bân thường hỏi Ái như thế, vì Ái đã tham gia chiến đấu ngày mồng 5 tháng 8.

- Phải nói rằng có hồi hộp - Ái trả lời một cách thành thực - Ban đầu, trông cái máy bay hắn chúc xuống mình thật hoảng, mẹ cha hắn, hắn rít như còi thổi! Dạo nớ mình còn làm pháo thủ số hai, ban đầu nghe tiếng hắn rít, hắn rú, bàn tay mình đặt lên cái máy ngắm cứ run bần bật. Nhưng cũng ngay tức thì mình ngước lên trông thấy hắn, lại chợt nghĩ: "Chính mày là thằng Mỹ! Chính mày đã gây bao nhiêu tội ác đối với đồng bào ruột thịt của tao trong miền Nam!". Thế đó, thế là mình hết sợ. Mình ghé mắt nhòm vào ống kính và bám sát lấy hắn, không chịu rời một cái nháy mắt mô nữa.

Ban nãy, Bân và Ái ngồi trên chiếc xuồng gỗ, Bân cúi xuống cầm chiếc hòm đạn tát nước và lại nghe Ái nhắc chuyện chiến đấu. Vẫn bằng thứ tiếng nói xứ Nghệ chưa hề bị pha trộn, Ái nói:

- Mệ cha hắn, hắn đã đào mồ chôn cha hắn ra đến tận Thanh Hóa, Ninh Bình rồi! Nghe mô mình vừa xây xong cái lăng cha thằng Giônxơn to lắm, có cả khách quốc tế đến viếng!... Ờ, lâu không đánh nhau kể cũng ngứa ngáy!

Ái dang thẳng đôi cánh tay rám nắng giật từng mái chèo, gió biển thổi lộng làm mảnh yếm lót bay phấp phới sau cổ. Ái nói xong một câu, lại giật một mái chèo. Bân cũng nói đùa:

- Thời buổi chiến tranh mà chúng mình phải đi ngắm bia cót kể cũng buồn thực!

Ngay lúc đó, tiếng còi báo động kéo một hồi dài và hai người rời chiếc xuồng nhảy xuống biển để bơi về tàu.

***

Thực ra, thoạt trông thấy những vệt ánh sáng rất nhỏ, loa lóa trước mắt, Bân còn ngỡ là một đám bọt sóng bị ánh nắng mặt trời chiếu sáng. Có gì đâu! Xung quanh tàu vẫn là mặt biển, và trời. Biển vẫn xanh và đẹp lộng lẫy. Chân trời vẫn là một vệt xanh nhạt rất yên ổn. Bân thuộc từng quãng trên đường vòng cung, đấy là lối tàu anh đã nhiều lần đi qua trên đường ra khơi, là cái cửa ngõ đi về của thuyền bè đồng bào. Khi anh đã xác nhận được, qua ống nhòm, những vệt sáng li ti không phải là bọt sóng, mà chính là những chiếc máy bay phản lực từ hạm đội thứ 7 của đế quốc Mỹ đang đỗ ngoài khơi cất cánh bay vào thì đột nhiên, tận trong đáy lòng anh có một cái gì dội lên rất mạnh. Anh cảm thấy mình bị xúc phạm. Anh đưa ống nhòm bám riết lấy những chấm sáng đang nở to dần, trong lúc đó một ý nghĩ vụt đến, gần như một nỗi đau đớn về thể xác, rằng vùng biển và vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc đã bị xâm phạm! Chính cái ý nghĩ ấy to lớn quá, bao trùm lên tất cả làm cho anh không cảm thấy mảy may lo lắng và sợ hãi.

Cuộc chiến đấu xảy ra ngay trong chớp mắt. Khắp bầu trời đã nghe ran tiếng động cơ như xé vải. Tốp máy bay đi đầu chuyển thành đội hình tấn công, tốp thứ hai bay xé ra, vòng sát mặt biển. Lúc chiếc "ép" bay dẫn đầu chỉ còn cách mũi tàu sáu trăm mét, trong một cái liếc mắt, Bân trông thấy cái gáy cháy nắng và rợp tóc của Ái. Ái cùng khẩu đội bám chặt bên khẩu pháo và tất cả mọi người đều ngước lên trời. Mặc dầu bộ quân phục của Ái đã ướt đẫm nước biển, gió vẫn thổi tốc chiếc yếm xanh bay dán vào cổ.

- Các đồng chí bình tĩnh quyết tâm tiêu diệt địch trả thù cho đồng bào! - Ái giơ thẳng lá cờ đỏ trên tay, ráng hết hơi thét lớn. Rồi cái giọng xứ Nghệ lại cất lên sang sảng, đầy phẫn nộ:

- Mục tiêu chiếc đi đầu, cự ly... góc độ... bắn!

Lá cờ đỏ phất lên như một ngọn lửa bùng cháy trước lá chắn. Tàu T.730 như một người đang đi tới bỗng vấp phải một vật chắn trước mũi, đứng sững lại đột ngột. Nước dưới chân vịt xoáy ngầu bọt, một đám khói trắng bao bọc lấy một tia chớp ở mũi tàu. Một tràng tiếng nổ chói óc vỡ toác ra và vọng rền trên biển. Từ đó, Bân không trông rõ Ái, cũng không trông thấy các đồng chí của mình nữa, cả boong tàu chìm trong một lớp khói dày đặc, màu xám và cay sè.

Ngay loạt đạn đầu tiên của Ái, chiếc tàu rung lên. Ở trên cao, suýt nữa Bân ngã xuống biển. Để đứng vững và luôn có thể theo dõi địch, anh rời chiếc vòng sắt, bước xuống đứng dưới bệ và quàng cánh tay ôm lấy chiếc cột sắt. Hai tốp máy bay gầm trên trời, từng cặp hai chiếc một vòng tít trên cao rồi vun vút lao bổ xuống. Những cột lửa đỏ, lẫn với khói và nước dựng xung quanh tàu. Loạt đạn đầu tiên của Ái bắn trượt, loạt thứ hai của một khẩu bên mạn lọt dưới thân máy bay. Ái rút kinh nghiệm loạt đầu tiên, anh bỏ những chiếc đã bay qua, hay những chiếc làm nhiệm vụ bảo vệ cạnh sườn cho đội hình của chúng, anh bám sát một chiếc "ép" cổ dài lợi hại nhất. Bân lại phát hiện thêm hai tốp khác mới xuất hiện, cự ly ba nghìn mét, đang bay dập dờn trong bầu ánh sáng loa lóa của ánh mặt trời phản chiếu xuống biển. Bân báo cáo với thuyền trưởng. Anh nhận được lệnh của thuyền trưởng Cương:

- Không được đánh sổng hai tốp ở ngoài xa, hãy bám riết!

Hai tốp đầu tiên, do chiếc "ép" cổ dài ngoẵng chỉ huy lần này chia làm hai cánh bổ nhào "chéo cánh sẻ" cùng một lúc.

- Cả hai bên mạn cùng có địch! - Bân hét lên với thuyền trưởng, và cho các khẩu đội nghe cùng một lúc. Bân lại nghe tiếng Ái bình tĩnh ra lệnh hiệu chỉnh tầm ngắm.

Một giây chờ địch xuống. Tất cả đều im lặng. Tất cả các khẩu pháo trên tàu đều khạc lửa! Hình như từ đầu, con tàu vẫn giấu kín những hỏa lực mà đến giờ mới dùng tới, đợt bắn tập trung, mãnh liệt và rất đẹp chẳng khác gì một tấm lưới đỏ rực cùng một lúc tung về một bên mạn. Chiếc F.105 bay đầu đã lao vọt lên, đường bay xiết bên tai Bân. Nghe tiếng động cơ rít, cả ruột gan Bân cồn cào, anh vòng hai cánh tay ôm chặt lấy chiếc cột sắt và cảm thấy như có một bàn tay vô hình đang lay mình, chực tung mình lên trời! Khi luồng gió đã cuốn lại, anh sờ lên đầu thì chiếc mũ đã bựt quai bay đi đâu mất. Hai tốp máy bay đã vòng trở lại. Tất cả các khẩu đội trên tàu lại bắn trả đồng loạt. Một chiếc liều mạng xông xuống trút một tràng bom phía đuôi tàu. Trong hàng loạt tiếng nổ và tiếng mảnh bom bay viu víu bên tai, Bân vẫn nghe được tiếng nói của thuyền trưởng Cương hạ lệnh cho anh phải bám sát hai tốp còn lảng vảng hướng Đông Nam. Từ bấy giờ, Bân chẳng khác gì một người đứng trên ngọn cây cao, giữa một cơn bão. Bom và đạn rốc két dội xung quanh tàu càng nhiều. Nhưng Bân vẫn tỉnh táo. Anh đưa tay giật mấy cành dứa ngụy trang đã khô treo trên chiếc cột sắt cho khỏi vướng, rồi lại đưa chiếc ống nhòm lên dõi nhìn khỏi mặt biển đầy ngập khói lửa.

Mãi đến lúc chiếc máy bay thứ hai bốc cháy và các đợt tấn công của địch đã thưa, lúc bấy giờ Bân mới nhận ra mình bị thương. Đầu tiên, anh thấy chân phải tê tê như bị chuột rút. Anh liếc nhìn xuống, bỡ ngỡ trông thấy một vệt máu dài loang ra ở ống quần và chảy xuống đọng thành vũng dưới đế giày vải. Vũng máu đã gần đông cứng, cắn chặt lấy lần cao su. "Bị thương là như thế ư?" Bân tự hỏi. Anh không ngờ người ta bị thương lại nhẹ nhõm, chẳng hề biết và chẳng thấy đau đớn. Nhưng khi anh nhấc bàn chân phải lên thì bàn chân cứ trĩu xuống, và một cảm giác nhức buốt từ nơi vết thương truyền đi khắp cơ thể. Đầu óc anh trở nên choáng váng, mắt hoa lên và thấy khát nước ghê gớm!

Chính giữa lúc ấy, hai tốp máy bay lảng vảng ngoài xa bay vun vút vào, đôi cánh bạc của chiếc bay đầu sải ra to dần trong ống kính, và Bân hét thật to:

- Phía Đông Nam có địch - hai ngàn mét!

Thuyền trưởng lập tức cho tàu vận động về hướng trái.

Ái cũng phát hiện thấy địch cùng một lúc, bằng mắt thường. Bân lại nghe tiếng Ái hạ lệnh cho khẩu đội bắt mục tiêu mới và chuyển thêm đạn ở dưới khoang lên.

Bân đếm rành rọt:

- Một ngàn sáu trăm!

- Một ngàn!

Khi kẻ địch bay vào đến cự ly bốn trăm thước thì anh nhấc được bàn chân phải lên và đứng vững vàng bằng hai chân trên chiếc bệ sắt loang những máu. Anh đứng thẳng như một người lành lặn bình thường. Thật ra, anh cũng không chú ý và không biết mình đứng như thế nào. Anh chỉ thấy phía trước, qua mặt kính lại có "chúng nó", một cái gì vô cùng hung ác và ghê tởm làm máu trong người anh muốn sôi lên.

Đợt đánh nhau thứ hai ác liệt hơn, kéo dài gần hai mươi phút. Đài quan sát của Bân chẳng khác gì một cái cửa nhìn được mọi hướng địch. Bân lại bị thương lần thứ hai. Một mảnh bom từ phía sau cắt xiên lên trời, quật Bân ngã từ trên chiếc bệ đứng cao chót vót xuống. Anh ngã sấp trên sàn tàu, ngay bên chân chiếc thang sắt. Khi đồng chí chính trị viên chạy tới bế anh xuống hầm tàu thì anh đã bị ngất đi. Đồng chí chính trị viên phải gỡ bàn tay đã xanh nhợt để lấy chiếc ống nhòm và tự tay băng bó cho anh. Vết thương thứ hai của Bân khá trầm trọng, máu chảy loang cả nửa thân áo quân phục và chiếc yếm kẻ sọc.

Trận đánh tiếp diễn đến gần chiều, quân địch mới rút. Ái vẫn cầm lá cờ đỏ đứng sau tấm lá chắn. Anh hạ lệnh thay nòng, lắp thêm đạn và phân công lại các pháo thủ. Nhưng ngoài xa, các tốp máy bay địch đã rút thẳng. Mặt biển trở lại yên tĩnh. Tiếng sóng bị át trong tiếng bom đạn, giờ lại trở lại vỗ về bên mạn tàu. Những đám khói vàng, dày đặc tan dần. Ái cuộn lá cờ trong tay, lẩm bẩm với các pháo thủ:

- Mẹ cha hắn, hắn đã cắp đít cút thẳng rồi đó!

Ái lật mũ, ngước lên đài quan sát. Bây giờ, anh mới biết Bân đã bị thương.

Từ bốn phía, thuyền lưới của nhân dân đã chèo tới. Hàng chục chiếc thuyền ào ào tiến về phía tàu. Một chiếc thuyền chưa kịp cập mạn, từ sau lá buồm cói, một người con gái đã nhảy lên níu lấy hàng lan can tàu. Sau các be thuyền, bà con ngư dân tíu tít nhóm bếp, người thổi cơm, người nấu cháo. Mấy ông cụ già cứ nằng nặc đòi thuyền trưởng Cương cho lên tàu. Cả một góc biển nhộn nhịp y như sau một trận đánh trên đất liền.

Bân và mấy đồng chí bị thương đã được chuyển từ khoang tàu sang thuyền để kịp đưa vào bờ.

Băng bó xong, hơn một giờ sau Bân mới tỉnh dậy sau một tiếng nấc khẽ. Bân phải gắng hết sức mới mở được đôi mi mắt nặng trĩu. Lập tức, một luồng ánh sáng chói của nền trời cao lồng lộng hắt vào mắt. Anh bật lên một tiếng rên vì ngực tự nhiên đau nhói, như chính những tia sáng đang đè trĩu lên ngực. Giữa cơn mê chập chờn, Bân nghe được tiếng rên và biết đấy là tiếng rên của mình. Anh hối hận: "Dầu đau đến mấy cũng không được rên rỉ". Cái cảm giác trong cơn mê, nhưng đầy lý trí ấy giúp anh thắng được tất cả. Anh lại mở mắt và cắn chặt hai hàm răng lại. Trời đã sẩm chiều. Bầu trời cao vút như chiếc cốc đựng một thứ nước xanh. Chiếc cốc đặt trên tay người làm xiếc, quay tít. Bân cựa quậy, muốn nhìn ra xung quanh nhưng cổ anh đã cứng như một khúc gỗ. Có một đám mây bay qua trước mặt. Dần dà, anh nhận ra một mái tóc đen, một khuôn mặt. Tất cả đều lòe nhòe, lúc mất lúc hiện. Khuôn mặt cúi xuống. Bân đã nhận ra đồng chí chính trị viên. Anh gọi rất khó nhọc:

- Đồng chí Lạc...

- Không phải... Em đây mà!

- Cho... nước!

- Anh cố chịu khát... Anh không thể uống nước được...

Bân đang nằm trên đôi cánh tay một cô gái làng chài, đôi cánh tay áo nâu còn dính những chiếc vảy cá. Người con gái ngồi trên một chiếc thuyền lưới. Trên mặt ván sạp ở đằng mũi, chất một đống lưới lẫn với cá vừa kéo lên chưa kịp gỡ.

Về chiều tối, sóng mạnh hơn và trời hơi lạnh. Chiếc thuyền đã căng buồm, sắp chạy. Ái ôm chiếc chăn bước xuống thuyền. Ái mang chăn đắp cho Bân vì sợ anh lạnh. Bân đã tỉnh. Vết thương ở ngực càng đau nhói, như có người cầm dao nhọn khoét vào. Anh lại nghiến chặt răng. Mồ hôi trên trán vã ra. Lại một cuộc vật lộn thầm lặng.

Ái trải chiếc chăn trấn thủ còn mới lên người Bân và lay gọi:

- Bân, cậu thấy trong người thế nào?

Bân nhìn một lát mới nhận ra Ái. Trong khoảnh khắc hoàn toàn tỉnh táo, đợt chiến đấu ác liệt cuối cùng hiện ra. Anh chợt nghĩ đến tàu, đến các đồng chí của mình mà hỏi:

- Tàu mình có... việc gì không?

- Không can gì hết. - Ái xòe bàn tay đầy những vết bỏng - Ta hạ được tất cả năm chiếc!

Một niềm vui lướt nhanh trên khuôn mặt Bân. Rồi anh lật tấm chăn, và nhận ra không phải chăn của mình. Anh nhìn Ái và lắc đầu.

Ái bảo:

- Chăn mình đó, cậu cứ mang đi mà dùng, bao giờ cậu về sẽ đổi.

Bân vẫn lắc đầu rất khó hiểu.

Ái chợt hỏi thầm với mình: "Nó đang nghĩ gì lạ thế nhỉ?".

Ái nhìn khuôn mặt Bân đã trắng bệch như sáp và cảm thấy lòng đau như thắt. Trên khuôn mặt ấy, nỗi đau đớn vì vết thương, và tất cả nghị lực trong người dồn lên để chế áp nỗi đau cùng hiện lên. Ái cầm mép chăn trùm kín ngực Bân. Anh cúi xuống sát mặt bạn và nói bằng cái giọng chắc nịch, gần như gắt:

- Tớ cam đoan chỉ hai tháng, cậu lại về đứng ngất nghểu trên đài quan sát cho mà coi. Cậu nghĩ cậu sẽ chết hử? Chỉ nghĩ vớ vẩn!

Suốt mấy giờ liền, người con gái vùng biển lạ mặt cứ ngồi lặng yên không hề động đậy, đôi cánh tay ôm ngang người Bân cũng không động đậy. Duy có đôi mắt đã hơi ướt, đỏ hoe dần ngước nhìn Ái như muốn dò hỏi một điều gì.