← Quay lại trang sách

Chương 6 Con sông Kiều đang giữa mùa nước sa.

Đoạn sông trước cửa trường học ngày càng đỏ sậm. Nước thủy triều từ ngoài khơi đổ vào, con nước sa từ trên thượng nguồn đổ xuống, các cụ già kể rằng ngày xưa cá chép vượt qua được ba cửa xoáy nước và sóng lừng ở cửa sông Kiều mới hóa thành rồng.

Thùy đã quen với những mùa nước, với tiếng nước nguồn réo ầm ầm hai bên bờ làm đổ sập từng tảng đất. Mỗi buổi tối, Thùy nghe buổi phát thanh "dự báo thời tiết" báo có mưa to vùng thượng nguồn, qua một đêm, cô thức giấc trông ra thấy nước đã lênh láng bãi cát, dải rừng sú kéo dài bên kia sông cũng đầy ắp nước. Rồi chỉ trong một vài giờ, con nước sa đã tuôn đỏ ngầu cửa sông, cái vạch nước biển xanh đang ngấp nghé bị đẩy lùi ra ngoài mặt biển xa tít.

Bên kia sông Kiều, xóm làng rất vắng. Hồi Pháp thuộc đấy là vùng trộm cướp ẩn náu. Suốt dải bờ biển dài ước khoảng gần mười cây số chỉ có vài ngôi nhà đèn biển bỏ hoang phế nằm giữa một cánh rừng sú mọc dày đặc, kéo dài. Những cây sú lâu năm cao một đầu một với, lá dày và xanh, lớp vỏ ngoài đen sạm, từ thân cây mọc ra hàng chục nhánh rễ cắm chặt vào lớp bùn đen quánh. Rễ sú mọc chẳm và sâu. Hồi kháng chiến, các vị trí địch ở các vùng lân cận và tàu ngoài khơi hàng ngày dội vào không biết bao nhiêu là đạn đại bác nhưng cánh rừng sú vẫn không hề suy suyển. Bom đạn chỉ phạt gãy ngang thân cây nhưng không tài nào nhổ lên được một gốc sú. Trong những năm phong trào đen tối nhất, cánh rừng sú là căn cứ địa vững chắc của du kích Kiều Sơn và các làng xung quanh. Tây càn quét trong làng, ngoài đồng nhưng không lần nào một tên lính lọt vào được cánh rừng rậm rịt và bí hiểm.

Hợp tác xã Kiều Sơn bắt đầu những ngày gặt đại trà. Trận mưa tháng chín đã qua. Gió hanh bắt đầu nổi. Mỗi buổi sáng sớm, lúc bên kia sông Kiều vang rộn lên tiếng kêu, tiếng đập cánh của đàn chim le le và đủ các thứ chim chóc, và một bầu sương muối dày đặc vẫn còn rơi làm mờ đục cánh rừng sú thì bên này sông, hàng chục chiếc đò gỗ hẹp, hình con thoi chở từng đống lúa mới gặt đã lướt thành hàng dọc trên quãng kênh thủy nông về bến sân hợp tác xã. Cả thuyền và lúa, cùng vạt sân xếp lúa đều ướt đẫm.

Trong làng, những tay hái gặt nhanh, những tay đập lúa nổi tiếng đã đi vãn. Người vẫn cứ ùn ùn ra đi: Thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến. Đàn bà bây giờ bó lúa, xóc lúa thay cho đàn ông. Từ hôm bắt đầu gặt đại trà, mỗi người khỏe mạnh trong làng xé ra làm hai, làm ba để làm hết việc ngoài đồng. Gà gáy lần thứ nhất, trong các bếp đã đỏ lửa. Và miếng cơm vào miệng, bước chân xuống ruộng mà con mắt còn cay. Lúc nắng hanh buổi sớm bắt đầu le lói, có đám lúa đã gặt gần xong. Cuối ruộng còn đang gặt, một hàng nón dàn hàng ngang tiến về vạt lúa chín sát bờ, tiếng hái xén thân cây lúa rào rào. Trong lúc đó, ở đầu ruộng vừa gặt xong, hai ba người đã đánh trâu xuống cày vỡ. Những luống đất cũng vội vã trở mình chờ nắng ải, tháo nước để kịp làm vụ chiêm.

Các thầy giáo và các em học sinh năm nay cũng đi gặt.

Một buổi trưa, Thùy vừa ở ngoài ruộng về, đang ngồi nói chuyện với mấy em học sinh ở ngoài thành phố mới xin vào học thì chợt nghe tiếng còi ô-tô. Một chiếc xe com măng ca đeo biển đỏ bò từ từ trên đoạn đê cao mới đắp, tấm vải bạt che mui đỏ quạch vì bụi đường. Từ chỗ ngồi bên phải người lái, một cái đầu húi trọc ngó ra ngoài. Chốc chốc người đàn ông đầu húi trọc, vận quân phục ngồi bên cạnh người lái xe lại đưa ngón tay trỏ sang cánh rừng sú và quay lại trao đổi mấy câu với những người ngồi ở hàng ghế sau.

Đến quãng trận địa bắn máy bay của trung đội dân quân Kiều Sơn thì chiếc xe ngoặt xuống con đường đất rẽ vào cánh đồng.

Thùy nói chuyện với các em học sinh mới xin vào học xong, lúc ngửng lên đã trông thấy chiếc xe quân sự đang bon bon trên quãng đường chạy thẳng vào cổng trường.

Chiếc xe đỗ ngay trước hàng giậu. Cánh cửa mở đánh két.

"Cô Thùy có trong ấy không?" - Một người đàn ông đội mũ lá đang còn cúi lom khom xỏ dép trước cửa xe nhưng đã lên tiếng hỏi. Vừa thoạt trông thấy đôi má đỏ gay và ánh nắng giữa trưa chiếu trên tấm lưng vạm vỡ, Thùy nhận ngay ra ông Lâm - ông bố Bân. Cô vội vã chạy ra lễ phép đáp: "Có ạ, bác mới về đấy ạ!".

Từ cuối tháng ba, ông Lâm đã thôi hẳn chức phó Ban nông nghiệp tỉnh và được điều xuống tăng cường cho huyện, trực tiếp làm bí thư huyện ủy. Ông Lâm rút khăn lau mồ hôi rồi cất giọng hồ hởi, như thói quen của các cán bộ huyện khi ghé qua những cơ sở quen dọc đường:

- Cô giáo có nước cho chúng tôi uống với. Chà, khát nước quá! - Nói xong, ông cầm chiếc mũ lá quạt lấy quạt để và đi thẳng vào nhà.

Căn buồng riêng của Thùy nằm ở cuối dãy nhà lá, bên cạnh căn phòng chứa học cụ. Một chiếc giường con, một chiếc va li đặt cuối giường, chiếc bàn viết và gương, lược, mọi đồ đạc đều sạch sẽ, nhỏ bé. Thùy rất ít khách, khách lạ lại càng ít. Tất cả mọi đồ đạc trong gian buồng hình như đều có những đôi mắt đang ngơ ngác nhìn cái đoàn người vừa bước vào. Bước theo ông bí thư huyện ủy là một đoàn cán bộ quân đội gồm thủ trưởng và các cán bộ thông tin, công binh, tác chiến... Mới nhìn qua cũng biết họ là những cán bộ chỉ huy hải quân, nhưng chẳng rõ người nào cấp bậc gì. Tất cả đều không đeo quân hàm. Quân phục cũng giống nhau: Quần tím, áo sơ mi trắng mới nhuộm xanh chỗ đậm chỗ nhạt. Người nào cũng có những nét thần sắc hao hao giống nhau: Đôi tròng mắt bàng bạc vì đói ngủ, tiếng cười to và rất phóng khoáng, những lo toan và suy nghĩ hình như lúc nào cũng phảng phất trên vừng trán, cả trong tiếng cười sang sảng. Họ bước vào, lần lượt từng người tới chào và bắt tay Thùy một cách thân mật. Thùy vô cùng lúng túng, cô kéo ghế, nói líu tíu:

- Các anh chịu khó ngồi nghỉ một lát, em đi bắc...

Rồi cô chạy đi tìm chiếc ấm siêu bắc lên bếp.

Từ lúc vừa ngồi xuống, cho đến khi Thùy đun nước xong, cô rót nước ra một hàng chén bày trên bàn, ông Lâm không ngớt lời khoe khoang, cô giáo trường làng mình với mấy người bộ đội đi theo:

- Cô Thùy trước đây trọ trong nhà tôi. Bà con trong xóm tôi ai cũng khen cô ấy rất chịu khó, kiên nhẫn dạy bảo các em. Năm ngoái cô ấy là giáo viên tiền tiến trong huyện đấy!

Đồng chí bộ đội ngồi bên ông Lâm là một người trạc gần bốn mươi, đầu húi trọc, nước da tái, đôi tròng mắt xám nhưng đưa đẩy hết sức linh lợi. Đấy là trung tá Quang, khu trưởng khu tuần phòng hải quân. Quang lắng nghe ông Lâm nói, cười hưởng ứng rất nhiệt tình, thỉnh thoảng lại cúi xuống chăm chú nghiên cứu tấm bản đồ "một phần hai mươi lăm nghìn" mà một cán bộ khác, trẻ hơn, vừa giở ra trên bàn.

Gian phòng của Thùy chẳng mấy chốc đã nghi ngút khói thuốc lá. Súng lục, bi đông sắt, áo dù ngụy trang, những đôi giày da nện lộp cộp trên nền đất, tất cả tạo nên một bầu không khí mới lạ giữa căn phòng vốn xưa hay tĩnh mịch và ngăn nắp.

Mọi người uống xong một tuần nước. Họ đã quên đây là nhà riêng một cô giáo, họ nói chuyện vui vẻ không hề giữ ý tứ, báo cho nhau biết trước đấy nửa giờ một chiếc tuần dương hạm của hạm đội 7 vừa di chuyển lên hướng Tây Bắc, vịnh Bắc Bộ và cười oang oang. Từ ban đầu, Thùy đã chú ý đến ông Quang. Thùy đã gặp ông một đôi lần. Cô vẫn còn nhớ, nhưng chắc ông đã quên, không nhận ra Thùy, Thùy kéo một chiếc ghế ngồi tận trong góc phòng, thỉnh thoảng lại chạy xuống bếp rót thêm nước. Lúc cô đánh bạo định hỏi thăm thì cũng là lúc Quang xếp tấm bản đồ lại và trao cho người cán bộ tham mưu ngồi bên cạnh. Chắc hẳn từ lúc vào Quang mải suy nghĩ, đến bây giờ mới có dịp nhìn kỹ người nữ giáo viên mà đồng chí bí thư huyện đã hết lời khen ngợi. Và ông chợt kêu lên:

- Chết chửa, đến giờ tôi mới nhận ra... Nhưng cô còn nhớ có một lần cô đã đến nhà tôi không nào?

Thùy mỉm cười đáp:

- Có ạ, cháu nhận ra bác từ lúc bác mới vào. Bác là bác Quang chú cô Liên ạ!

Thùy quen biết gia đình đồng chí Quang trong khu gia đình quân nhân ở trên phố. Hồi ấy, Thùy còn là một nữ học sinh và rất mê chiếu bóng. Liên là một cô bé liều lĩnh và lười học. Liên thường nhờ Thùy làm hộ toán và giả công bằng cách bao giờ trong khu gia đình quân nhân chiếu bóng thì cô ta rủ Thùy cùng vào xem. Đôi bận, Liên đưa Thùy vào chơi nhà chú thím mình.

Ngày trước, thỉnh thoảng Thùy mới được gặp ông Quang nhưng cô rất quen bà vợ ông và lũ cháu nhỏ. Bà vợ ông (một người đàn bà nông thôn theo chồng ra tỉnh ở) rất mến tính nết hiền lành và dịu dàng của Thùy. Cô hỏi thăm:

- Bác gái và các em "sơ tán" về đâu ạ?

Quang khoát tay:

- Tôi bảo nhà tôi dọn về nhà quê tất cả. Đâu lại trở về đấy như cũ. Còn thằng lớn tôi đã gửi vào trường văn hóa quân đội.

Thùy ngắm ông hồi lâu rồi nói:

- Cháu trông bác hồi này khác trước nhiều quá!

- Đen đi hả?

- Vâng ạ!

Quang bất ngờ cười vang và đưa tay xoa cái đầu trọc của mình:

- Tôi hiểu rồi! Tôi cười cái đầu "sư cụ" của tôi chứ gì? Chẳng phải vì anh Giônxơn gây chiến mà mình phải cắt trụi tóc. Nguyên do là tại cái anh nấm tóc, ngứa vô kể! Thôi thì xấu đẹp gì bọn mình nữa, phải không anh Lâm?

Ông Lâm cũng cười và gật đầu.

Quang hỏi thăm Thùy một cách thân mật:

Chóng thế đấy. Tôi không ngờ cô đã đi dạy học. Cô đã lấy chồng chưa?

Trước mặt mọi người Thùy đỏ bừng mặt:

- Chưa ạ!

- Nhưng chắc đã có người yêu?

- Chưa ạ!

- Cô còn trẻ, việc ấy cứ thư thả, phải không anh Lâm? Tôi cũng thường khuyên cái Liên như thế. Thanh niên phải nghĩ đến việc chống Mỹ cứu nước đã! Bây giờ đang thời chiến, con người ta đã vướng vào chuyện ấy thì nhất định mất thì giờ. Như chúng tôi hồi trẻ thì cũng vậy thôi!

Mọi người nói chuyện vui vẻ một lát rồi ra xe.

Thùy thu dọn cốc chén. Căn buồng của Thùy trở lại tĩnh mịch và gần như buồn tẻ. Những lời khuyên bảo của ông chú Liên gieo vào lòng Thùy những ý nghĩ vẩn vơ: "Mình chưa nên cột mình vào đời sống gia đình... Nhưng mình đã yêu ai đâu? Đã có ai yêu mình? Cuộc sống một cô giáo trường làng bao giờ cũng phẳng lặng, giao thiệp ít...".

Chiếc xe con cuốn một lớp bụi vàng bên hàng rào trước sân trường rồi bò trở lên con đường đê biển đầy những ổ gà. Thùy nhìn theo những bóng người ngồi trong xe và linh cảm thấy một chuyện gì sắp xảy đến. Chẳng có lẽ, vô cớ một đoàn cán bộ quân đội, cả đồng chí Quang và đồng chí bí thư huyện ủy kéo nhau về ngắm phong cảnh vùng cửa sông này? Ban nãy Thùy đã lõm bõm nghe thấy họ bàn tán những chuyện gì về khu rừng sú bên kia sông.

***

Quang mới biết và làm quen với Lâm cách đây mấy hôm, trong một cuộc họp trên tỉnh ủy. Cuộc họp rất quan trọng, có mặt tất cả các bí thư và chủ tịch mười bốn huyện và thị, cụm trưởng pháo cao xạ, trung đoàn trưởng bộ binh và hải quân. Khu tuần phòng hải quân của Quang nằm dài ven bờ biển của tỉnh.

Đồng chí bí thư tỉnh giới thiệu từng cán bộ chỉ huy với các bí thư địa phương có quan hệ công tác. Sau khi trình bày kế hoạch phối hợp tác chiến giữa tỉnh và khu tuần phòng hải quân ở ven biển, đồng chí bí thư tỉnh giới thiệu Lâm với Quang:

- Đây là đồng chí Lâm, bí thư Kiến Thành. Hồi kháng chiến, đồng chí Lâm đã phối hợp với các đơn vị chủ lực mãi. Tuy là tình hình mới nhưng chúng mình chả lạ gì công tác này, chỉ khác là ngày xưa chúng mình đánh Pháp, bây giờ đánh Mỹ, phải không, các đồng chí?

Đến giờ nghỉ trưa, Quang đang định đi tìm Lâm để thảo luận trước một số công việc, và thăm dò xem thử thái độ của Lâm trước nhiệm vụ quân sự ra sao thì không ngờ, chính lúc ấy, Lâm đã đến tìm gặp Quang trước.

Trong gian phòng khách của tỉnh ủy, Lâm nói với Quang rất cởi mở:

- Như anh Thành đã nói, tuy là tình hình mới nhưng chúng tôi chẳng còn lạ gì việc phối hợp với các đồng chí bộ đội. Anh trình bày qua kế hoạch tôi nghe nào?

Kế hoạch quân sự của khu tuần phòng là thiết lập ở vùng biển của huyện Kiến Thành, ngay đầu cửa sông Kiều, một căn cứ dã chiến của tàu. Quang trình bày tầm quan trọng của cái căn cứ ấy, phải đào một con sông xuyên qua rừng sú nối liền sông Kiều với dãy núi đá ở phía trong. Mọi công việc phải hoàn thành trong một thời gian ngắn để cho kịp kế hoạch chiến đấu. Quang nói thêm:

- Cái khó khăn nhất của chúng tôi cũng là khó khăn của các đồng chí. Việc chúng tôi thì cần kíp, mà lúc này nhân dân đang bước vào gặt hái. Số nhân công phải huy động rất lớn...

- Các đồng chí không có đơn vị công binh nào về ư?

- Công binh phải làm những việc khác. Vì thế, ban nãy tôi đã định đi tìm đồng chí...

Lâm vỗ vai Quang rất thân thiết:

- Anh Quang ạ, huyện ủy chúng tôi hứa sẽ hết sức cố gắng, anh cứ yên tâm. Ngày xưa, anh hoạt động vùng đồng bằng chắc cũng hiểu cán bộ địa phương chúng tôi ít nhiều.

Qua vài câu chuyện trao đổi, hai người trở thành đôi bạn tâm đắc. Tình thân giữa hai người dựa trên cơ sở cùng gánh vác một nhiệm vụ chung, và lòng kính trọng cuộc đời hoạt động cách mạng của nhau. Hai người phác qua những khó khăn và thuận lợi sắp tới, Lâm nói:

- Hiện nay các xã ở mạn trên đang phải tập trung làm một số đoạn đường mới và bến phà mới. Công trường "Bãi sú" nếu mở, chủ yếu sẽ huy động dân công các xã ven biển, xã Kiều Sơn sẽ là xã sở tại. Nhân dân ở đấy hồi kháng chiến tốt lắm, bây giờ cũng vậy.

- Hình như quê anh ở dưới đó? - Quang hỏi.

- Vâng, tôi người làng Kiều. Anh biết làng tôi chứ?

Hồi kháng chiến anh ở sư đoàn Đồng bằng thì tất thế nào cũng có lần qua lại vùng ấy?

Quang trả lời hấp tấp như vừa sực nhớ ra một điều gì rất quan trọng:

- Có, có... Tôi đã đánh một trận phục kích tàu ở đấy. Anh Lâm này, anh còn nhớ ai làm bí thư xã anh vào quãng cuối năm 1950 không?

- Ông Vàng.

- Hiện nay còn sống không?

- Còn..

- Đồng chí ấy bây giờ công tác ở đâu?

Nghe Lâm nói hiện giờ ông Vàng vẫn làm bí thư ở dưới xã, Quang sửng sốt: Gần mười lăm năm, con người ấy vẫn làm bí thư ở một xã. Quang hết sức cảm động và sung sướng vì ngày xưa Quang đã gặp ông Vàng, biết ông là con người như thế nào. Tự nhiên Quang hơi buồn:

- Đồng chí ấy đã công tác mười lăm năm, các anh không cất nhắc lên chắc có sai sót gì?

- Chẳng phạm sai lầm khuyết điểm gì cả. Từ ban huyện ủy chúng tôi đến nhân dân dưới xã ai cũng kính trọng đồng chí ấy.

Lâm kể: Ông Vàng làm bí thư xã đến quãng giữa năm 1952 thì cùng một số cán bộ đoàn thể được sung vào bộ đội. Ông chiến đấu được huân chương, được đề bạt lên chức chính trị viên phó đại đội, đến ngày đầu hòa bình mới về địa phương. Lúc mới về, ông Vàng nhận công tác ở văn phòng ban tổ chức tỉnh ủy. Một hôm, Lâm đi công tác về thấy một người mặc bộ quần áo bộ đội có bốn túi, đang vun gốc sắn sau nhà cơ quan. Lâm tới gặp, té ra ông Vàng! Lâm ở trong ban tỉnh ủy, nên ông Vàng gặp Lâm liền trách ngay:

- Tôi tưởng được giải ngũ về làng, ai ngờ các ông giữ tôi lại làm bàn giấy?

- Bác không muốn làm công tác cơ quan ư? - Lâm hỏi.

- Tôi chỉ cầm được cái cày hay khẩu súng, chứ tay tôi không cầm cái bút được.

Thế là tỉnh ủy trả ông về làng Kiều. Ông về, trước sau chỉ xin nhận cái chân bí thư chi bộ như cũ. Đảng bộ xã nhất trí bầu ông làm bí thư đảng ủy, ông cáo mình đã già, chữ nghĩa ít, nhất định không nhận. Nhưng từ ngày thằng Mỹ gây chiến tranh, đã mấy lần ông lên tận tỉnh nằng nặc đòi trở lại bộ đội. Mới đây, ông đưa số anh em "nghĩa vụ" lên huyện lại rẽ vào gặp Lâm. Ông dặn Lâm phải chú ý đến nguyện vọng của mình.

... Buổi trưa hôm ấy, sau khi nghỉ ngơi và uống nước ở trường học, đoàn cán bộ chuẩn bị sang nghiên cứu địa hình bên rừng.

Quang ngồi trong xe, đưa mắt ngắm cánh đồng và dòng sông. Chưa bao giờ ông cảm thấy vui như thế. Xung quanh Quang là cánh đồng lúa chín, trước mặt là biển. Nắng tháng chín vàng thắm hai bên chân đê. Đã mấy lần, Quang quay lại nhìn mái trường, chỗ ấy ngày xưa là bốt làng Kiều. Cũng như những lần có dịp quay trở lại các vùng chiến trường cũ, Quang thấy cái gì cũng đổi khác, cũng mang một ý nghĩa. Vùng cửa sông xung quanh bốt Kiều này ngày xưa là một cánh đồng cỏ lác tốt lút, bây giờ đã ngan ngát hương lúa, và sừng sững ngôi trường cấp hai của xã.

Ngày xưa, huyện Kiến Thành và các vùng biển ven sông Kiều không phải là địa bàn hoạt động của tiểu đoàn Quang. Chỉ có một lần vào cuối năm1950, đơn vị Quang về tổ chức một trận đánh tàu. Trận địa bố trí phục kích ở bên cánh rừng sú. Một buổi tối mùa đông rét như cắt thịt, các chiến sĩ thuộc tiểu đoàn ông ôm súng ngồi thành hàng dọc ở bìa rừng, đại đội cuối cùng kéo dài vắt tận khe núi. Ngoài sông, từ cánh bèo đến ngọn sóng đều sáng rực lên dưới ánh đèn pha của ca nô địch đi tuần tiễu. Bọn lính trong bốt Kiều thỉnh thoảng lại bắn một tràng đại liên "tặc... tặc..." ra cái gò cát ở cửa sông. Bỗng nhiên, từ bên một gốc sú mọc lòa xòa dưới nước, ngay trước mặt Quang, một mái tóc đội mảng bèo tây từ từ nhô lên. Quang tưởng như bàn tay mình vừa bị một gáo nước lã dội vào, ông đang nắm đôi bàn tay gầy guộc và lạnh cóng của người vừa mới tới. Hai hàm răng người ấy vẫn còn đánh lập cập trong tiếng báo cáo: "Các đồng chí cứ đợi, thuyền bè bên ấy chúng tôi đã sẵn sàng cả rồi!". Đêm ấy, tiểu đoàn Quang vượt qua sông an toàn. Khi người chiến sĩ cuối cùng chạy qua trước mặt, Quang vội vàng chụp lấy bàn tay tái nhợt và lủng củng những đốt xương của người bí thư chi bộ làng Kiều và lắc mạnh rồi chạy đuổi theo đơn vị. Từ hòa bình, Quang cũng không có dịp nào trở về vùng này nữa. Thế mà thấm thoát đã mười lăm năm rồi!

Buổi trưa ấy, anh Vàng đang cùng một nhóm đàn bà gặt nốt cánh đồng lúa ngập ở rẻo đồng trũng xa đường cái.

Một anh giao thông đã đạp xe ra tận bờ ruộng đưa cho ông một chiếc công văn đóng dấu đỏ quân sự. Ông Vàng quệt hai bàn tay vào vạt áo, xé chiếc phong bì. Đoạn, ông trao tờ giấy đánh máy mỏng tanh cho cô Tốt lúc ấy đang lim dim đôi mắt ngồi tựa giữa hai bó lúa.

- Cái gì thế, hả bác? - Tốt giật mình mở mắt hỏi.

- Tao bỏ quên kính ở nhà, mày đọc cho tao nghe.

- Con xin bố! Chẳng là vì bố đọc chữ đánh máy rất chậm mà!

Ông Vàng quát ầm lên:

- Cái con này, có đọc ngay cho tao nghe không?

Tốt đọc xong tờ công văn quân sự, ông lập tức ra lệnh:

- Để lúa đấy, để hàng đấy, tao trông. Mày chạy ra cánh bãi "Tàu đắm" gọi anh Hiệu, anh Lượm, anh Đật về đây gặp tao ngay. Nhớ bảo họ mang theo cả súng đạn!

Một lát, ba đồng chí dân quân nai nịt gọn ghẽ hớt hải chạy tới. Bốn người lấy một chiếc đò chở lúa chống ra ngoài bãi sông. Hiệu, tiểu đội trưởng dân quân rỉ tai ông Vàng hỏi:

- Có việc gì đấy hả bác?

- Có một đoàn cán bộ quân đội sắp về nghiên cứu địa hình địa vật bên kia sông - Ông hạ thấp giọng - Chưa biết việc gì thì đừng lộ kế hoạch quân sự của người ta!

Ông nghĩ: Đã có đoàn cán bộ quân sự về nghiên cứu địa hình địa vật thì nhất thiết ông phải trực tiếp hướng dẫn và bảo vệ họ. Qua hơn mười năm hòa bình, ông vẫn giữ cái ý thức cảnh giác của một cán bộ cơ sở trong lòng địch.

Bốn người cắm đò ngồi đợi.

Trên mé đê, chiếc xe quân sự vừa chạy vừa lắc lư trên những ổ gà, đến ngang chiếc cột mốc sơn đỏ liền dừng lại. Đoàn người xuống xe đi bộ qua cánh rừng dương. Ông Vàng trông thấy một người cao tuổi nhất trong nhóm bộ đội đi tách lên phía trước như có việc cần gấp. Người ấy gọi gần như reo lên:

- Đồng chí Vàng!

Ông Vàng nghe gọi, lập tức xách khẩu súng trường chạy tới, trong bụng chưa hiểu ra sự gì. Đồng chí bộ đội dẫn đầu nét mặt rạng rỡ và hoan hỉ, đi xăm xăm về phía ông rồi dang rộng hai cánh tay ôm choàng lấy cả đôi vai gầy gò và khẩu súng trường của ông:

- Đồng chí có nhận ra tôi không? - Quang hỏi.

Ông Vàng cố gắng lấy tư thế đứng nghiêm, đáp:

- Báo cáo đồng chí, không!

Quang ngắm ông Vàng rồi nói:

- Thế mà tôi vẫn nhớ và nhận ra đồng chí. Trông đồng chí vẫn thế, vẫn như hồi năm năm mươi, chẳng khác ngày xưa chút nào cả!

Quang chợt thấy cay cay trên khóe mắt và nhớ cái đêm người bí thư đội bèo tây dẫn tiểu đoàn mình qua sông. Thật kỳ lạ! Sau hàng chục năm, vẫn khúc sông này, vẫn con người ấy, bây giờ Quang lại gặp.

- Chúng mình xuống thuyền đi - Một đồng chí giục.

Ông Vàng vẫn chưa biết Quang là ai. Quang nắm tay ông cùng xuống bến, hai người vừa đi vừa nói chuyện.

Nắng trưa lấp lóa ngoài doi cát.

Hơn một chục người đáp đò qua sông Kiều, sang bên rừng.