Chương 12
Suốt quãng thời gian nhà trường nghỉ gặt, Thùy vào xóm đi gặt một buổi, một buổi cô sang bên công trường. Các anh chị em giáo viên đều tham gia lao động cùng các xã viên ở làng.
Hôm đập nước vỡ, Thùy cũng làm ở gần, cùng Tốt nhảy vào chỗ nước xoáy, Thùy yếu hơn Tốt nên cô về nhà bị mệt phải nằm bệnh xá trên xã mất hai hôm. Hôm nay cô đã có thể trở lại lớp học của mình.
Sau những ngày nghỉ, các em đều đen cháy và lại trở lại lớp đông đủ.
Vẫn những chiếc đèn chai xách tay đặt trên các dãy bàn. Thùy đứng trong lớp học, vẫn nghe tiếng gồi lúa nện thình thịch xuống mặt cối đá, tiếng trục đá lăn ken két trong xóm. Bên kia, cách mặt sông tối đen và lặng như tờ, quang cảnh công trường đang bước vào ban đêm: Những chùm đèn điện sáng; hàng ngàn tiếng kêu lao xao không phân biệt rõ hòa lẫn vào nhau rồi lại tách ra - thứ tiếng động của hàng ngàn con người đang làm việc hối hả như một cái tổ ong khổng lồ không bao giờ ngớt tiếng kêu vù vù.
Cuộc sống của làng Kiều vẫn yên ổn, địch chưa bắn phá nhiều, nhưng trông bề ngoài, cũng không còn yên tĩnh và lặng lẽ như hồi Thùy mới về dạy học nữa.
Trong làng Kiều, mấy năm hòa bình vừa qua, Thùy chỉ thấy người ta xây dựng nhà cửa và làng xóm, hội họp, thanh niên đi bộ đội rồi lại trở về. Có khi người ta rất xúc động và tự hào nhớ lại những năm vật lộn với địch, nhớ bao nhiêu người ngã xuống. Nhưng đấy là những kỷ niệm, những thử thách đã qua.
Bây giờ, những người dân hậu phương ở đây, cũng như các chiến sĩ ở ngoài tiền tuyến đang đứng trước những thử thách mới, mỗi người đang tự tìm lấy chỗ đứng của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong đó có cả cô - một cô giáo!
Thùy giở một trang sách in và ghé vào bên ngọn đèn treo trước bảng. Ngọn lửa cháy trên đầu cái tim bấc lọc qua lần mặt kính đầy muội đèn chiếu lên trang sách những tia sáng vàng khè. Dưới các dãy bàn bắt đầu nổi lên tiếng giở sách loạt soạt. Tuy đang bận chăm chú giở trang sách để tìm bài học nhưng Thùy cũng biết các em đang nhìn mình, những cặp mắt trong trẻo đang ngước lên như muốn hỏi: "Cô sắp nói với chúng em điều gì đây?".
Thùy nhìn xuống và nói nhanh:
- Các em, cô sẽ đọc để các em chép bài.
Dưới hai dãy bàn cuối, thêm một chỗ ngồi để trống. Sau đợt Lân đi, lại thêm một học sinh vừa trúng nghĩa vụ quân sự.
Thùy khơi cái tim bấc cho ngọn lửa cháy to hơn và đọc chậm rãi. Cô đọc cho các em chép một bài giảng văn mà cô rất thích:
-... Đêm ấy, tôi nghỉ lại với bác trên cái lán giữa rừng... Lúc tỉnh dậy, bác chỉ nói chuyện tình hình. (1)
-----
(1) Trích trong cuốn hồi ký "Từ nhân dân mà ra" của đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Cô đọc xong một câu lại ngừng, theo dõi các em viết. Tiếng ngòi bút gãi trên mặt giấy lạo xạo. Mọi người đã chép xong. Cô bắt đầu đọc tiếp thì từ trong xóm, thốt lên một tiếng kêu: "Tắt hết đèn đi, máy bay đấy!". Hàng chục ngọn điện bên rừng sú vụt tắt. Đèn trong xóm cũng tắt hết. Trong bóng tối bao trùm lên xóm làng, bãi sông, lũy tre, đường sá, tiếng đập lúa ngoài sân phơi nhà hợp tác nghe càng rõ minh bạch, cứ chan chát, thình thịch, mỗi lúc càng gan góc và bền bỉ. Bên kia sông, ngay đầu cánh rừng có tiếng người đàn bà tinh nghịch: "Thằng Giônxơn lại đi mò đấy!". Nghe tiếng cười giòn giã, ầm ĩ bên cửa sông Đào, Thùy cứ ngỡ số người làm ở bên ấy càng đông hơn ban ngày.
Một tiếng trẻ con khóc trong xóm.
Thùy vặn nhỏ ngọn đèn, nói:
- Các em che ánh đèn và chúng ta tiếp tục viết!
Cô bước xuống giữa các dãy bàn học sinh, gấp trang sách lại và tiếp tục đọc theo trí nhớ. Bài giảng văn ấy, Thùy đã từng được các thầy giáo dạy hồi học lớp bảy, từ lâu cô tưởng đã quên, tự nhiên chợt nhớ lại, rành rọt từng chữ một.
Cô đọc thuộc lòng cho các em viết tiếp:
- Lúc tỉnh dậy, Bác chỉ nói chuyện tình hình. Bác dặn: "Lúc này, thời cơ đã đến. Dù phải hi sinh đến đâu, dù phải thiêu cháy cả dải Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập".
Tiếng máy bay địch vẫn chưa dứt. Trong khoảng trời đêm, chúng bay rất cao và xa, gợi cho người ta cảm giác như có một con rận đang bò lần lần trên quần áo, da thịt. Làng xóm vẫn bình thản. Mấy ngôi sao trên ngọn cây phi lao ngoài cửa sông Kiều vẫn nhấp nháy như những cặp mắt tỉnh táo. Thùy mở đầu bài giảng văn bằng cách đặt những câu hỏi cho các em trả lời. Đang giữa buổi học, một học sinh ngồi phía cửa tự động đứng dậy:
- Thưa cô, có người gọi cô ạ!
Thùy ngó ra ngoài. Trong ánh đèn chiếu ra ngoài hiên, một bóng người đàn bà cao lớn đang đứng nép bên cánh cửa sổ. Thùy nhìn kỹ mới nhận ra bác Thỉnh. Thùy chưa kịp bước ra thì bác Thỉnh lúng túng, đã chực bỏ đi ra sân:
- Cô cứ dạy... Tôi đứng ngoài này... tôi nghe vậy!
Thùy hết sức ngạc nhiên. Cô chưa bao giờ thấy bác Thỉnh lui tới những nơi trụ sở làm việc, và cũng chưa bao giờ thấy bác ra trường học.
- Bác đi đâu khuya vậy? - Thùy hỏi nhanh.
- Tôi ra thăm cô... Tôi vừa ở bên trạm xá sang đây.
Thùy nắm tay bác kéo vào lớp, bảo bác ngồi ở dãy bàn cuối có mấy chỗ trống:
- Bác ngồi đây... đợi tôi một lát nhé!
Cô phải nài mãi, bác Thỉnh mới dám đánh bạo ngồi xuống bên mép chiếc ghế dài và cố thu mình lại, hai chân giấu vào trong chân ghế. Bác đưa cặp mắt rụt rè nhìn lên tấm bảng và cái bàn của Thùy.
Chưa hôm nào Thùy giảng bài say sưa như thế. Hình như hình ảnh bác Thỉnh đã gợi lên cho cô hình ảnh và cuộc đời của những người mẹ kháng chiến, một cái gì vô cùng quý giá cứ sinh sôi mãi và không bao giờ mất. Cô sực nhớ Bân và Lân, đêm chuyển máy sang rừng, bữa cơm ở nhà bác.
(Bác Thỉnh vẫn ngắm nhìn lớp học bằng cặp mắt rụt rè, và đang lắng nghe Thùy giảng bài).
Thùy nói với các em, mà cũng là nói với mình. Có lúc, cô cứ ấp úng, không sao diễn tả được thật rõ những cảm xúc và ý nghĩ ra lời nói... "Trải qua hai chục năm, từ khi Bác Hồ kêu gọi toàn dân quyết tâm giành độc lập, lời kêu gọi ấy đã biến thành lòng quyết tâm và hi sinh của cả nước. Ngày nay, lúc cả nước đang dốc sức ra để đánh thắng giặc Mỹ, mọi đòi hỏi của cuộc kháng chiến đều cấp bách, mọi người đều phải đương đầu với kẻ thù, nguồn sức mạnh trong mỗi người được gọi dậy. Nguồn sức mạnh tiềm tàng vô tận của cả dân tộc ta đang được gọi dậy để đánh bại kẻ thù dám thách thức nó. Rồi ngày mai, khi tên đế quốc xâm lược hung hãn nhất thế giới bị đánh bại, cái sức mạnh vô địch ấy lại lặn vào trong chiều sâu, như mọi chuyện truyền thuyết đẹp đẽ trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta...".
Tất cả những ý nghĩ ấy, tuy không nói ra được đầy đủ nhưng cô đều cảm thấy sâu sắc, và muốn truyền tới các em.
Buổi học hơi quá giờ. Khi các em xách những chiếc đèn dầu, ồn ào tỏa về các xóm, Thùy dẫn bác Thỉnh về căn buồng riêng của mình ở dãy nhà ngang.
Bác Thỉnh cứ tấm tắc khen:
- Cô giảng sách hay quá!
Thùy rót nước mời bác, hỏi:
- Lâu nay bác bận ở dưới lò muối phải không?
Bác Thỉnh bưng chén nước, ngước mắt ngắm gian nhà:
- Tôi xuống hẳn dưới lò rồi cô ạ... Ông Vàng bảo tôi xuống đấy phụ trách tổ lò muối, trông nom cho các cô ấy làm.
Bác hỏi thăm sức khỏe của Thùy, ngồi kể việc nhà, việc lò đến tận khuya. Trong lúc ngồi nói chuyện, bác ngắm gian phòng của Thùy và nhiều lần hỏi: "Cô ở ngoài này có một mình thôi ư?"
Hôm sau, bác lại ra ngoài trường rất sớm, lúc Thùy chưa lên lớp. Bác nói hấp tấp, ngượng ngập:
- Tôi vừa nghĩ được điều này... định ra bàn với cô...
Thùy chẳng hiểu việc gì cả, liền giục:
- Bác cứ nói đi...
- Trong nhà tôi hồi này ít người vắng vẻ quá... Cô lại ở ngoài này có một mình. Tôi ra rủ cô vào ở chung với u con tôi cho vui. Được như vậy thì tôi yên tâm lắm... Ông Lâm cũng bàn với tôi như vậy... Tôi chỉ sợ phiền cho cô mà thôi.
Thùy hỏi lại một lần nữa:
- Tôi vào trong ấy với bác, như ngày trước?
- Phải, phải... Tôi chỉ ngại phiền cho cô... Nhưng mà tôi cứ nói, được thì được, không được thì thôi.
Thùy biết lâu nay bác Thỉnh rất bận. Một mình trông cả một khu lò muối gần hai chục người làm. Số lò nấu tăng gấp ba bốn lần. Mỗi ngày, bác chỉ tạt về nhà một lát, nấu quấy quá niêu cơm, rồi lại lật đật đi thấu gần nửa đêm mới về.
Ý định của bác hơi đột ngột. Thùy đáp:
- Bác để tôi bàn với anh em giáo viên, nếu được...
- Còn ý cô thế nào - Bác Thỉnh ngắt lời.
- Tôi muốn vào ở với bác, với em Lý quá đi chứ! Nay mai trường cũng dời vào trong xóm kia mà... Nhưng bác để tôi bàn với anh em ngoài này đã...
Thùy biết nếu mình vào ở xóm đồng muối sẽ phải đi về mất thì giờ. Nhưng cô cũng muốn được sống chung với bác Thỉnh, muốn được cùng chia sẻ nỗi vui buồn với một gia đình mà cô đã coi như gia đình mình.
Ít ngày sau, Thùy dọn vào ở với bác Thỉnh.
Mùa nắng đã qua. Xóm đồng muối đã đỡ cái gay gắt khó chịu của thời tiết, nhưng cũng không còn cái không khí đông đúc, ồn ào trên sân phơi với tiếng trang đất lẹt xẹt, những người đàn bà áo nâu bạc trắng vừa kháo chuyện vừa múc những bầu nước giắt mặn chát từ giếng đổ lên ô, cũng không còn tiếng nạo muối, tiếng cười vui vẻ mỗi buổi chiều.
Sang thu đông, bà con làm muối lại kéo vào đồng, hay xuống lò. Năm nay, hết mùa phơi, bà con phần nhiều sang công trường.
Thùy dọn cái bàn viết trên chiếc hòm gian mà mấy năm trước cô vẫn ngồi viết. Năm gian nhà đã gọn ghẽ và ngăn nắp hơn. Dọn dẹp xong đâu vào đấy, cô dắt cái Lý đi thăm một vòng các gia đình trong xóm, Thùy vào thăm từng nhà. Bà con xóm đồng muối rất quý mến Thùy. Họ coi cô như người trong xóm, hoặc người trong gia đình. Lần nào nghe nói cô vào nhà bác Thỉnh mà không tạt sang nhà họ, họ đều trách.
Độ gần một tuần lễ sau khi Thùy dọn vào xóm đồng muối thì con sông Đào bên công trường hoàn thành. Và hôm đó là ngày giỗ bà cụ Lâm. Nếu cúng đúng ngày bà cụ mất thì ngày ấy đã cách đây ba bốn hôm, nhưng ông cụ Lâm bao giờ cũng nghĩ thiết thực, ông để lùi ngày giỗ của vợ mình lại đến hôm mở cửa sông Đào, gọi là sau gần hai tháng làm việc vất vả, có chén rượu liên hoan với mấy anh em trong ban chỉ huy công trường.
Đêm hôm trước, bác Thỉnh ở dưới lò muối về, bác lúi húi vo đậu, ngâm nếp và sửa soạn các thức ở dưới bếp một lát lâu mới lên nhà trên. Sang mùa đông, trời đã lạnh. Cái Lý cuộn mình trong chiếc chăn bông của Thùy ngủ từ lâu. Bác Thỉnh lau hai bàn tay vào tà áo, thắp que hương rồi giục Thùy:
- Ta đi ngủ thôi, nửa đêm rồi!
Thùy tắt đèn. Bác Thỉnh đặt mình xuống giường, hỏi:
- Ngày mai, thông "cửa sông" phải không cô?
- Vâng. Mai, chắc bác Lâm cũng về...
Thùy nằm sát bên bác Thỉnh, nghe hơi thở đều đều phả ấm bên người. Que hương giữa nhà vẫn cháy đỏ, thơm ngát. Tiếng sóng biển vỗ ì ầm ngoài bãi. Mấy cây tre gầy guộc ngoài vườn cựa mình kêu loạt soạt. Bác Thỉnh quay hẳn người về phía Thùy nói:
- Từ khi tôi về làm dâu ở nhà này... đến thời bây giờ mới gọi là được sung sướng, nhàn nhã đấy, cô ạ. Nhà này có bà cụ là vất vả nhất. Tội nghiệp, suốt đời bao giờ cái váy cũng xắn đến gối, cứ làm quần quật cho đến khi nằm xuống.
Không biết là lần thứ mấy, Thùy lại nghe bác Thỉnh nhắc đến cuộc đời lam lũ chỉ có nước mắt và mồ hôi của bà mẹ chồng đã mất, câu chuyện gần như có quan hệ chặt chẽ với lịch sử cái xóm đồng muối này.
Hai người đang còn nói chuyện thì nghe tiếng nổ ình ình ngoài biển. Đã hai hôm nay, đêm nào cũng nghe tiếng súng. Tiếng súng nổ một lát rồi im bặt, rồi lại tiếp tục, xa hơn một ít. Ngoài đường đê, dân công đi làm đêm đã trở về. Tiếng máy nổ kêu phành phạch bên công trường vọng sang.
Bác Thỉnh nằm lắng tai nghe tiếng súng rồi hỏi Thùy:
- Cô có đoán ra việc gì không?
Thùy nói:
- Hay là các "anh ấy" đi tuần ngoài biển, đã gặp địch?
Tiếng súng lại tiếp tục, từ ngoài khơi vọng vào xóm đồng muối.