Chương 7 Suốt buổi chiều, đoàn cán bộ ở bên kia sông.
Cũng như ngày xưa, ông Vàng lại hướng dẫn cho Quang đi nghiên cứu từng ngõ ngách trong rừng sú. Xong việc nghiên cứu địa hình, ông Lâm phải trở về huyện ngay để kịp dự cuộc họp huyện ủy mở rộng, còn Quang bị ông Vàng giữ lại. Ông Vàng nhất định mời Quang về nhà mình.
Ông Vàng vẫn ở ngôi nhà ba gian, lụp xụp dựng lên từ ngày mới ngừng tiếng súng. Mấy năm qua, các xã viên đua nhau làm nhà mới, riêng ông Vàng vẫn nghèo, vẫn ở vậy, "bao giờ hợp tác xã làng Kiều này giàu phất lên thì ông sẽ dựng nhà ngói một thể" - Ông thường nói đùa như thế.
Buổi tối, ăn cơm xong, vợ con đã đi ngủ cả, ông Vàng còn ngồi nói chuyện với Quang không dứt ra được. Họ vui vẻ nhắc lại chuyện cũ. Hai người, tuy bây giờ địa vị xã hội khác nhau nhưng đã ngồi với nhau bên một ấm nước, một điếu thuốc thì mọi cách biệt đều bị xóa sạch. Những kỷ niệm thời kháng chiến chẳng khác gì viên ngọc trai nằm sâu trong đáy lòng từng người, họ vẫn gìn giữ nó mà không biết, bỗng một lúc trí nhớ chiếu ánh sáng chói lọi vào, những kỷ niệm vụt hiện ra đẹp đẽ lạ thường, và cuộc sống xung quanh họ cũng đẹp đẽ lạ thường! Cả hai người đều trải qua cuộc kháng chiến lần thứ nhất. Quang và ông Vàng là hình ảnh cụ thể của hai hạng người - cán bộ địa phương và cán bộ quân đội, suốt mười năm đã chung lưng đấu cật, rất gay go và dai dẳng, vật lộn với thằng giặc chẳng khác gì một con thú dữ ở vùng đồng bằng.
Những người như Quang, ngày xưa ông Vàng quen nhiều lắm. Đêm hôm ấy, ông đã nhắc tới và kể tên không biết bao nhiêu người - những anh trung đội, đại đội hay tiểu đoàn mà ông đã từng gặp và cùng làm việc. Mỗi người được nhắc đến đều gắn liền với một trận đánh, một chiến dịch càn quét của địch. Ôi làm sao mà quên được những ngày ấy, những con người ấy! Một chiếc quần nâu xắn lên tận bẹn, một khẩu súng ngắn nhét dưới đáy chiếc bị cói khoác trên vai, rồi bàn tay gõ khe khẽ tấm liếp: "Đồng chí có phải là đồng chí Vàng không?". Những người chỉ huy đơn vị bộ đội thường xuất hiện như vậy.
Rồi ánh đèn pin rọi lên một cái bốt, một cái xóm trên tấm bản đồ quân sự đã nhàu nát.
Những đêm gần sáng không một tiếng gà gáy, không một tiếng chó sủa, chỉ có tiếng gió lùa qua bãi lác ven sông Kiều hoang vu, ông dẫn họ đi trinh sát trận địa trở về. Ông và họ nằm vật xuống ven bãi, nằm ép lưng vào nhau, cùng nghe tiếng sóng ngoài cửa sông và thao thức. Khi giấc ngủ chập chờn kéo đến, ông vẫn còn nghe tiếng điếu cày rít, một cái lưng ấp vào lưng mình, có ai vừa đắp choàng qua người mình một tấm áo và cất tiếng hỏi se sẽ bên tai: "Chúng nó xuống mỗi tháng mấy lần?", "Đồng bào bị khủng bố có nản không? Đồng bào có đói lắm không?" Những cuộc gặp gỡ như vậy sẽ kết thúc bằng một trận đánh bất ngờ vào giữa lòng địch. Quân địch co lại một ít. Phong trào dậy lên một ít. Vùng căn cứ lấn ra một ít. Những con người xa lạ đã trở thành ruột thịt với ông lại khoác súng ra đi. Họ đi đến những xóm làng, những chiến trường khác hay nằm lại mãi mãi trên những cánh bãi ven sông Kiều. Và những đêm gần sáng, ông lại thấy họ đến ngồi bên, đắp cho ông một tấm áo và cất tiếng hỏi se sẽ: "Đồng bào bị khủng bố có nản không? Đồng bào có đói lắm không?"...
Ông Vàng say sưa nhắc chuyện cũ chán rồi vỗ vào đùi Quang:
- Đồng chí làm cán bộ cao, chắc hẳn biết nhiều tin tức, đồng chí cho tôi biết với. Chúng tôi là loại cán bộ xã chỉ nghe đồn lõm bõm, mà trình độ phân tích thì chẳng có.
Họ trao đổi, lý giải những sự kiện phức tạp trên thế giới, trong phe ta, rồi nói chuyện tình hình đánh nhau trong miền Nam bằng một giọng rất hào hứng và tin tưởng.
Hai người thức đến gà gáy lần thứ nhất, ông Vàng rót thêm dầu và thổ lộ tâm sự mình:
- Phen này tôi quyết định xin trở lại bộ đội, đồng chí Quang ạ. Đồng chí đừng tưởng tôi yếu. Tôi còn theo trâu hết buổi được thì còn đủ sức theo bộ đội chiến đấu được năm năm nữa.
Quang khuyên ông Vàng nên ở lại làng. Quang nói:
- Giữa lúc này, Đảng lại càng cần những cán bộ như đồng chí ở xã. Việc cầm súng đánh Mỹ lần này, chúng tôi xin lo... Phải nói thật rằng hôm tôi nghe anh Lâm nói đồng chí vẫn còn ở đây, nghĩ lại được gặp đồng chí, tôi mừng và cảm động lắm.
Gần sáng hai người mới đi nghỉ. Quang đặt mình xuống bên cạnh ông Vàng, trên chiếc giường tre đơn sơ. Đêm hôm ấy, ông Vàng cứ nằm trằn trọc, thao thức. Trong lòng ông có cái gì náo nức, muốn trỗi dậy. Lâu nay, ông vẫn nghĩ mình chữ nghĩa ít, tác phong chậm chạp, khả năng kém, không thể nào theo kịp mọi người. Lâu nay ông vẫn tự xếp mình vào loại cán bộ già cỗi, tuy có tinh thần nhưng cũng không thể theo kịp bước tiến mới của cách mạng được nữa.
Sáng hôm sau, trước khi ra về, Quang đề nghị ông Vàng dẫn đi xem cái xác tàu chiến mà đơn vị mình đã đánh đắm trên cửa sông Kiều năm 1950. Quang rất lấy làm thú vị khi nghe ông Vàng kể đồng bào đã quen gọi cánh bãi là bãi tàu đắm. Hai người lên đê, Quang đưa mắt ngắm dải cát lẫn váng bùn ăn lan ra ngoài mép nước, rau diếp dại, cỏ lông gà mọc trùm lên những đám cói mới thả, Quang cố nhớ lại cái thế trận phục kích tàu ngày xưa và hỏi:
- Nó chìm ở quãng nào nhỉ?
Ông Vàng cười, đưa tay chỉ về phía một vạt cói tốt lút, xanh ngăn ngắt như cánh rừng sú ở cuối bãi:
- Nó nằm kia, ta cứ lội xuống vạch cói ra thì thấy xác cái thằng Tây còn nằm kia!
Quang xắn quần theo ông Vàng lội xuống giữa bãi cói. Chiếc tàu chiến của giặc Pháp nom đến thảm hại, chỉ còn là một đống sắt méo mó bị nước mặn ăn mòn, xung quanh đít tàu bám đầy hà. Quang quay lại hỏi ông Vàng:
- Mấy năm qua, bác không biết gỡ sắt ra mà làm gì ư?
Lâu nay ông Vàng vẫn nghĩ cái đống sắt gỉ chẳng làm gì được, đã để nước mặn ăn mòn đi nhiều, bây giờ nghĩ lại lại thấy tiếc!
Tay gõ gõ vào một mảnh sắt, ông Vàng nói với Quang:
- Cũng chẳng phải của vất đi đâu. Sắt này là loại sắt tốt, tuy đã lâu ngày nhưng mới hỏng lớp vỏ ngoài, còn dùng được. Nay mai tôi sẽ cho anh em dân quân lập một cái bệ rèn, rèn gươm mác đủ trang bị cho cả làng này ấy chứ!