← Quay lại trang sách

Chương 8

Sau khi đoàn cán bộ nghiên cứu về được mấy ngày, ông Vàng huy động toàn lực lượng xã viên tập trung gặt cánh lúa ở bãi Tàu đắm bên ngoài đê. Trên các thửa ruộng pha cát của cánh bãi bây giờ chỉ còn trơ gốc rạ lởm chởm. Ngoài ngã ba con đường cái và dốc bờ đê vào làng, mới cắm một tấm gỗ đề hàng chữ sơn đỏ "Bến đò Kiều, 1500m". Từng đoàn ô tô vận tải quân sự chở những khối máy móc trùm vải bạt kín mít chạy rì rì ngoài đường cái. Những chiến sĩ lái xe ngó ra ngoài buồng lái, ngắm tấm biển đỏ ở ngã ba đường và quay xe thẳng theo đoạn đường đê vào làng. Chỉ trong vài hôm, trên các thửa ruộng mới gặt đã hiện ra từng đống máy móc cao lù lù, che bạt kín mít. Một tiểu đội chiến sĩ hải quân mặc quần áo thợ lem luốc suốt ngày hì hục quanh những chiếc máy mới chở đến.

Vì còn phải giữ bí mật kế hoạch quân sự, các cán bộ xã chưa phổ biến cho nhân dân biết những công việc của anh em bộ đội. Tuy vậy, bà con làng Kiều cũng đã đoán biết được. Trong làng, từ các ông cụ già đến các thanh niên, các em bé đều phấn khởi. Trong những năm kháng chiến, mối tình giữa những người dân làng Kiều với bộ đội rất khăng khít, mỗi người trong làng đều nhớ tên tuổi một vài chiến sĩ thuộc đơn vị này, đơn vị khác mà gia đình mình đã từng đón tiếp, nuôi nấng. Mấy năm hòa bình yên tĩnh, vùng cửa sông Kiều vắng bặt bóng anh bộ đội. Những người lính từng nằm gai nếm mật, nhường cơm sẻ áo với nhân dân đã rút về các đơn vị tập trung đóng trong các doanh trại ở xa. Bà con làng Kiều vốn sẵn có cảm tình với bộ đội, bây giờ nghe tin "anh em" sắp trở về, ai nấy đều vui vẻ và sẵn sàng giúp đỡ. Trông thấy từng đoàn ô tô xếp hàng dãy dài trên đê, và những khối máy móc dỡ trên xe xuống xếp đầy cánh bãi, mọi người càng phấn khởi và tin tưởng. Bộ đội mình bây giờ đã lớn mạnh, đến thằng Pháp ngày xưa ở đây cũng không thể có nhiều xe cộ, máy móc như thế kia được!

Công việc đầu tiên của đồng bào trong làng là thu xếp việc đồng áng để chuyển gấp số máy móc của bộ đội sang bên kia sông.

Buổi chiều trên cánh đồng làng Kiều hôm nay việc gặt hái càng tấp nập, hối hả. Trời vừa chạng vạng, lúa đã được chuyển về sân kho gần hết. Trên các thửa ruộng suốt năm dải đồng vắng bặt bóng người. Theo lệnh của ông Vàng, mọi người chuyển gấp lúa về, kịp ăn cơm để ra bến cho sớm.

Đêm nay, cả làng Kiều tập trung sức chuyển máy sang rừng sú. Trời vừa tối, trong các xóm và ngoài bãi tấp nập người đi lại. Ngoài bến đò trước cửa trường học rộn lên những tiếng ồn ào. Từ các trẻ em và người già, đều kéo ra bến đò. Các giáo viên và các em học sinh trường cấp hai đêm nay cũng ra bến.

Ăn cơm xong, Thùy vội vàng thay bộ quần áo mới mặc chiếc áo vải nâu cô vẫn thường mặc đi đào hào. Cô khóa cửa, vừa bước ra sân vừa quấn hai dải tóc lên sát gáy. Ngoài sân, các em học sinh và các thầy giáo đã đến đông đủ.

Thùy cùng mọi người ra tới nơi, thấy bà con xã viên trong làng đã kéo ra đông nghịt. Ông Vàng ngước lên nhìn trời đang lác đác có hạt mưa, động viên mọi người:

- Đêm nay chúng mình phải khiêng suốt đêm mới xong. Bà con chúng ta hãy cố gắng lên!

Dưới bến, thuyền nan đỗ san sát. Ngoài bãi, các chiến sĩ đã tháo rời các bộ phận máy móc và chèn lót cẩn thận. Mọi người chia thành từng tốp, lần lượt khiêng xuống thuyền. Tiếng cười nói, tiếng gọi nhau ầm ĩ trên khúc sông. Thùy hòa mình vào cái không khí ồn ào chung quanh. Cô nhập vào một tốp. Gần một chục người xúm xít quanh bốn chiếc đòn khiêng lồng vào một khối máy rất lớn. Sau tiếng hô "hai, ba" tất cả đứng lên. Chiếc đòn dồn sức nặng trên đôi vai bé nhỏ của Thùy. Cô vịn tay lên vai mấy người đàn bà đi bên cạnh, nhích từng bước xuống phía bờ sông.

Ván cầu và be thuyền trơn tuột, dính đầy bùn. Từng người lần lượt bước lên. Thùy đang cố lấy đà bước lên chiếc cầu gỗ, chợt có người gọi phía trước "Cô đấy à?". Thùy ngửng lên, trông thấy một bóng người đàn bà cao lớn, cô nhận ngay ra bác Thỉnh. Từ trên thuyền, bác Thỉnh vội vã len qua mấy người đàn ông, bước nhanh xuống và ghé vai vào đoạn đòn khiêng sau lưng Thùy.

Bộ phận máy được đặt xuống nhẹ nhàng, chiếm gần hai khoang thuyền.

- Sức tôi còn con gái mà thua bác. Không có bác đỡ, tôi khó mà lên cầu được! - Thùy thở phào, nói một cách ngượng nghịu.

Bác Thỉnh kêu:

- Tôi chưa thấy cô giáo nào như cô, việc gì cũng cứ lăn vào!

Thùy đáp:

- Hôm nay các giáo viên đều đi khiêng máy, cả các em học sinh lớn nữa!

Chiếc thuyền từ từ trôi ra giữa sông, nước đã mấp mé bên mạn. Bác Thỉnh ngồi sát bên Thùy, hỏi thăm:

- Vừa rồi cô về thăm nhà, cụ có mạnh khỏe không?

- Tôi chưa về trên nhà được, bác ạ!

Câu hỏi của bác Thỉnh làm cho Thùy lại nghĩ đến mẹ. Đã gần một tháng, cô chưa về nhà. Trước kia, hồi tình hình còn yên tĩnh, tuần nào cô cũng về trên phố thăm mẹ một lần. Thế mà lâu nay, công việc nhà trường và công việc địa phương quá bề bộn, mặc dầu cô luôn luôn nghĩ đến mẹ, càng thương mẹ nhiều hơn, vẫn không thể về được.

Một lát, bác Thỉnh đưa mắt nhìn ra mé cửa sông và hỏi Thùy:

- Lâu nay, ngoài trường cũng không nhận được lá thư nào của thằng Bân ư?

Thùy còn ngồi yên lặng chưa kịp đáp, bác đã nói tiếp:

- Cái thằng gan thế. Cô ngồi sát vào đây kẻo nước sánh vào ướt hết. Nó đánh nhau bị thương nặng mà chẳng hề báo tin gì về nhà đấy!

Thùy nghe và giật mình:

- Ai báo cho bác cái tin ấy?

- Ông Lâm bảo với tôi mà! Từ hôm ông Lâm về nói cái tin ấy, tôi thương nó quá. Chả lẽ lại đi giận con? Vài hôm nữa, tôi định đi thăm nó, xem nó bị thương ra làm sao mà chẳng gửi thư từ về nhà...

Chiếc thuyền đã sang đến bãi. Mọi người đứng dậy lại bám quanh những chiếc đòn khiêng.

Bờ đất bên này càng tối. Tất cả chìm trong một màu đen dày đặc. Những cành sú chi chít, kết chặt lấy nhau như một bức thành. Mấy người đi đầu phải vừa đi vừa đưa tay ra phía trước sờ soạng để lần lối đi.

Thùy như người bị lạc giữa bóng tối trong rừng. Cô chỉ nghe tiếng nói lao xao, và bốn phía sờ chỗ nào cũng tua tủa những cành cây. Dưới đất xông lên mùi bùn, đặt bàn chân xuống chỗ nào cũng lún ngập đến gối.

Bác Thỉnh bảo Thùy:

- Đoạn này khó đi lắm, cô để tôi khiêng một mình.

Từ đấy cho đến khi vào đến chân núi, một mình bác Thỉnh giữ một đầu đòn. Máy nặng, trời tối, rừng như vây lấy nhưng bác vẫn cứ bước băng băng. Hình như bác cũng đã quên cả việc Bân bị thương và nỗi lo lắng của mình.

Chốc chốc, Thùy tới bên cạnh:

- Bác để cho tôi khiêng một đoạn.

Bác Thỉnh trao chiếc đòn cho Thùy, nhưng chỉ một lát, bác đã ghé đôi vai chắc chắn của mình vào phía sau.

Trong khi những chiếc thuyền của hợp tác xã làng Kiều liên tiếp chở những chuyến máy đầu tiên sang rừng thì dân công các xã ở gần cũng tới, đứng rải rác hay tập hợp thành hàng ngũ bên kia sông. Trên bờ đê, đàn ông, đàn bà chen chúc, áo tơi lá và chăn chiếu loạt soạt, tiếng người phụ trách hô khẩu lệnh tập họp, tiếng cười ré lên trong đám con gái, những đốm thuốc lá cháy lác đác... Trước cửa trường học, ông Vàng lật đật xách chiếc đèn bão chạy đi tìm các đồng chí phụ trách các xã.

Các thứ máy chất đầy trên bãi Tàu đắm vẫn chưa đưa qua sông được bao nhiêu. Sau chuyến đầu tiên, số người chuyển máy được tách ra làm hai. Một nửa phụ trách khiêng máy từ bãi lên thuyền và một nửa khác, toàn là những người khỏe mạnh chuyển tiếp từ thuyền vào tận chân núi.

Bác Thỉnh và Thùy đều xung phong ở lại bên rừng. Trong khi chờ chuyến thuyền thứ hai sang, bác Thỉnh dắt Thùy đến bên một gốc sú mọc sát bên bờ sông, mặt đất tương đối khô ráo và bằng phẳng. Bác với tay bẻ một cành lá đưa cho Thùy xua muỗi, rồi bảo:

- Ta ngồi đây nghỉ một lát.

Thùy ngồi xuống, tay không ngừng phe phẩy cành lá trên đôi bắp chân còn dính đầy bùn. Thùy bắt đầu nói với bác Thỉnh tất cả mọi việc mà cô đã biết. Cách đây mấy hôm, Bân đã biên thư trả lời cho cô biết anh sắp ra viện, anh rất khỏe mạnh, chỉ còn mấy ngày nữa là được trở về đơn vị; và Bân dặn cô không cần phải cho gia đình anh biết chuyện anh bị thương làm gì.

Bác Thỉnh nghe xong, bác rất mừng vì Bân đã khỏi, nhưng lại trách Thùy:

- Sao cô biết nó bị thương mà không bảo cho tôi biết?

Thùy thú thực:

- Hôm tôi vào ăn cơm, tôi đã định nói nhưng lại sợ... bác sinh ra lo lắng, tôi lại không dám...

- Cô tưởng tôi lo, rồi đâm quýnh lên chứ gì? Chẳng phải đâu cô ạ, cháu nó đi đánh giặc, trước mũi tên hòn đạn bị sây sát là chuyện thường. Mình đánh nó thì nó cũng đánh mình. Rồi anh em trong đơn vị lại chăm sóc cho nó khỏi. Số đàn bà như tôi suốt đời chỉ thấy vất vả với lo lắng nên đã quen với những chuyện ấy đi rồi!

Chỗ hai người đang ngồi, muỗi bay tỏa ra như trấu. Bác Thỉnh vẫn cởi trần, cầm chiếc áo cánh đập phành phạch vào hai bên vai. Bác vừa xua muỗi vừa kể lại trận càn năm đầu kháng chiến, ông cụ Lâm và ông Vàng phải rúc trong rừng gần nửa tháng, muỗi đốt sưng vù cả hai bắp tay. Lần địch càn ấy, người em trai ông Lâm làm quân báo xã bị địch phục kích bắt được. Nó đánh suốt nửa tháng, không còn sót một thứ đòn gì. Bác Thỉnh sót ruột vì thương em chồng, ngày nào cũng xách liễn cháo lên đồn khóc lóc đòi tiếp tế, đêm đêm lại nắm cơm đem lén ra rừng cho ông cụ. Người em bị địch bắt nhưng nhất định không chịu khuất phục. Về sau, chúng đã đổ thuốc đạn lên bụng và đốt. Một buổi trưa bác Thỉnh xách liễn cháo lên đến cổng bốt Kiều, liền vứt ngay xuống và chạy vào sân cõng xác em chồng về...

Bác Thỉnh kể cho Thùy nghe những đận gian lao thời kháng chiến, bác ngồi suy nghĩ một lát rồi tâm sự:

- Đời người ta cũng có nhiều thứ khổ. Đói là một. Nhưng cái đói cũng không bằng thằng giặc. Hồi kháng chiến, giặc bắt bớ lùng sục, nay bắt người, mai phục kích tra khảo. Có những lúc tôi lo đến nẫu gan nẫu ruột. Nhưng ngồi mà lo cũng chẳng được! Tôi vẫn ăn vẫn làm, vẫn đẻ con, nuôi con. Người ta vẫn bảo cái con mẹ Thỉnh không có ruột, chỉ biết làm như trâu. Thế đấy cô ạ! Trời sinh ra người đàn bà để mà gánh vác... Kìa, thuyền đã sang rồi, chuyến này tôi xem ra còn nặng hơn chuyến trước đấy!

Bác Thỉnh mặc áo đứng dậy và đi xuống gần mép nước. Bóng bác cao lớn, đôi vạt áo cánh buông lòa xòa. Thùy cũng đi theo bác. Năm chiếc thuyền sang cùng một lúc. Cả năm chiếc đều không chở máy mà dành để chở dân công mấy xã tranh thủ sang rừng trước.

Trong phút chốc, khu rừng sú như bừng tỉnh. Xung quanh chỗ hai người đứng, nổi lên tiếng dao phát cây rào rào. Tận trong khe sâu sát chân núi vang ra tiếng cây đổ. Một ngọn đuốc soi lập lòe. Lửa đuốc loang ra càng nhiều. Đoàn người các xã vẫn ùn ùn đổ vào các ngách rừng. Tiếng dao chặt gốc cây chan chát. Một cây cao đổ ập xuống làm cho một cặp chim le le đang ngủ chợt giật mình thức giấc, cất lên mấy tiếng kêu hốt hoảng rồi đập cánh bay ra ngoài sông.

Thùy đứng giữa khu rừng tối, lập lòe ánh đuốc và lắng tai nghe những tiếng động của rừng ở chung quanh, tự nhiên cô quờ tay nắm lấy bàn tay rất to và ráp của bác Thỉnh.

Khu rừng sú âm u, gần mười năm nay chỉ có chim le le và giống cá nác ở đã thức dậy đột ngột, như mười năm kháng chiến, nó vẫn thức để lắng nghe từng tiếng bước chân địch đi càn và vây rừng.