← Quay lại trang sách

Chương 5

Đúng như lời Ái, sau hai tháng điều trị và bồi bổ sức khỏe, hôm nay Bân đã lành và càng khỏe mạnh. Anh đang trên đường trở về đơn vị.

Về đơn vị! Ý nghĩ ấy như một nốt nhạc cứ ngân lên trong lòng Bân. Bân tự hỏi tàu mình đang đậu ở bến hay đã ra biển? Anh nhớ những đêm "trực canh" một mình, một tàu, một biển. Biển đang gào thét, cuồn cuộn những đợt sóng cao ngất chạm tới những đám mây xám, hay biển đang trở màu xanh trong vắt có thể nhìn thấu tận rốn biển, và con tàu xé nước chạy một giờ hàng chục hải lý mà không một gợn sóng trào lên boong? Bân nhớ những khuôn mặt, tính nết từng người, những mẩu chuyện tâm sự của các đồng chí trong tiểu đội giữa những đêm lênh đênh ngoài khơi.

Anh đi rất nhanh, chỉ mong chóng về "nhà".

Một buổi trưa, Bân vừa qua một bến phà thì nghe tiếng máy bay phản lực rất nặng từ phía đông dội lên. Tiếng động cơ mỗi lúc một to. Con đường đá hai bên lề mới giồng vội những cây chuối bỗng vắng teo. Quả thật, Bân chưa quen cảnh báo động máy bay trong đất liền.

Trong không khí vắng lặng hình như đang nén lại, sau một lùm cây bên đường bỗng cất lên một chuỗi cười giòn tan. Tiếng cười lẫn tiếng bánh xe lăn trên đường đá khấp khểnh. Tiếng cười càng gần, sau lùm cây hiện ra một tốp bốn cô gái đang đẩy chiếc xe bò.

"Anh bộ đội đẩy giúp chúng em một tay nào!". Cô gái kéo xe lên tiếng trêu ghẹo. Bân lúng túng, cuối cùng cũng phải đặt tay vào sau tấm ván ngăn.

Qua vài câu chuyện, Bân biết họ là công nhân ở một cung giao thông trước mặt. Phía trước, cách một cây số có một chiếc cầu xi măng mới xây. Ngày nào "chúng nó" cũng mò đến. Bom đạn đã có thể lát kín mặt cầu. Cầu vẫn còn nguyên nhưng hai bên dốc cầu chúng nó đã đào nát.

Buổi chiều hôm ấy, Bân nghỉ lại ở cung giao thông.

Anh theo mấy người con gái đi qua một khu nhà gạch đổ nát - nhà ở cũ của họ - rồi men theo một con đường mòn chạy vòng theo cánh rừng cây cối rất rậm rạp. Dưới mé suối, có nhiều tiếng cười nói lao xao và thấp thoáng bóng người. Bân nhận ra có một đơn vị bộ binh, có lẽ là tân binh, đang trú quân trong rừng. Dọc hai bên bờ suối, ở những quãng trống, từng nhóm bộ đội quần áo mới toanh, đang nói chuyện, tắm giặt hay đang ngủ.

Lán "sơ tán" của anh chị em công nhân giao thông nằm bên chân đồi, gồm hai dãy nhà mái lợp và vách che đều bằng cỏ gianh. Trông qua quang cảnh khu lán, cũng thấy chỗ ăn ở của anh chị em công nhân thật sơ sài, có phần bừa bộn. Bên dãy lán nữ nằm đối diện là một khoảng đất trống để rải rác vài mảnh thân máy bay, những dãy thùng phuy dầu, áo lót phụ nữ nhuộm màu cỏ úa phơi trên hàng rào. Sát bên vách lán xếp từng đống hòm gỗ đựng các tút đạn cao xạ 37 ly. Quá vào phía trong một trạt đồi làm một trận địa cao xạ nom xa như một cái tổ mối. Đấy là trận địa bảo vệ chiếc cầu xi măng và đoạn đường trước mặt. Bân khom lưng chui vào một chiếc lán. Trên dãy sạp bằng nứa kéo dài suốt năm gian nhà, vẫn chỉ thấy lính. Những người chiến sĩ còn trẻ măng, có lẽ vừa qua nhiều đêm hành quân thức trắng, đang lăn ra ngủ một cách hết sức ngon lành. Trên những khuôn mặt trẻ, tuy đã hơi sạm đen và nhuốm màu cát bụi đường trường, nhưng Bân nhìn kỹ vẫn thấy phảng phất cái vẻ ngây thơ và non nớt của những người lính mới nhập ngũ. Ngoài cửa lán, một đồng chí đeo quân hàm thượng sĩ đỏ (1)vẫn còn thức, đang chăm chú dạy cho một em bé tập bập bẹ đánh vần.

-----

(1) Quân hàm đỏ: quân hàm của bộ binh.

Bân đang ngơ ngác nhìn quanh để tìm một chỗ nghỉ thì anh thượng sĩ đứng dậy. Anh ta đưa Bân về phía góc lán, xếp cho anh một chỗ nghỉ thoải mái rồi hỏi:

- Đồng chí vừa ở viện 8 ra phải không?

Bân ngắm anh ta. Trông anh giống như một người chiến sĩ tình nguyện mới tái ngũ, nét mặt già dặn và hơi khắc khổ, có vẻ từng trải. Bân chưa kịp đáp, anh ta đã nói tiếp:

- Vùng này là phạm vi đóng quân của đơn vị chúng tôi, cho nên tôi thuộc lắm. Các đồng chí hải quân đã lên đến đây thì chỉ một là đi viện 8, hai là đi nghỉ phép - Anh thượng sĩ cười - Mà cái chuyện phép tắc của con nhà lính thì đã "phăng teo" từ lâu rồi!

Bân làm quen rất nhanh với người bạn mới. Anh là trung đội trưởng của một đơn vị pháo cao xạ, đã từng chiến đấu nhiều trận, và đã qua nhiều trận địa. Anh đưa tay chỉ những người chiến sĩ trẻ đang ngủ bên cạnh: "Hơn một tháng nay, tôi phải về các tỉnh tiếp nhận anh em tân binh để bổ sung cho các đơn vị mới của sư đoàn".

- Tân binh ở những đâu? - Bân hỏi.

- Phần nhiều ở vùng xuôi.

Trong lúc hai người nói chuyện, anh thượng sĩ luôn ngắm bộ quân phục màu nước biển của Bân rồi bỗng thốt lên:

- Tôi cứ ước được như các đồng chí. Mình với chúng nó "quật" nhau giữa biển khơi, thích hơn!

Bân ngạc nhiên, hỏi:

- Vì sao thế?

- Các cậu không thể thấy hết được như cánh cao xạ chúng mình đâu - Anh đổi cách xưng hô và tiếng nói rít qua kẽ hai hàm răng - Các cậu không ngồi trên trận địa giữa mặt đất, các cậu không thể thấy hết được tội ác của thằng Mỹ đâu!

Từ lúc mới đến, Bân đã để ý đến một em bé trạc lên năm, sáu tuổi, hai má bầu bĩnh, mắt sáng, ngồi trên một chiếc hòm đạn kê trước cửa lán, đang ê a tập đánh vần mấy chữ cái. Quyển vở để trên hai chiếc hòm đạn khác chồng lên nhau thành một cái bàn, trên tấm lưng bé nhỏ của em bé cũng khoác một mảnh vải màn nhuộm xanh ngụy trang trông đến ngộ nghĩnh.

Anh thượng sĩ quay ra ngoài, gọi:

- Lan, cháu vào chào chú hải quân đi nào!

Cô bé vén tấm áo ngụy trang dài lượt thượt, chạy tới ngước cặp mắt đen láy: "Cháu chào chú ạ!".

Bân âu yếm ôm lấy em bé và luôn miệng hỏi:

- Bố mẹ cháu đâu?

Anh thượng sĩ lập tức nhổm dậy, anh nói rất lớn át câu hỏi của Bân, bàn tay khẽ đẩy vào lưng em bé:

- Lan! Cháu học bài thuộc rồi chứ? Chú cho phép cháu đi chơi, cháu chạy ra sân mà chơi nhé!

Vẻ hấp tấp gần như bối rối của đồng chí thượng sĩ khiến cho Bân phải để ý. Anh hỏi nhanh:

- Bố mẹ cháu ở đâu, hả đồng chí?

Anh thượng sĩ chờ cho em bé đã đi khuất rồi mới kể:

- Cháu bé ấy là con gái đồng chí trưởng cung giao thông ở đây. Tôi dặn đồng chí việc này: đồng chí nhớ đừng hỏi chuyện gia đình nó. Nó sẽ khóc không dỗ được đâu. Dạo tháng năm, trong một vụ mười ba máy bay Mỹ ném bom một làng ven sông Mã, cả nhà cháu ngồi chung một hầm bị chết tất cả, chỉ một mình nó lúc ấy đang chơi ở nhà bà ngoại là còn sống sót. Hôm ấy, nó ở bên nhà bà ngoại về, cứ ngồi bệt xuống bên thành hố bom trước cửa nhà mà gọi mẹ, gọi em, hai con mắt cứ nhìn đau đáu xuống đáy hố, trông đến xót ruột! Chính tôi đã đưa cháu từ trong Thanh ra ngoài này giao cho bố nó, hồi đơn vị cao xạ của chúng tôi từ vùng Hàm Rồng chuyển ra chiến đấu ở ngoài này.

Nghe xong câu chuyện ấy, trong lòng Bân có cái gì cứ thắt lại. Cả đồng chí thượng sĩ và Bân đều ngồi yên lặng.

Khoảng ba giờ chiều, máy bay địch lại kéo đến bắn phá ngoài cầu.

Em bé nhận ra tiếng máy bay rất sớm. Lúc nghe tràng bom đầu tiên nổ rền cả khu đồi, Bân vội vàng ôm chặt lấy nó: "Cháu đừng sợ. Đã có chú! Cháu đừng sợ!". Mặc dầu Bân cố an ủi, em bé vẫn run cầm cập, đôi mắt đen láy như vừa phủ một màng mây xám. Bân đưa em bé xuống hầm rồi chạy lên đồi cao.

Bân vừa chạy lên đến lưng chừng quả đồi phía sau dãy lán thì bỗng nghe tiếng một cô dân quân kêu lớn: "Chúng nó ném bom làng Lũ rồi!". Bân đặt bàn tay khum khum trước trán để che nắng. Ngoài ra, bên kia khúc sông nhỏ chảy từ chiếc cầu xi măng trắng xóa ra giữa cánh đồng, một cột khói bốc lên như một cái nấm. Chiếc máy bay địch chúc xuống thả một tràng bom rồi bay vút lên cao. Một loạt tiếng nổ dội đất. Ban đầu, Bân cứ tưởng chúng nó đã thả bom trúng chiếc cầu, nhưng không phải, Bân trông thấy ngọn lửa đỏ bốc lên từ một cái xóm. Lửa liếm trên những mái nhà, những ngọn tre, ngọn lửa mỗi lúc một cháy to thêm, những đám khói vàng theo chiều gió bay tạt sang phía bên này đường cái. Bân đứng nhìn ngọn lửa và nhìn đám khói vàng đặc.

Gần nhọ mặt người, anh mới sửa soạn lên đường. Ra đến quãng gần chiếc cầu xi măng, giữa quang cảnh náo nhiệt và chen chúc trên con đường cái lúc trời vừa sắp tối, Bân vẫn không sao quên được hình ảnh em bé con người trưởng cung giao thông và trận máy bay địch ném bom xuống làng xóm.

***

Trận bom ban chiều vẫn chưa phá được cầu. Chiếc cầu vẫn nguyên vẹn, nằm trắng xóa. Những quả bom chỉ đào thêm những chiếc hố sâu, đất đá tung lên nằm ngổn ngang hai bên lề đường. Anh chị em công nhân cung giao thông được dân quân trong các xóm ra phối hợp, đang chữa quãng đường bị phá hoại. Bân lại nghe rõ tiếng cười giòn giã của mấy cô gái tinh nghịch mà anh đã gặp.

Trời tối hẳn. Bên trái cầu, ngọn lửa vẫn còn bốc lên từ cái xóm nhỏ. Một đống rơm giữa cánh đồng đang cháy âm ỉ, thỉnh thoảng một cơn gió lại thổi tung đám tàn lửa đỏ rực bay lên cao. Xung quanh Bân, mùi rơm rạ và lúa cháy, mùi ét xăng, mùi thuốc đạn xông lên nồng nặc. Không biết từ những đâu, người và xe cộ túa ra trên đoạn đường cái. Đơn vị tân binh hành quân thành hàng một, các chiến sĩ khoác súng trường hoặc tiểu liên, quân phục còn mới kêu loạt soạt, những người đi đầu đã sang bên kia cầu mà đuôi đơn vị còn vắt trong cánh rừng, dọc theo bờ suối.

Bân đang bước dò dẫm trong bóng tối bên một hố bom sát cầu thì từ trong đoàn chiến sĩ tân binh đang hành quân, một bóng người tách ra khỏi hàng, chạy gần như lao về phía anh và hét rất to:

- Anh Bân!

Bộ quần áo mới phát còn nguyên nếp hồ kêu loạt soạt. Mùi vải mới. Giọng nói quá quen thuộc. Bân đã nắm tay người chiến sĩ trẻ, mà vẫn chưa nhận ra ai. Cái bóng người nhỏ nhắn, đứng kề sát bên anh liền thốt lên một tiếng kêu khác, gần như reo lên:

- Em đây mà, Lân đây!

Bân cứ ngỡ mình đang nằm mơ. Trong bóng tối, anh đã nhận ra đôi má đầy đặn, cái mũi, đôi mắt và giọng nói mới vỡ. Đúng là thằng em mình. Anh mừng quýnh. Thằng em trai mà hồi ở nhà, anh thường phải kêu ca vì hay cãi lại mẹ và trốn nhà đi chơi rông suốt ngày ngoài bãi biển, bây giờ nó đã khoác bộ quân phục bộ binh vừa khít, đang đứng ở đây, bên cạnh mình. Bân không kịp hỏi han, vì con đường sát cầu chật ních. Anh nắm tay Lân lôi đi:

- Chúng mình phải len mà lên thôi!

Hai anh em len lỏi giữa đám công nhân chữa đường và xe cộ, rồi đi men theo bên lề cầu treo lủng lẳng những cành cây dứa dại. Còi ô tô "pin pin" rúc từng hồi dài. Tiếng cười nói, thúc giục, gắt gỏng. Anh thượng sĩ bộ binh mà Bân vừa gặp ban chiều phụ trách một trung đội đang hành quân qua cầu, anh thượng sĩ hỏi vọng vào trong xóm:

- Có can gì không hả bà con?

Một người đàn bà đứng bên cạnh đống rạ đang cháy giữa đồng trả lời:

- Người chạy được cả. Tiên nhân cha nó! Nó đốt sạch hết nhà cửa rồi!

Bân chỉ Lân giới thiệu với đồng chí thượng sĩ:

- Thằng em tôi đấy!

Bân và Lân đã qua bên kia cầu. Vẫn những hố bom. Vẫn ngổn ngang người và xe cộ. Bên kia cánh ruộng nước, cái xóm cháy hắt lên nền trời những tia sáng đỏ như một cái ráng lửa chiếu thẳng vào khuôn mặt hơi rám nắng và vành mũ bọc lưới của Lân.

Lân được phép ra khỏi hàng để nói chuyện. Đến một quãng đã hơi thưa, Bân vỗ vai Lân, hỏi:

- Em ở nhà ra đi đã lâu chưa?

- Em mới đi được hai tuần - Lân hấp tấp hỏi - Sao anh ở đây?

- Anh ở quân y viện ra, bây giờ trở về đơn vị.

- Anh đánh nhau bị thương ư? - Lân nhìn Bân chòng chọc, và nghĩ đến việc đã lâu anh mình không có thư từ gì về nhà. Bân hỏi:

- Làng ta hồi này thế nào?

Lân vẫn nhìn anh bằng cặp mắt vừa tò mò vừa kính phục:

- Anh bị thương vào đâu?

- Vào ngực, cánh tay, nhưng chẳng hề gì cả. Làng ta hồi này thế nào?

- Làng ta vẫn như thế, chỉ có một điều là thanh niên đi bộ đội rất đông. Chúng nó cũng mới bắn phá sơ sơ thôi. Lúa sớm đã bắt đầu gặt...

- Lúa có tốt không?

- Tốt lắm. Hôm em ra đi, ở nhà đang gặt...

Hai người đi xuống quãng đường dốc đổ từ cầu xuống. Xung quanh như có một dòng thác chảy xiết, đoàn quân và các thứ xe từ khắp các chân đồi, mép rừng, từ trong các khe suối lũ lượt kéo ra đường, cứ dồn tiếp lên mãi. Phía sau, đoàn xe ô tô chạy bằng xích kéo pháo cao xạ đang gầm rít và vượt qua trước mặt hai người, những chiếc nòng pháo đồ sộ chĩa thẳng lên trời.

Lân vừa kể chuyện nhà, vừa ngắm anh với tấm lòng đầy kính phục. Qua con mắt của Lân thì Bân đã được chiến đấu, đã bị thương, và điều ấy là tiêu chuẩn chính để định giá trị một người chiến sĩ bộ đội giữa thời chiến. Người anh ruột đi bên cạnh thật xứng đáng cho Lân kính nể và tự hào! Lân hết nhìn Bân lại nhìn những người chiến sĩ đội mũ sắt ngồi chễm chệ trên những bệ súng cao xạ. Cậu ta luôn đưa mắt ngắm xung quanh. Cảnh náo nhiệt và hùng vĩ trên quãng đường hành quân hoàn toàn chiếm lấy cả tâm trí Lân. Trong trí nhớ của cậu ta, khung cảnh gia đình, cánh đồng làng Kiều và những ngày cắp sách đi học như đã hoàn toàn bị xóa mờ. Ngay từ hôm rời huyện đội đến nơi tập trung, một bãi cỏ rất rộng ở đó mỗi người được phiên chế vào một đơn vị, Lân tự thấy mình đã hoàn toàn dứt bỏ quãng đời một người thanh niên bình thường. Trên bãi cỏ sân bóng, hàng ngàn thanh niên mới nhập ngũ được phát súng và đồ quân dụng (riêng đơn vị của Lân được phát ngay từ khi còn ở huyện đội). Đêm đầu tiên ngủ chung với tiểu đội trên những tấm bạt trải giữa bãi, Lân cứ thao thức nằm đếm sao. Mới chợp mắt, hai giờ sáng đã có lệnh báo động. Tất cả cuốn chăn, bạt vội vàng nhét vào ba lô. Không khí cập rập, khẩn trương và náo nức như sắp ra trận. Hay là ra trận thật? Lân say sưa ngay với không khí ấy. Thế là bắt đầu những chặng đường hành quân. Chẳng ai biết đi đâu, ban ngày gặp làng trú quân trong làng, gặp rừng, suối, trú quân bên rừng, suối. Đêm lại hành quân. Lân hỏi các cán bộ tiểu đội, biết đã sắp về đến vùng đóng quân của sư đoàn và sắp tới sẽ có một cuộc phiên chế chính thức để bước vào đợt tập luyện quân sự. Lân nghĩ đến việc luyện tập quân sự một cách vừa tò mò vừa háo hức. Nhất định phải có những môn học như trinh sát, đặc công chẳng hạn! Nhưng ngay bây giờ, những ngày hành quân, trú quân với biết bao nhiêu công việc mới lạ cũng đã làm cho Lân hết sức say mê.

Lân đi sát bên cạnh anh. Bân lúc này đang nghĩ đến gia đình, anh hỏi Lân:

- Liệu em đi rồi ở nhà dì em có bận lắm không?

- Không sao, ở làng bây giờ nhà ai cũng thế cả. Hôm em ra đi thì ông đã vào ở với dì em.

- Ông có khỏe không? Sao ông lại vào trong ấy?

Lân kể tình hình gia đình đã đoàn tụ, và bữa cơm tiễn chân mình ở bên nhà Bân, mẹ mình cũng vào.

Bân hỏi:

- Ở nhà, u anh và ông vẫn không biết anh bị thương chứ?

- Không.

Bân hết sức mừng vì sự xích mích ở nhà đã tạm thời được dẹp lại. Bân lớn tuổi, và biết suy nghĩ hơn nên anh hiểu hết những chuyện trong gia đình mình, tất cả đều có những nguyên nhân sâu xa từ lâu ngày. Bân hiểu hết tính tình từng người ở nhà. Anh biết, những chuyện ấy không phải đã được thu xếp ổn thỏa, mỗi người vẫn có những ý nghĩ riêng của mình, nhưng dầu sao, như thế vẫn là điều đáng mừng. Tự nhiên, Bân thấy nhớ nhà, nhớ xóm đồng muối và cửa sông Kiều có lẽ dạo này đang giữa mùa nước sa. Bân còn nhớ hồi mình mới vào bộ đội, anh trông thấy mâm cơm, nhìn ngọn đèn cũng nhớ nhà. Đến khi anh xuống tàu thì cái chứng bệnh "lính mới" ấy mới khỏi, và cảnh sống gia đình chỉ còn là một kỷ niệm, anh đã hòa mình vào cuộc sống tập thể ở dưới tàu. Đến bấy giờ, quê hương đối với anh không phải chỉ là một cái làng Kiều, mà là một cái gì rất chung, là khung cảnh của cả đất nước: một bãi cát, một cánh buồm, một ca nước ngọt, một khuôn mặt đồng bào làng chài. Bân còn nhớ có một lần sau hàng tháng trời lênh đênh giữa khơi, tàu gặp một cơn bão dữ dội. Sau cơn bão, tàu lại tiếp tục đi tuần biển. Trên đường đi, bỗng gặp một dòng nước ngọt màu đỏ quạch có lẽ tuôn ra từ một cái cửa sông nào đó, chỉ có thế thôi mà tất cả anh em trên tàu đều hết sức mừng rỡ! Hôm nay tuy không về nhà, nhưng được đi bộ trên con đường dài giữa đất liền, được gặp Lân, Bân đã thấy sung sướng lắm, niềm hạnh phúc có lẽ chỉ những chiến sĩ thủy thủ mới cảm thấy hết được.

Đi hết quãng đường bị bom phá, hai người bỗng nghe tiếng máy bay rần rần. Trước mặt, cách một rặng núi đá đen sậm bật lên mấy ngọn đèn dù máy bay địch vừa thả. Một loạt bom nổ. Lân ngước nhìn ra phía trước, xốc lại quai súng rồi giật tay ra khỏi tay Bân: "Thôi, anh mạnh khỏe, em đi nhé!" Bân chỉ kịp siết chặt đôi vai nở nang của đứa em vào giữa ngực mình và dặn thêm mấy câu. Lân chạy vút về phía trước. Đại đội của Lân đã đi qua từ lâu. Bân nhìn theo hút Lân, chỉ thấy con đường đá dốc tối om và những mũi súng nhấp nhô giữa hai bờ lau rậm xào xạc.

Phía sau, trên chiếc cầu, cách một quãng rất xa, vẫn tấp nập người và xe pháo. Cái ráng lửa hắt lên từ cái xóm cháy ở gần cầu đã tụ vào xung quanh một đám mây, trông xa chẳng khác nào một chiếc lưỡi kiếm nung đỏ.