Chương 11
Dạo này máy bay địch thường xuất hiện. Chúng bay từ ngoài biển vào, cao bảy tám cây số, chỉ nghe tiếng máy rần rần tận mây xanh. Vừa kịp ngước mắt trông lên, tiếng động cơ phản lực đã vút qua đầu. Thỉnh thoảng, đang nửa đêm bỗng thấy có ánh sáng nhấp nháy ngoài biển, rất xa.
Bên công trường "Bãi sú", dân công đang làm rất gấp. Mỗi ngày, hơn một ngàn người làm. Dải rừng sú, trông từ trên chiều cao bảy tám ngàn thước, vẫn là một dải màu xanh im lìm, chỉ hơi sáng lên một chút lúc có ánh mặt trời và trở màu đem sậm khi mặt trời vừa tắt. Khó mà hình dung được bên dưới đó, dưới những cành sú dày đặc như một chiếc mái nhà khổng lồ, hàng ngàn con người, chỉ bằng đôi bàn tay đang rạch một khúc sông lớn. Từ lúc đặt lưỡi mai xén nhát đất đầu tiên, người ta không thể nào tưởng tượng được chỉ sau một thời gian ngắn, dọc dải đất mới phát cây cối, cái lòng sông đã hiện ra giữa hai bờ đất cao ngất.
Trên những cánh đồng các xã, lúa chín rũ. Trong các trụ sở hợp tác xã, trong từng nhà, người ta đang tính toán, phân công nhau ai ở nhà tiếp tục gặt, ai đi lên công trường để thay phiên cho những người đi lớp trước. Áo tơi lá, đồ đạc, xanh nồi, những con lợn vừa giết xong đem ướp muối, tất cả đồ đạc lủng củng của đoàn dân công xếp ngổn ngang bên gốc đa, trong sân phơi, ngay đầu bờ ruộng. Ngay đầu bờ ruộng đang gặt, các chủ tịch xã, các chủ nhiệm hợp tác xã đang tập họp anh chị em dân công để đả thông nhiệm vụ. Họ chỉ nói vắn tắt, nói với nhau làm gì cho dài? Khắp cả nước đang đổ máu giết giặc, con em họ đang ở ngoài mặt trận, mỗi người đang tự động viên lấy mình, mỗi người đang tự tìm lấy một cách suy nghĩ và cách làm việc mới.
Từ ngày mở công trường "Bãi sú", ông cụ Lâm hay vắng nhà. Chiều nào cũng vậy, ông cụ khoác chiếc áo dạ xám cũ của lính Tây trên vai, nói với chị Quý: "Tao ra ngoài này một tí". Chị Quý biết thế nào ông cụ cũng đi đến tận khuya mới về.
Ông cụ bước xăm xăm ra ngoài trường học. Bên cạnh buồng của Thùy là căn phòng chứa học cụ. Thùy đã dọn cái phòng ấy cho đồng chí An, đại úy công binh hải quân phụ trách công trường đến ở. Ông cụ ghé vào uống chén nước bên nhà Thùy, hỏi han vài câu rồi trong chốc lát đã nghe tiếng ông cụ nói oang oang bên phòng người cán bộ quân sự:
- Anh An! Trong miền Nam quân ta vừa đánh một trận thắng to quá nhỉ? - Ông cụ ngồi xuống chiếc ghế, vừa hỏi vừa đưa mắt ngắm nghía cái đài chạy pin đặt trên bàn.
An đã thuộc tính ông cụ Lâm. Anh mở đài, xách chiếc điếu cày và sáp thuốc đặt bên cạnh. Thế là mặc An làm việc, ông cụ cứ ngồi đấy, hút thuốc lào luôn miệng, đắm mình trong khói thuốc và những bản tin tức chiến sự, chăm chú theo dõi từng chiếc máy bay rơi, từng trận chiến thắng lớn nhỏ. Một lần, nghe nói ở một tỉnh miền Đông Nam Bộ, trong một đêm nhân dân nổi lên phá hàng chục ấp chiến lược, ông cụ mừng lắm, liền lôi An đến bên cái đài, và bắt An vặn to lên nữa để nghe cho thật rõ. Mặc dầu chưa biết "mặt mũi" cái tỉnh miền Đông Nam Bộ của dải đất tận cùng miền Nam ấy ra làm sao, nhưng ông cứ hình dung ra quang cảnh tấp nập và vui vẻ của làng Kiều những ngày mới giải phóng, và một lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới trên nóc lô cốt, chỗ ông đang ngồi đây. Ông nghĩ: Đồng bào mình ở cái tỉnh miền Nam ấy ắt cũng vui vẻ, hồ hởi như thế. Ở đâu cũng giang sơn mình, cũng là người nước Việt Nam mình, cũng một nỗi khổ và niềm vui như thế cả.
Một buổi chiều, bác Thỉnh sai cái Lý mang một gói thuốc lào sang biếu ông cụ. Vào nhà chị Quý không thấy ông, cái Lý chạy ra trường học, An liền chỉ sang bên kia sông:
- Ông cháu còn ở bên công trường, còn bận. Cháu cứ ngồi đây rồi chốc nữa ông cháu sẽ về.
Dạo này, ông cụ Lâm quên cả thú nghe đài, cứ ở miết bên rừng. Mãi gần chập tối, những chiếc đò chở anh chị em dân công làm đêm đã sang chuyến cuối cùng, ngoài bến tiếng ồn ào đã vợi đi, lúc bấy giờ ông cụ mới lò mò về. Ông đi từ mé bờ sông lên, những vết bùn khô nẻ bám trên chiếc áo khoác bằng dạ đã rách lòi cả khuỷu tay. Mặt cũng dính bùn. Lúc cười, vài hạt bùn khô trắng từ những nếp răn ở hai bên má rơi xuống vai áo.
Vừa bước lên thềm, ông cụ đã hỏi An:
- Ngày hôm qua, ta bắn rụng được cả thảy mấy chiếc, hả đồng chí An?
An đưa gói thuốc lào gói kỹ trong một mảnh lá chuối khô cho ông cụ:
- Thuốc cháu nó mang ra đấy. Nó ngồi đợi cụ mãi. Hôm qua, Thanh Hóa và Quảng Bình bắn rơi năm chiếc!
- Chào, ta bắt gọn hết phi công chứ?
- Chỉ nghe đài báo là có bắt được, không biết con số cụ thể.
- Như thế là bắt được hết! Như thế là tóm được hết! Mấy đứa giết người ấy, cứ đem cho nhân dân phanh thây ra cũng chưa hết tội.
An hỏi ông cụ về công việc bên kia sông:
- Cái dãy tường phía trước vài hôm nữa đã kín chưa hả cụ?
Ông cụ vê một điếu thuốc lào, châm lửa vào que đóm rồi lại dụi tắt:
- Tôi nghe anh em bên công trường nói thằng tướng Mỹ đem vàng ra dụ ta phải không? - Ông cụ cười gằn - Cái thằng Mỹ đến lạ! Vác dao đến nhà người ta, giết vợ con người ta, đốt nhà người ta rồi bảo: Mày cúi đầu xuống hàng đi tao cho tiền: Nó nói đến lạ tai! Hừ...
Ông cụ hút điếu thuốc xong rồi ngước lên hỏi An:
- Ban nãy anh hỏi tôi việc gì nhỉ?
- Tôi hỏi cụ bức tường mặt trước, chừng bao giờ cụ đắp xong ạ!
- Xong rồi!
An là một cán bộ "công trình", anh hết sức ngạc nhiên:
- Mới hai ngày, cụ đắp xong cả năm khung nhà mặt trước ư?
- Xong rồi!
Ông cụ quệt ngọn lửa qua lại trên nõ điếu, rít thêm mồi thuốc rất khoan khoái để thưởng thức cái công trình tuyệt mỹ của mình vừa hoàn thành. Sau hôm chuyển máy sang rừng, ông cụ nghe An và ông Vàng, hai người trong ban chỉ huy công trường bàn với nhau cử người đi mua nứa đan phên che lán đặt máy, liền khuyên: "Chẳng việc gì phải đan phên, vừa tốn tiền vừa chóng nát!". Ông bàn nên đắp tường đất. Thế là bắt tay vào làm. Tất cả dụng cụ của một người xây tường bằng đất chỉ có hai bàn tay khéo léo, còn đất thì ở đâu chẳng có?. Ông cụ ở luôn bên rừng, đắp kín khung nhà này lại đắp đến khung khác.
Thấy An khen mình làm nhanh, ông cụ cũng thích vì được một anh bộ đội khá am tường công việc "thổ mộc" khen ngợi.
Ông cụ nói càng hào hứng:
- Ngày mai, anh sang mà xem tôi đặt hòn đất như thế nào. Trong làng này từ nhà ở, nhà bếp, chuồng lợn, bờ tường, cái nào cũng chắc chắn. Một bàn tay tôi cứ vầy hòn đất mà nên cả! Đấy là chưa nói đến chuyện ngày xưa tôi làm hàng trăm cái hầm bí mật. Tôi đã làm cái hầm thì tôi cứ chỉ đúng chỗ, đố anh em du kích tìm ra được chứ đừng nói thằng Tây. Chẳng tin, anh cứ hỏi ông Vàng là người đã từng ngồi suốt tháng dưới mấy cái hầm tôi đào...
- Cụ có hay đi làm xa không? - An hỏi.
Ông cụ kể năm ngoái, bên công trường muối dựng nhà kho để dụng cụ, ban chỉ huy công trường đặt giá khoán một bức tường mười hai khung giá sáu chục đồng. Những thợ xã khác chê đặt giá rẻ không nhận. Ông cụ liền đứng ra nhận làm chỉ có bảy ngày rưỡi là xong, lấy về nhà một lúc sáu chục đồng!
Lần này ông cụ làm cho anh em bộ đội gần một tháng nhưng vẫn bảo chị Quý vắt cơm cho mình mang đi ăn.
Ngày hôm sau, An sang bên rừng thấy các bức tường ở các dãy nhà đầu tiên đã kín, có bức đã khô. Ông cụ đang lúi húi nhào đất chuẩn bị đắp sang khung nhà khác. Trông thấy đôi bàn tay ông cụ trắng nhợt vì nước ăn, An khẩn khoản đề nghị ông cụ nghỉ. Ông cụ liền từ chối:
- Công việc quân sự phải làm gấp, nghỉ sao được? Tôi không cầm được khẩu súng như hai thằng cháu tôi thì tôi cũng góp sức đánh Mỹ bằng cái nghề của mình chứ!
Ông lão trả lời rồi dẫn An đi xem từng dãy tường rất dày và chắc chắn, quả là tốt hơn dựng phên nứa và tiết kiệm được nhiều. Lần này, An lại phải ngồi suốt buổi nghe ông cụ giảng giải về cái nghề của mình một lần nữa.
Tính ông cụ Lâm như thế! Phàm gặp bất cứ người nào, ông cũng đem khoe cái nghệ thuật đắp tường. Ông có con làm bí thư huyện nên mọi người đều kính nể, nhưng ông cụ không khoe con bao giờ, và chỉ muốn người ta trọng mình ở hai bàn tay lấm đất.
***
Mùa gặt đã gần xong.
Đến giữa tháng mười một thì công trường cũng sắp hoàn thành và đang bước vào một đợt lao động quyết liệt nhất. Suốt ngày đêm, dù ở xa từ bên cánh đồng làng Kiều, cũng nghe tiếng ồn ào bên sông vọng sang.
Bây giờ đứng trên bờ nhìn xuống lòng sông Đào thấy hun hút như trông xuống đáy vực. Hai bờ đất cứ mở ra, ngày một cao ngất. Những đoàn người đứng xếp hàng một, cách nhau vài chục bước chân, rải từ dưới đáy sông lên hai bên bờ. Hòn đất đưa từ dưới lên ngày một xa.
Khu vực công trường ở ngoài cùng, giáp sông, là phần đất của làng Kiều. Đấy là cửa sông Đào. Cửa "sông Đào" chưa mở. Một vỉa đất dày gần mười thước, được đắp cao thêm để ngăn nước bên ngoài không cho chảy vào con sông đang đào. Phía ngoài, sông Kiều cứ chảy xiết. Những chiều thủy triều lên, mặt nước dâng cao và rộng như mặt biển, sóng vỗ xói vào bờ, y như tuồng con sông Kiều đã đánh hơi thấy một nhánh sông mới, cứ dồn nước đến xung quanh cái bờ đất ngăn, chực tràn vào.
Phía trong cửa sông Đào, hàng trăm dân công làng Kiều đang hối hả làm việc, đứng trên bờ trông xuống chẳng khác gì một đàn kiến lớn, mình đen trũi đang chậm rãi, kiên nhẫn tha từng viên đất lên, rồi lại chậm rãi, kiên nhẫn quay xuống tha viên khác. Trên quãng này, hai bờ cách xa nhau, lòng sông cũng sâu hơn. Tháng trước, theo sáng kiến của Thùy và các giáo viên trong làng, ông Vàng cho dựng những cái giá xúc bùn bằng tre hoặc bương như kiểu cần trục. Nhưng đến nay, những cái giá xúc đã phải xếp lại, mà hoàn toàn chỉ có thể trông vào sức người và lòng kiên nhẫn không mệt mỏi. Mỗi giọt bùn, mỗi hòn đất mang lên tới nơi là một giọt mồ hôi của nhân dân góp vào cùng bộ đội đánh giặc.
Bây giờ tất cả sự chú ý của hàng ngàn con người trên công trường đều tập trung vào khúc sông ngoài cùng và câu hỏi: Bao giờ thì xong? Bao giờ thì mở cửa sông Đào? Bao giờ sẽ được chứng kiến cái kết quả công việc làm của mình?
Nghĩ đến cái ngày ấy, ai cũng phấn khởi và càng làm khỏe hơn.
Từ khi việc gặt hái bên đồng đã hơi vãn, ông Vàng chỉ để lại cho mỗi đội sản xuất một số người ở nhà đập lúa và phơi phóng, các xã viên đều tập trung sang công trường làm đợt nước rút. Chị Quý ở trong số người mới sang. Trông chị hồi này hơi già đi, hai gò má sạm vì cháy nắng, đôi mắt một mí không còn cái nhìn sắc sảo như trước, nhưng đầm ấm hơn và hay dừng lại ở một chỗ trong khoảng không. Lâu nay, chị Quý chẳng khác gì một đứa trẻ, đôi mắt bắt đầu biết phân biệt màu sắc, ánh sáng...
Buổi sáng, bến đò trước cửa trường học chật những người. Mất trật tự và bạo miệng nhất vẫn là các bà nạ dòng. Người ta nói chuyện gặt hái, nhắc đến con cái rồi ùa xuống bến tranh nhau sang đò. Chị Quý xuống bến, đứng đợi một lát rồi đò mới sang. Một bà leo lên đò sau cùng, hai chân buông thõng ra ngoài, cười ngặt nghẽo và nói vọng về phía mũi:
- Thím Quý ạ, thím phải cám ơn anh em bộ đội mới phải!
Chị Quý đang mải nói chuyện với một chị đứng bên cạnh, bỗng quay lại hỏi:
- Cám ơn thế nào ạ?
- Nhờ có các anh ấy mở cái công trường cho nên ông Lâm mới về luôn. Chẳng là tuần nào tôi cũng thấy ông ấy về đấy ư?
Chị Quý cười ngượng nghịu định nói gì lại thôi.
Một bà khác chêm vào:
- Tôi trông nước da thím hồi này hơi xanh, khéo lại có nghén?
Chị Quý mạnh bạo đáp:
- Ông Lâm về làm việc bên công trường chứ có về nhà đâu ạ. Cháu đẻ nữa thì nuôi làm sao cho xuể, phải không bà?
Cái bà ngồi thõng chân ở đằng lái liền tuyên bố phản đối:
- Đã làm đàn bà sao lại sợ không nuôi con xuể? Cánh đàn bà chúng mình phải đẻ thật nhiều nữa để lấy người mà đánh giặc chứ!
Cả thuyền đò ầm ĩ tiếng cười.
Chị Quý cũng vui lây, cũng cười thật giòn giã. Chị nhìn khắp lượt, bỗng nhận thấy một điều: phần lớn các bà cùng sang một chuyến đò, cả người đàn bà vui tính, đều có con ra bộ đội cùng một lớp với con mình. Có mấy người, con lớn con bé đều ở bộ đội tất cả. Chị thấy mến họ, mến cái không khí vui vẻ, ấm áp giữa những người mẹ chiến sĩ trong đó có phần chị. Chị nhìn những người đàn bà trong làng bằng con mắt gần gũi và thân thiết hơn.
Chị chợt nhớ hồi Lân mới ra đi được vài hôm, chị ở nhà và lúc ấy mới biết mình yếu đuối hơn những bà mẹ trong làng rất nhiều. Hình như các bà, các chị khác, người ta không biết buồn biết nhớ là gì cả. Chồng hoặc con xách khăn gói ra khỏi nhà thì họ cũng xách hái ra đồng. Họ biết giấu tình cảm riêng vào trong lòng. Họ vẫn chòng ghẹo nhau, vẫn nô đùa và làm không bao giờ để bàn tay rỗi. Hình như họ đã quên những người thân yêu nhất vừa ra đi. Riêng có chị, chị nhớ con không đứng đâu cho yên, không ngồi đâu cho yên, như thể có vật gì bỗng chốc rơi tuột khỏi bàn tay. Hồi ấy chị sang bên Hạc, tìm không thấy Lân, chị ở lại bên nhà bố mẹ vài hôm rồi bồng bế con về làng Kiều. Ở làng đã khởi công làm công trường, ngoài đồng đang gặt và tranh thủ cày vỡ, công việc thật là nhiều. Đủ các thứ công việc chồng chất chẳng khác nào những cánh tay chìa ra, kéo tất cả mọi người vào cái guồng máy lớn đang hoạt động, không để cho một ai có thể đứng ngoài. Chị Quý đi gặt một dạo, sang công trường một dạo, tối về lại đi đập lúa đến tận khuya. Nắng hanh tháng mười ngoài đồng và bùn lầy bên rừng sú đã lấy đi của chị một phần lớp da trắng trẻo. Chị cũng chẳng có thì giờ mà ngồi nhớ con nữa. Đêm đêm, tiếng đập lúa cứ chan chát ngoài sân kho. Đập lúa đêm mà không chuyện trò, không có mấy bà hay pha trò thì hai cánh tay cứ rã ra, và con mắt ríu lại. Chị Quý đã quen với cảnh những đêm đập lúa vất vả, chị không còn được nhàn nhã như trước, nỗi nhớ con trong lòng chị tự nhiên vợi dần đi.
Hôm đầu tiên đặt chân sang công trường, chị giật mình tưởng nằm mơ. Cả khu rừng đảo lộn lên tất cả! Đầu óc chị cũng đảo lộn lên: "Sức đông người có thể làm được thế này ư?". Lâu nay, chị làm việc gì cũng khỏe, rất dai sức. Hôm ấy, chị đội sọt bùn trên đầu cứ đi băng băng trên những đoạn dốc rất trơn, hết chuyến này đến chuyến khác. Nhưng sang ngày thứ hai, thứ ba thì chị đã mệt, nhắc sọt bùn lên vai tưởng không bước đi được. Nhưng chị vẫn cố, cuối cùng đã làm ngang mức hôm đầu. Chị đã nghiệm thấy rằng phàm lúc khó khăn, mình gắng lên được một bước là bước tiếp lên được mãi...
***
Chuyến đò ồn ào và đông nhất, chở những người đàn bà làng Kiều sang công trường cập bến ngay dưới chân vỉa đất ngăn con sông Đào. Mọi người tản vào các khu rừng. Trời sáng một lát lâu mà trong rừng còn tối. Qua một đêm, lớp bùn đen dưới đáy sông lắng xuống, nước mạch dâng lên đến bắp chân, chảy róc rách vào các ngách trũng. Một lớp váng như váng dầu với những chiếc lá sú đã ải nổi lềnh bềnh trên mặt nước trong vắt. Cách đây mấy hôm, cái đập ngăn nước bị vỡ một mảng lớn, nước ngoài sông Kiều chảy tràn vào. Dân công làng Kiều phải ra sức bịt lại, và đóng thêm một hàng cọc gỗ ở phía ngoài.
Sang tới nơi, nhóm đàn ông còn quây quần quanh chiếc điếu, hoặc đi xem lại chỗ vỉa đất xem có thẩm lậu quãng nào không. Những người đàn bà liền bắt tay vào việc. Chị Quý từ bờ sông đi lên đến bìa rừng thì gặp Tốt. Tốt quẩy một gánh hàng cũng vừa ở dưới đò lên. Tốt chào rất lễ phép: "Thím lên trước đi nhé!" rồi quẩy gánh hàng lên đứng giữa khoảnh đất cao nhất. Một đám đông dân công, bộ đội lập tức vây lấy cô.
Tốt cười nói vui vẻ, vừa trao hàng, vừa thu tiền, hai bàn tay thoăn thoắt trên đôi quang chất đầy diêm, thuốc lào, thuốc lá, xà phòng. Ai đến mua cũng hỏi thăm: "Cô đã khỏe rồi đấy ư?" Vừa qua, chỉ có mấy hôm, công trường vắng Tốt thế mà hình như cũng kém vui. Hôm đập nước bị vỡ, Tốt và mấy cô gái khác theo cánh đàn ông lăn xả vào, lấy thân mình tạm thời bịt lấy dòng nước. Tốt đứng chỗ nước xoáy nhất. Khi mọi người rút ra, trong đám đông có gần một chục người phải dìu mới đi được, còn Tốt thì gần như bị ngất, phải đưa cáng tre chuyển đất cáng về bên làng.
Tốt bán hàng rất nhanh, rồi dọn quang gánh, đến chuyền đất với chị Quý. Chị Quý đỡ lấy sọt đất trên tay Tốt, hỏi bằng giọng âu yếm:
- Tôi tưởng cô còn nằm bên bệnh xá vài hôm nữa?...
- Cháu cũng định thế, nhưng sao nó sốt ruột không chịu được, ra ngoài này đi làm cháu lại thấy khỏe hơn, thím ạ!
Trước đây, thỉnh thoảng chị Quý có ra cửa hàng ngoài gốc đa mua mắm muối, diêm thuốc, thỉnh thoảng có nói chuyện với Tốt, nhưng chị không chú ý đến Tốt nhiều lắm. Tính chị xưa nay ít chú ý đến những người trong làng, cũng không quen thân với ai trong làng. Lâu nay, chị bắt đầu để ý và đã có cảm tình với Tốt. Hai người thường đứng cùng một dây chuyền đất. Với mọi người, bao giờ Tốt cũng bạo dạn và tinh nghịch, nhưng chị Quý để ý thấy Tốt đối xử với mình khác hẳn. Hôm nào cũng thế, chị Quý ra đến bờ sông cũng thấy Tốt đang đứng đợi mình để cùng sang một chuyến đò. Hôm nào chị sang trước, giữa đám đông người vừa ở đò lên, chị nghe một tiếng cười rất trong. Khi quay lại, chị trông thấy khuôn mặt tươi trẻ, hàm răng rất trắng của Tốt và một gánh hàng đu đưa trên vai cô. Chị chưa kịp hỏi đã nghe Tốt niềm nở chào trước, như trách: "Hôm nay, thím sang sớm thế?".
Dần dà càng ngày chị Quý càng thấy Tốt đẹp và chăm chỉ, ngoan ngoãn.
Trong làng Kiều, lớp con gái mười chín, đôi mươi mới lớn lên có khá nhiều cô đẹp. Nhưng giữa các buổi họp, hay giữa những buổi cấy, gặt, tát nước ngoài đồng, đứng bất cứ ở đâu, Tốt vẫn cứ nổi bật lên trong đám con gái. Tốt đẹp, lại ăn nói táo bạo. Như một cành hoa hồng đang độ nở, đẹp rực rỡ nhưng lắm gai, Tốt đã làm cho nhiều anh con trai vừa mơ ước muốn đến gần lại vừa e sợ. Cái cửa hàng mua bán bên gốc đa, cánh cửa khép, cánh cửa mở từ lâu đã khiến cho nhiều anh thanh niên quanh vùng đi qua phải chú ý liếc mắt nhìn vào. Đã có biết bao nhiêu đám hỏi Tốt, người nhờ mối manh, người viết trao tay nhưng Tốt chưa nhận lời một người nào cả. Tình yêu cũng kỳ lạ! Mặc cho bao nhiêu kẻ săn đón, van vỉ, Tốt đều từ chối, và cô lại thầm có cảm tình với Lân. Cho đến ngày ra đi, chính Lân cũng không biết chuyện ấy. Suốt thời gian còn ở làng, có bao giờ anh học sinh mới lớn lên ấy thèm để mắt nhìn vào cánh cửa hàng mua bán hoặc trả lời với Tốt một câu cho ra vẻ lịch sự, dịu dàng đâu!
Chiều hôm ấy, Lân đã đi tập trung ở huyện, Tốt cũng về huyện cất hàng. Cô gánh gánh hàng về đến ngã ba đầu phố thì gặp Lân. Cô vội đặt gánh xuống. Hai người đứng nói chuyện với nhau được một lát. Lân có vẻ vội. Tốt chỉ kịp giúi vào tay anh một chiếc khăn thêu hoa và lại quẩy gánh hàng về làng. Hình ảnh cuối cùng của Lân mà Tốt còn giữ mãi là một người chiến sĩ đứng trước mắt mình, đẹp như một bức tranh vẽ, cùng cái không khí quyến luyến tiễn người ra trận chỉ có cô mới cảm thấy hết mà thôi. Không ngờ lâu dần, khi Lân đã đi thật xa thì hình ảnh Lân, người chiến sĩ vừa quen thuộc vừa xa lạ ấy càng in thành nét đậm trong trí Tốt, khắc vào tim Tốt, nhen lên trong lòng cô một ngọn lửa tình yêu tuy chưa phát ánh sáng ra ngoài, nhưng cứ cháy âm ỉ...
Tốt và chị Quý vẫn thường đứng cùng một dây chuyền đất. Một hôm, giữa buổi tối, Tốt vào nhà chị Quý chơi. Ngoài sân, xếp một đống lúa chưa kịp đập. Tốt sai thằng bé em Lân lấy néo. Cô đập gần hết đống lúa rồi mới thấy chị Quý gánh một gánh rơm ở ngoài sân kho về. Chị Quý vồn vã bảo:
- Cô vào trong nhà chơi!...
Tốt ôm mấy đứa bé trong lòng, ngồi chơi rất lâu. Trước lúc xin cáo từ ra về, cô ấp úng hỏi:
- Hôm qua, cháu nghe nói Lân vừa gửi thư về phải không thím?
"Phải rồi, cô ta yêu thằng Lân rồi!" - Chị Quý vụt nghĩ ra. Chị nhìn Tốt bằng đôi mắt của một người mẹ, xiết bao âu yếm:
- Phải đấy, cô ạ!
- Cậu ấy có hỏi thăm cháu không?
Thư của Lân gửi về, chị Quý đọc lấy làm bực mình vì chẳng hề hỏi thăm một ai cả. Tuy vậy, chị cũng nói:
- Có, nó có gửi lời hỏi thăm cô...
Tuy hai người đang ngồi bên ngọn đèn dầu, chị Quý cũng nhận thấy đôi vành tai nhỏ và trắng như ngó sen của Tốt cứ ửng đỏ dần như một cái vỏ lựu. Ôi, chị Quý yêu Tốt biết chừng nào! Làm sao chị không yêu được, khi người con gái đẹp và tốt bụng ấy đang lặng lẽ chia sẻ cùng chị niềm yêu thương đối với đứa con trai của chị đã đi xa.