← Quay lại trang sách

Chương 10

Xét về họ gốc, gia đình ông cụ Lâm ở xóm trong đồng, cái xóm to nhất trong năm xóm của làng Kiều. Hiện nay nhà chị Quý ở đấy.

Có thể nói vợ chồng ông cụ Lâm là người đã có công "khai thiên lập địa" ra cái xóm đồng muối. Sáu chục năm về trước, ông cụ đi ở cày ruộng cho một gia đình giàu có cự phách. Trong nhà ấy có một người con gái mà lão chủ vô tình nhặt được ở một xó chợ nào đó. Một hôm, lão chủ gọi anh canh điền còn trẻ tuổi đến, bảo một câu trống không: "Tao cho mày con bé ấy. Từ nay hai chúng mày là vợ chồng!". Lão nổi tiếng ác ngầm và keo kiệt. Trước nhà lão có cái cổng xây vòm cuốn, then cửa gài theo kiểu đóng chuồng trâu. Hai vợ chồng ông cụ Lâm ở cho nhà lão đến khi có đứa con trai đầu lòng thì xin ra ở riêng. Một buổi sớm, ông cụ Lâm một tay bế con, một tay ôm một bó lát giường bằng thứ đăng cũ đã thải. Bà cụ bưng một cái thúng đựng vài cái bát mẻ. Đấy là tất cả gia tài của họ khi bước qua cái vòm cổng cuốn, bắt đầu cuộc đời tự do của mình.

Hai người đi lang thang, tối đến phải ra bãi cắt lá sú giải ra rồi lát tấm đăng cho con ngủ. Hồi ấy, cánh bãi xóm đồng muối đâu được như bây giờ. Đấy chỉ là một cái hói nước mặn vắng tanh vắng ngắt, chỉ có cỏ lông chông, sú vẹt và bóng ma trơi ban đêm bay chập chờn. Chẳng khác nào một con rồng đang giữa cơn đau quặn, dòng sông Kiều đến mùa nước lũ lại vật mình vật mẩy vào hai bên bờ. Từng lớp phù sa dồn ra phía cửa sông, bồi vào cánh hói. Hai vợ chồng, sau một đêm bàn tính, quyết định cắm lại đấy. Hai người đấu sức nhau lại đắp một cái nền nhà rất cao, nằm trơ trọi như chiếc cù lao giữa kỳ con nước sinh. Công việc làm ăn ban đầu cực kỳ khó nhọc, sức hai người vượt qua được cũng thật ghê gớm! Những người nghèo trong xóm thấy thế cũng kéo nhau ra ở. Những người nghèo tựa vào nhau mà sống. Nhiều nền nhà, vườn tược tụ lại thành một cái xóm. Con người ta cắm hai bàn chân xuống đất thật là chặt! Trong mấy chục năm, hết hương lý đến nhà giàu cắm nhà cắm đất, những lần nước biển dâng cuốn sạch hết nhà cửa, những năm kháng chiến địch bắt bớ, giết chóc, đốt phá...; cuối cùng mọi biến cố chẳng khác gì những lớp sóng dâng lên rồi lại rút đi, cái xóm mới ngày một vững như gốc cây cổ thụ đã cắm chặt rễ xuống đất không gió bão nào xô ngã được nữa.

Trong những buổi nói chuyện trên huyện hoặc trên tỉnh, Lâm hay nhắc đến cái xóm nhà mình. Một cái xóm cỏn con, chưa đầy bốn chục nóc nhà, bốn bề trống huếch trống hoác thế mà suốt mười năm kháng chiến không một trận càn nào cơ sở bị vỡ. Người trong xóm đi bộ đội, đi làm cán bộ thoát ly cũng nhiều. Lâm được giác ngộ cách mạng sớm, đã từng tham gia Việt minh bí mật và lãnh đạo cướp chính quyền ở xã mình. Lúc xảy kháng chiến toàn quốc thì khu điều Lâm đi công tác nơi khác, cho đến hòa bình Lâm mới được về gần nhà.

Từ ngày hòa bình, mỗi khi về làng, bước chân đến trước xóm đồng muối, Lâm rất lấy làm tự hào về quê hương, nhưng không lần nào Lâm không thấy chạnh lòng về việc riêng. Hàng chục năm qua, cái vết thương trong lòng ông mà chính ông đã gây ra lại nhói lên. Mỗi lần tự nhận xét một cách nghiêm khắc, Lâm tự thấy mình là một cán bộ tận tuỵ, trung thành với Đảng, đã đem hết sức mình vào sự nghiệp cách mạng chung, nhưng đối với gia đình, đối với ông cụ Lâm và bác Thỉnh, Lâm lại thấy mình có biết bao nhiêu là thiếu sót. Điều đó làm cho Lâm vô cùng áy náy, không nguôi được.

Từ trước đến nay, mỗi khi về làng, Lâm thường ở nhà bác Thỉnh, thỉnh thoảng mới sang bên nhà chị Quý. Hôm ấy, Lâm dắt xe thẳng theo con đường đê khấp khểnh về thẳng xóm đồng muối. Lâm đi qua những trạt sân phơi phẳng lỳ, rộng và vắng. Đầu con ngòi dẫn nước mặn từ ngoài biển vào, một lũ trẻ con cởi trần, đang mò cá, bắt ốc, đứa nào đứa nấy lấm lem như những thỏi than. Nhìn lũ trẻ trong xóm, Lâm lại sực nhớ hồi mình còn nhỏ. Lâm đi qua, những đứa trẻ ngước lên nhìn rồi lễ phép chào:

- Chào bác ạ!

- Chào bác Lâm ạ!

Sau một đoạn ngòi lấp sau bụi sòi, cái Lý gọi "Bố!" rồi chạy vụt ra. Lâm thấy cái đuôi tóc đỏ hoe của con lấm những bùn.

Năm gian nhà bác Thỉnh vắng ngắt, càng trống trải. Nền nhà và bờ hè mọc đầy hoa muối. Cứ nhìn những lốt chân thưa thớt in trên những nụ hoa muối trắng xóa và nhỏ li ti, Lâm cũng biết được trong nhà chỉ còn có hai người, và vợ mình ở dưới lò thỉnh thoảng mới về nhà. Lâm càng thương cái Lý. Trong mối tình đối với những người trong gia đình, Lâm dành cho đứa con gái út ở bên này một phần riêng đặc biệt. Nó còn bé mà đã giống mẹ làm sao, từ giọng nói, cách đi đứng. Thấy bố về, con bé mừng quýnh. Như một người đàn bà đảm đang trong nhà, nó chạy đi thổi lửa bắc cơm cho bố, rồi ra ao làm mấy con cá bống bằng ngón tay mới bắt được.

Lâm hỏi việc học hành của con rồi bảo: "Con có muốn lên huyện ở với bố không?".

Nó quay lại hỏi:

- Vậy u ở nhà với ai? - Con bé ngẫm nghĩ một lát rồi thủ thỉ phàn nàn - Anh Bân thì đi bộ đội đánh Mỹ, ông thì vào ở trong nhà dì, u thì ở dưới lò. Thế là con ở nhà có một mình. Ngày xưa, nhà ta có anh Bân, có ông, lại có cả cô Thùy. Giá bây giờ cô Thùy lại vào ở nhà ta như hồi nào thì con thích hơn!

Hai bố con ăn cơm. Nồi cơm độn một nửa khoai lang khô, có những lát khoai vẫn còn sống. Cái Lý xới cho bố một bát cơm rặt, rồi nó ngồi nhai từng lát khoai một cách ngon lành. Lâm thấy động lòng. Ông nhất định bắt con phải ăn bát cơm của mình.

Đang dở bữa thì bác Thỉnh về, xách lủng lẳng một xâu cá. Lâm hỏi vợ:

- Sao nhà biết tôi về đây?

- Tôi nghe ông Vàng bảo.

Nghe vợ nhắc đến ông Vàng, Lâm phát phì cười, lại chợt nhớ đến cái tính nóng nảy của vợ. Trong cuộc họp đại hội xã viên hôm trước mà Lâm có dự, ông Vàng nói rất dài. Xưa nay, ông Vàng có thói nói năng rề rà, bữa ấy ông Vàng lại nói vừa rề rà vừa dài. Từ trong góc tối, bác Thỉnh liền đứng bật dậy: "Ông nói dài nghe phát sốt cả ruột. Có việc gì thì cứ nói thẳng ra, khắc chúng tôi làm!".

Loáng một cái, bác Thỉnh đã nấu xong nồi canh. Bác múc cho hai bố con mỗi người một bát cá lành canh, miệng giục:

- Ông ăn cá đi! Ăn cơm xong, ông sang bên dì Quý xem nhà cửa hồi này ra sao. Từ hôm thằng Lân đi, chị ấy vẫn không dám sang bên này. Hôm nọ tôi có vào, nhưng lại không gặp. Ông bảo chị ấy có việc gì khó khăn thì sang bảo tôi.

Lâm đặt bát cơm xuống, hỏi vợ:

- Nhà bàn với ông sang ở bên ấy phải không?

- Phải.

Lâm có vẻ không bằng lòng:

- Việc này đáng lẽ nhà phải bàn với tôi mới phải?

- Ông định nói sao?

- Tôi không muốn ông lại vào trong ấy. Giá mà tôi biết trước...

Bác Thỉnh đón được ý chồng:

- Ông sợ dì ấy ăn ở với ông không ra làm sao, rồi lại như ngày xưa phải không? - Bác Thỉnh suy nghĩ rồi nói - Con người ta nay khác, mai khác. Khắc chị ấy biết nghĩ ra. Hòn đất còn nặn nên nồi được, hóa là con người ta!

- Nhưng còn ông? - Lâm ngắt lời vợ.

- Ngày trước, ông cũng giận dì ấy nhưng bây giờ thì ông chẳng để tâm đến chuyện ấy nữa đâu. Ông để tâm thì ông chẳng vào ở trong ấy. Từ hôm thằng Lân đi, không có ông thì chị ấy cũng chẳng biết xoay xở như thế nào. Nhà chỉ có một người lớn, mỗi nách hai đứa con nhỏ.

Lâm ngồi trước mâm cơm, vẻ mặt tư lự như khi đứng trước một vấn đề khó khăn. Hôm Lân lên huyện, Lâm sang huyện đội xin phép cho con sang bên cơ quan huyện ủy chơi. Nghe Lân nói ông cụ đã sang ở bên nhà chị Quý, Lâm lấy làm ngạc nhiên và tỏ vẻ không bằng lòng. Lâm không thể quên sự đối xử của người vợ hai với bố mình. Tuy rất yêu chị Quý, nhưng Lâm không phải hạng người mê vợ đến nỗi quên bố mẹ. Lâm nghĩ đời ông cụ đã phải chịu bao nhiêu sự khó nhọc, vất vả, nên mình phải tạo cho bố một cuộc sống dưới chế độ mới hơn ngày trước, không những bố được no ấm, mà về tinh thần làm sao cho bố được thảnh thơi. Lâm đã tính toán rất kỹ, Lâm dự định để ông cụ ở với bác Thỉnh ở ngoài xóm đồng muối cho đến khi về già. Bác Thỉnh và ông cụ đã từng no đói, giặc giã có nhau, từng sống với nhau bằng mối tình của kẻ nghèo khó trong hai ba chục năm, từ ngày đen tối của chế độ cũ. Để bố ở chung với người vợ cả của mình, Lâm không phải lo ngại điều gì cả. Hơn nữa, xóm đồng muối là mảnh đất có nhiều gắn bó với ông cụ, phần mộ của bà cụ, khi cải táng Lâm không đem vào trong đồng mà cũng để ở ngoài này. Từ xưa đến giờ, tuy ngoài xóm bãi đồng muối nóng nực, nhưng ông cụ vẫn thích ở ngoài này hơn.

Xưa nay, Lâm cho rằng mình thu xếp cái hoàn cảnh gia đình đặc biệt của mình như cách ấy là hợp lý nhất, đã tính toán hết sức kỹ lưỡng, không thể nào khác được.

***

Chị Quý thuộc loại người đàn bà có con rồi mới bắt đầu có sắc đẹp, càng sinh đẻ thì vẻ đẹp như một bông hoa càng nở rực rỡ.

Cuộc đời của chị cũng giống sắc đẹp của chị, tuy là làm lẽ nhưng về sau lại có nhiều hạnh phúc: Người vợ cả chẳng bao giờ biết ghen tuông; nhà cửa cao ráo, đẹp đẽ; chồng công tác ngày một tiến bộ. Chị vẫn thường trả lời với mọi người: "Ông ấy làm việc ở trên tỉnh".

Ngày mới lấy chồng, chị Quý xuất thân gia đình buôn bán nhưng là một người con gái hiền lành nhất vùng chợ Hạc. Những năm mới về làng Kiều, vì con cái ngày một đông, chị thôi hoạt động công tác nhưng đối xử với bác Thỉnh và ông cụ Lâm một mực lễ phép, tỏ ra biết cư xử trong nhà. Cũng như những người đàn bà hay cậy mình có chồng làm sang, những thiếu sót của chị bắt đầu từ một cách suy nghĩ sai lầm về địa vị mới của chồng. Dầu sao chị vẫn là con người quen tính toán theo cách buôn bán. Trong thâm tâm, chị tự nghĩ chỉ có mình mới xứng đáng được ăn nói, giao thiệp với bạn bè và đồng chí của ông Lâm từ trên huyện hoặc trên tỉnh xuống.

Nhà chị Quý ở đầu xóm, lại kề đường nên cũng có nhiều khách. Đấy là một ngôi nhà năm gian, lợp tranh nhưng ba mặt tường đều trát vữa rất kỹ, bên ngoài quét vôi màu vàng tươi. Nền nhà cao, phía trước có bậc thềm xuống sân. Xung quanh nhà cây cối um tùm. Cạnh vườn cây là bể nước, nhà bếp. Tất cả cái cơ ngơi cao ráo, mát mẻ ấy dựng trên nền đất được chia sau cải cách ruộng đất. Cái nền đất của nhà chị Quý, từ hồi làm anh canh điền, ông cụ Lâm đã thông thuộc như thuộc lòng bàn tay, cứ nhắm mắt cũng biết chỗ nào trâu đi có thể vấp, vì hai vợ chồng ông cụ đã ăn ở và sinh Lâm ở đấy. Ông cụ Lâm cố ý bỏ ra bao nhiêu công sức dựng cho chị Quý và các cháu một khu nhà thật phong quang, với ý nghĩ riêng của mình: Cuộc đời tối tăm đã hết, mảnh đất dưới chân đã thuộc về mình. Trên mảnh đất thấm mồ hôi và nước mắt ấy, hãy làm nhà ở cho đẹp và trồng cây ăn quả lâu năm về sau cho con cháu hưởng.

Sau ngày Lân rời nhà ra đi bộ đội được vài hôm người ta lại thấy ông cụ khoác bên vai cái tay nải bằng vải nâu vào ở nhà chị Quý. Những người bà con xóm đồng muối hỏi: "Cụ lại bỏ chúng tôi để vào trong ấy ư?" Có người bảo: "Cụ vào trong ấy khó ở lắm đấy!". Ông cụ gật đầu và lại phơi hai hàng lợi ra cười. Bà con xóm đồng muối vốn rất quý mến ông cụ, họ lấy làm buồn vì chưa ai quên cái bận vừa qua, chưa lâu lắm, ông cụ cũng khoác cái tay nải đựng vài chiếc quần áo như thế, từ xóm trong đồng trở về nhà bác Thỉnh.

Từ hôm vào trong nhà chị Quý, ông cụ bắt đầu lại bận bịu, suốt ngày chăm nom một bầy cháu nhỏ, lại rào giậu vườn tược, trồng thêm cây, lấy bùn ấp gốc cây, chẳng để ngơi tay ngơi chân một lúc nào. Ông cụ vẫn rất vui vẻ và cởi mở, còn chị Quý dường như chưa dám nói một lời thật tự nhiên với người bố chồng. Chị đã hiểu ông cụ rất rộng lượng, và cũng thấy không có ông cụ thì không biết nhờ cậy ai trông nom lũ con nhỏ để đi làm. Tuy vậy sự có mặt của ông cụ trong nhà chẳng khác gì một điều trừng phạt đối với chị.

Ông cụ lúc nào cũng điềm tĩnh, sẵn sàng bảo ban chị mọi việc làm cho chị rất khó xử. Chẳng thà ông cụ chửi mắng, ghét bỏ chị, có lẽ như thế chị sẽ thấy đỡ day dứt, đỡ khổ tâm hơn.

***

Trời đã tối một lát. Mặt sông Kiều sáng lấp lánh, phản chiếu vài ánh lửa bên rừng sú. Cánh đồng như rộng thêm, vì những đám ruộng vừa gặt xong nằm phơi ra, kéo dài tới ngoài bờ sông. Từ phía ấy, từng đợt gió thổi vào, lan trên những đám ruộng lúa chưa gặt, những bông lúa nặng trĩu va nhau lào xào, một vài con chim ngói ẩn dưới gốc lúa bỗng chốc bay vụt lên kêu chiêm chiếp trong bóng tối.

Lâm để xe đạp ngoài xóm đồng muối và đi bộ vào xóm trong. Lâm bước trên bờ ruộng, mùi rơm rạ và hương lúa chín ngào ngạt, mùi đất mới cày xông lên, không khí hơi lạnh và khô ráo, tất cả gợi cho Lâm một cảm giác quen thuộc, lạc quan của vụ gặt tháng mười được mùa. Lâm dừng lại, cúi xuống ngắm một rẻo lúa chưa gặt, ngắt một bông đưa lên trời soi từng hạt. Lâm cầm bông lúa đi sang một rẻo khác và thầm ước lượng, so sánh kết quả vụ gặt ở làng mình với sản lượng lúa của những cánh đồng làng khác.

Xóm đồng muối nằm biệt lập phía biển đã chìm trong bóng tối và tiếng sóng. Trước mặt Lâm, các xóm đồng hiện ra bên những cánh ruộng, bóng những lũy tre, những hàng cau xum xuê, tiếng trẻ con khóc, tiếng néo đập lúa chan chát, tiếng chó sủa, tiếng gà lên chuồng cục tác. Tất cả tạo nên một không khí nhộn nhịp, ấm cúng.

Lâm về đến hàng giậu bắt vào một cái cổng có hai cây duối uốn khum thì trông thấy bóng một người đàn bà đang rê thóc. Lâm tưởng nhầm là chị Quý, lên tiếng hỏi:

- Tối thế này, nhà còn rê thóc ư?

Người đàn bà hàng xóm đang cúi lom khom, bưng một thúng thóc đứng trước ngõ nhà Lâm vội ngửng lên chào:

- Bác Lâm mới về đấy ư?- Người đàn bà liền báo tin -Thật là tiếc, bác lại về hụt rồi! Bác gái đã bế các cháu sang bên Hạc từ hôm kia!

- Đang giữa ngày mùa, nhà tôi sang bên ấy có việc gì? - Lâm hỏi.

- Bác ấy nghe tin thằng Lân còn đóng quanh quẩn ở vùng chợ Hạc, chưa đi đâu xa nên tìm đến thăm nó.

- Nó đi tận đâu đâu rồi! Nó vừa ra khỏi nhà đã đi thăm làm gì? - Lâm nói và bước vào nhà.

Khác với những lần Lâm về, nhà cửa vắng vẻ quá. Trên chiếc giường gỗ quang dầu đỏ chót, thằng con trai lên chín tuổi đang nằm ngủ, có lẽ thằng bé suốt ngày đi chơi nên mới lăn ra ngủ sớm thế. Ông cụ Lâm đứng quay lưng ra ngoài, đang thò tay lên đỉnh màn như tìm một vật gì. Ông cụ nghe tiếng chân bước ngoài sân liền quay ra. Lâm chào:

- Ông!

- Anh ở bên nhà Thỉnh sang đấy ư? - Ông cụ buông màn cho cháu xong, chỉ hỏi Lâm có một câu rồi chẳng hiểu sao, ông cụ lật đật bước thẳng ra sân, sang bên nhà hàng xóm.

Lâm rút trong chiếc cặp ra một chai rượu ngâm thuốc đặt lên bàn. Trên chiếc bàn mộc mới đóng, chưa kịp quang dầu chỉ có một ngọn đèn dầu vặn nhỏ, ánh sáng tỏa lù mù. Lâm nhìn ra khoảng sân tối: "Sao thấy mình về, ông cụ lại bỏ đi? Hay là ông cụ lại có thêm điều gì giận mình?". Lâm tự hỏi và thấy không được vui lắm. Từ lâu, có lẽ đã hơn mười năm qua, mối quan hệ giữa Lâm và ông bố thiếu một cái gì đó, có thể gọi là sự gần gụi tự nhiên của tình cha con. Ít ra cũng do chính Lâm tự thấy như vậy. Lâm còn nhớ ngày mới hòa bình, mình về thăm nhà. Nhà cửa sau những năm địch chiếm đóng xơ xác, bác Thỉnh vừa gầy vừa già, hai con mắt sâu hoắm. Trong chuyến về ấy, nhìn cảnh nhà Lâm càng hối hận. Nhưng điều sai lầm đã xảy ra rồi! Lâm hết lời xin lỗi gia đình và nói thực mình đã trót lấy vợ hai, đã có với nhau một đứa con. Bác Thỉnh ngồi nghe, hồi lâu mới đưa tay lên quệt nước mắt và bảo: "Sự tình đã như vậy thì ông hãy cứ đưa chị ta và con về đây ở với tôi". Riêng ông cụ nghe Lâm nói liền nổi giận đùng đùng và bỏ đi uống rượu. Ông cụ vốn trọng sự ân nghĩa, lại rất quý bác Thỉnh. Ông cụ hết sức nghiêm khắc, cho Lâm là một người đã giác ngộ mà còn phụ vợ con ở nhà. Xưa nay, Lâm vẫn hết sức kính trọng bố. Lâm biết bố nói có lý. Từ ngày đó, trong mối quan hệ với bố, Lâm có cái gì gần như dè dặt, mặc dầu Lâm đã là một cán bộ lãnh đạo có uy tín và tiếng nói với tất cả mọi người trong huyện.

Sau nhiều năm, Lâm tưởng những chuyện cũ trong gia đình mình đã ổn thỏa, không ngờ lại xảy tiếp đến chuyện chị Quý gây xích mích và đuổi ông cụ. Chuyện ấy càng làm cho Lâm đau như xé ruột. Lâm tin chắc cho đến già, ông cụ không bao giờ quên và tha thứ cho chị Quý những việc làm ấy.

Lâm vặn to ngọn đèn cho sáng hơn và ngồi đợi bố. Ông cụ ở bên nhà hàng xóm về, một tay xách chiếc phích vỏ tre đựng nước nóng, tay cầm lọ chè. Lâm lấy làm lạ nhận thấy ông cụ hình như có điều gì thích thú.

Ông cụ đưa lọ chè cho Lâm, rót nước rửa bộ ấm chén đầy cáu bẩn và kể:

- Nhà Quý đã đưa mấy cháu nhỏ về bên Hạc rồi. Từ hôm thằng Lân đi, nó nhớ đến ngơ ngẩn! Thế đấy, có ở trong hoàn cảnh kháng chiến thì mới hiểu hết... Anh pha lấy mà uống, tôi đoán thế nào tối nay anh cũng tạt về nhà nên đã kiếm sẵn một ít trà cho anh...

Lâm rót rượu mời bố. Lâm biết tính ông cụ thích uống rượu nên mỗi lần về lại mang theo một chai rượu trắng ngâm thuốc bắc. Ngày còn thằng địch tạm chiếm, ông cụ hễ có chén rượu là nói năng lung tung, từ thằng Tây đến thằng hương vệ, tổng dũng đều lôi ra chửi tuốt, chẳng thèm giữ mồm miệng! Từ ngày được giải phóng, ông cụ uống nhưng vẫn tỉnh táo. Ông cụ thích thú nhấp một ngụm rượu sánh đỏ như nước cao, lấy tay quệt ngang miệng rồi tựa lưng vào cái thành tràng kỷ bằng tre, các đốt rất nhẵn và bóng lộn.

Lâm liếc nhìn bố, dò xét "Chẳng biết tối nay, ông cụ có điều gì mà tỏ ra phấn khởi thế?". Ông cụ giục Lâm uống nước và bắt đầu khởi mào:

- Đêm hôm kia, tôi có đi nghe anh nói chuyện ngoài trụ sở...

- Vâng.

- Anh nói, tôi nghe kỹ hết... Tôi nhớ hết, về nhà nghĩ càng thấy anh nói đúng.

- Ông cụ hào hứng hẳn lên, bắt đầu nhắc lại một lượt bằng lối nói của mình, tất cả những điều Lâm đã nói với bà con trong làng đêm hôm trước:

- Ngày xưa, thằng Mỹ còn núp sau lưng cái thằng Việt gian tay sai, tức là nó muốn thu "nhân tâm". Bây giờ, cái thằng Việt gian sắp đổ, nó mới phải nhảy ra, tức là nó đã mất "nhân tâm". Nhưng tôi hỏi anh điều này: Như thế tức là cũng còn có người chưa thấy hết tội ác của thằng Mỹ, chưa nhìn rõ mặt nó là thằng giặc cướp nước mình ư?

- Ban đầu cũng có - Lâm giải thích cho bố - Nhưng hiện nay thì ai ai cũng thấy thằng Mỹ là thằng đi ăn cướp nước. Nó đã phải đưa quân về làng đi càn quét như thằng Tây ngày xưa rồi! Tội ác của thằng Mỹ đã chất cao bằng núi rồi. Đến vợ con, cha mẹ bọn ngụy binh cũng phải chết vì bom đạn Mỹ. Đồng bào công giáo miền Bắc di cư vào, khi nghe tin máy bay Mỹ ném bom miền Bắc cũng rủa thằng Mỹ!

- Chẳng có cái nhục nào bằng nhục mất đất, mất nước! Anh nói đúng! Phải, lòng người dân Việt Nam ta mạnh lắm. Anh nói điều này thì tôi càng hiểu lắm, sắp đến ngày thắng lợi thì lại càng phải dấn lên, phải cố sức mà dấn lên để đánh nó ngã quỵ hẳn mới thôi!

Ông cụ lại đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi và thắc mắc bắt Lâm giải đáp. Lâm bị cuốn theo tinh thần sôi nổi của bố, cũng hỏi lại:

- Ông thấy kinh nghiệm "vừa chiến đấu vừa sản xuất" của tỉnh Quảng Bình thế nào? Liệu vùng ta khi chúng bắn phá mạnh, có làm được như thế không?

Ông cụ nhổm người lên, đáp:

- Họ làm giỏi đấy! Rồi chúng tôi phải học kinh nghiệm của họ. Nhưng các anh cần nói thêm với bà con điều này: Hồi kháng chiến, thằng ngụy binh nấp sau cái lô cốt, suốt ngày đêm chĩa khẩu súng ra ngoài cánh đồng. Hễ trông thấy bóng người là nó nổ "đòm" một phát. Thế đấy! Thế mà mình vẫn cấy được tới sát chân lô cốt. Đấy chẳng là vừa chiến đấu vừa sản xuất đó ư?

Hai bố con ngồi với nhau đến quá nửa đêm. Lâm ngạc nhiên thấy ông cụ chỉ ở làng, tin tức nghe lõm bõm nhưng hiểu biết tình hình quá nhiều. Lúc bước chân về nhà, Lâm đã có ý định tìm hiểu thái độ của bố đối với mình như thế nào vì Lâm tự nghĩ: Ông cụ vào ở trong này là vì thương cháu, muốn cháu yên tâm ra đi bộ đội, nhưng nhất định về phần mình sẽ có điều mắc mớ, thiếu sảng khoái. Nhưng Lâm thấy ngược lại, ông cụ tỏ ra hết sức vui vẻ, lại có phần hồ hởi đối với mình hơn trước. Những điều ông cụ quan tâm đến đều là những vấn đề to lớn và quan trọng hơn việc trong nhà rất nhiều. Lâm chợt nhớ trong cuộc họp huyện ủy mở rộng vừa qua, Lâm đã nói với các cán bộ xã: "Nhân dân ta có lòng yêu nước vô hạn, chẳng có việc gì mà khả năng nhân dân không làm được!". Bây giờ, hình như Lâm mới hiểu thấu hết lời nói của mình, và thấu hiểu được thêm trên nhiều mặt sâu xa, tấm lòng của nhân dân đối với công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại. Qua một đêm trò chuyện với bố và chuyến về nhà, cũng như mỗi lúc đi xuống cơ sở, Lâm như được bồi đắp thêm lòng tin và quyết tâm đối với công tác, như có hàng triệu giọt máu hồng từ rất nhiều vi ti huyết quản đến tiếp thêm cho cơ thể của mình.

Ngày hôm sau, Lâm trở về huyện rất sớm.