← Quay lại trang sách

Chương 13

Ông cụ Lâm rất quan tâm đến ngày giỗ vợ.

Ngày hôm trước, ông cụ đã dặn bác Thỉnh phải sửa soạn nấu nướng thật sớm, sáng ra là cúng ngay để buổi chiều mọi người có thể sang công trường. Ông cụ chỉ dặn một lời như thế. Xưa nay, chuyện giỗ tết trong nhà, bác Thỉnh đều lo liệu chu tất, đã quen rồi.

Trời vừa sáng, bác Thỉnh đã đánh thức cái Lý dậy. Bác nhóm lửa, làm gà, đồ xôi. Bóng bác cứ thoăn thoắt, ra sân lại vào nhà. Sang tiết cuối tháng mười một, trời đã rét nhiều. Cái Lý ngồi co ro đun bếp, chốc chốc lại hỏi:

- Hôm nay giỗ bà đấy, u nhỉ?

- Ăn cỗ xong, u cho con đi xem nhé!

- Xem gì?

- Xem cái gì ở bên rừng, hôm nay vui lắm. Bọn chúng nó kháo thế!

Thùy quét dọn nhà cửa thật sạch sẽ. Cô xếp sách vở của mình lại rồi trải lên mặt chiếc hòm gian một chiếc chiếu hoa mới.

Bác Thỉnh đang nấu nướng thì bốn mẹ con chị Quý dắt díu nhau sang. Ông cụ Lâm cùng ông Vàng và An cũng từ bên kia sông về.

Ba người đàn ông ngồi hút thuốc trên nhà trên. Dưới bếp, bác Thỉnh đang nấu nướng và nói chuyện với chị Quý. Từ hôm sang với Lân, hôm nay là lần thứ hai chị Quý sang nhà bác Thỉnh. Chị cứ đứng tha thẩn trước thềm nhà bếp, bác Thỉnh hỏi gì thì nói, bảo gì thì làm, xem ra thái độ chị vẫn còn ngượng nghịu, dè dặt.

Bác Thỉnh bê lên nhà trên một chiếc mâm gỗ đơm đầy xôi, trên đặt con gà luộc; một bát nước mắm cáy và một nồi tư cơm trắng. Tất cả đều bày trên mặt hòm gian. Sau khi đã thắp hương và rót rượu ra mấy chiếc chén, bác Thỉnh lui ra bảo ông cụ.

- Xong rồi, ông vào khấn đi!

Ông cụ Lâm nét mặt hể hả, đang ngắm lũ con chị Quý chơi và khóc ầm ĩ ngoài sân. Ông quay vào hỏi: "Xong hết rồi hả?", rồi đưa tay vuốt hai tà áo dạ màu cứt ngựa xám lấm tấm những vết bùn, chậm chạp bước đến bên chiếc hòm gian ở giữa nhà. Cử chỉ đầu tiên của ông khi đứng bên bàn thờ của vợ là khịt mũi đánh hơi mấy cái rồi đậy nút be rượu lại, xong quay xuống nói với hai người khách: "Ngày bà ấy còn sống, thấy tôi có cút rượu là bà ấy và nhà Thỉnh tìm cách giấu biệt!".

Ông cụ vịn tay vào mép bàn thờ, đưa cặp mắt lờ đờ nhìn lên cái khoảng không ngào ngạt hơi cơm mới, hơi rượu trắng lẫn những sợi khói nhang trước mặt, rồi lẩm bẩm một lát, chẳng ra nói với vợ, chẳng ra khấn.

Một lát sau, mọi người đã chia thành hai nhóm quây quần bên hai mâm cơm dọn trên giường và trên chiếc chiếu trải giữa nền đất - "Ăn đi các anh, rồi còn đi!". Ông cụ giục hai người đàn ông rồi thêm một câu: "Giỗ thời chiến mà!". Ông Vàng và An cũng đang vội. Họ ăn nhoáng một lát đã xong. Hai người giắt chiếc tăm trên miệng, uống chén nước rồi vội vã cáo từ.

Khách đã về, trong nhà liền trở lại yên tĩnh. Chị Quý cũng sửa soạn ra về, lũ con tất cả ba đứa túm lấy dải áo mẹ theo lệt thệt đằng sau không chịu rời ra một bước. Từ lúc ăn xong, ông cụ tiễn hai người khách về rồi vẫn ngồi xếp bằng trầm ngâm trên giường.

Trên bàn thờ, que hương vẫn còn cháy.

Bác Thỉnh nói nhỏ với Thùy và chị Quý:

- Năm nào ăn giỗ xong, ông cũng ngồi nhớ bà. Bà mất hơn mười năm nay mà y như còn sống, ông chẳng quên đâu!

Lát lâu, ông cụ quay xuống hỏi hai người con dâu:

- Nửa đêm qua, các chị có nghe súng nổ ngoài biển không?

Bác Thỉnh trả lời:

- Có.

Chị Quý rụt rè hỏi:

- Hay là tàu nó với tàu mình đã chạm nhau?

Ông cụ nghe mọi người nói một cách lơ đãng, thỉnh thoảng ngước nhìn lên mặt hòm gian, rồi nói với bác Thỉnh:

- Nhà Thỉnh này, tao không tin cái điều mộng mị đâu. Nhưng mà đêm qua, lúc ngủ với các anh bộ đội ở tổ máy bên rừng, rõ ràng tao trông thấy bà ấy về, trên tay cũng cầm một cành lá làm ngụy trang. Lúc nghe súng nổ ình ình, tao mới bừng tỉnh.

Bác Thỉnh hỏi một cách rất thật thà:

- Ông bà đã kịp nói chuyện gì với nhau chưa?

- Có, toàn là chuyện nhà cửa, làng nước - Ông cụ tặc lưỡi, cười - Giá còn sống thì bà ấy còn trông con hộ cho nhà Quý được, không khéo còn gánh phân được, tao nom bộ còn khỏe mạnh vững chãi lắm. Tao chỉ bảo với bà ấy rằng đi đâu cũng nhớ phù hộ cho hai đứa cháu nó đánh giặc. Đấy cũng là nhiệm vụ của bà ấy!

Ông cụ kể xong, như người trút được nỗi lòng, liền cường vang và kêu: "Toàn là chuyện mê tín! Toàn là chuyện mê tín!". Ông cụ gọi mấy đứa cháu nhỏ lại, bế lên lòng rồi hỏi chị Quý đang nhấp nhỏm định xin phép ra về:

- Nhà Quý có việc gì ở nhà mà vội thế? Chiều hôm qua, trên xã có thư của thằng Lân mới đánh về phải không?

Chị Quý lại ngồi xuống bên vỉa hè. Từ lúc ăn giỗ xong, chẳng hiểu sao chị thấy lâm râm đau bụng như những lần trước mỗi khi bắt đầu có nghén. Chị định về nhà nằm nghỉ nhưng lại phải ngồi nán lại, và bắt đầu kể lể rành mạch:

- Từ hôm cháu bước chân ra đi, đã gửi về hai lá thư. Cuối tháng tám một lá, giữa tháng mười một lá.Cả hai lá thư, cô Thùy đã đọc. Lần nào cháu cũng bảo rằng khỏe mạnh hơn ở nhà, lên thêm những ba bốn cân.

Đến lá thư này thì lại chẳng đề "hòm thư" nào cả. Nó bảo tôi báo cho ông và cả nhà biết rằng nó đã được phiên chế về đơn vị mới sửa soạn đi chiến đấu xa lắm. Ở đấy làng ta cũng có mấy người, nhưng ở tiểu đoàn khác. Bây giờ mỗi buổi sáng nó tập leo núi, tập chạy mười lăm cây số, mang cả bạc đà, súng, đạn. Nó viết: khi nào u nhận được thư này thì con đã đi xa rồi.

Chị Quý kể đến đây thì ngồi lặng yên, cơn đau tăng lên, mặt hơi tái đi. Trong phút chốc, một bầu không khí gần như trang nghiêm bao trùm lên khung cảnh gia đình. Bác Thỉnh và Thùy chợt nhớ đến ngày Lân rời nhà ra đi.

Nghe tin ấy, trong cả nhà ông cụ là người vui nhất. "Thế là gia đình mình đã góp một thằng cháu cầm súng đi chiến đấu xa rồi!". Ông cụ vô cùng sung sướng nghĩ đến Lân, đến những người đồng ngũ của cháu, và con đường mà họ đang đi tới. "Ở đâu cũng giang sơn mình, cũng là người nước Việt Nam mình, cũng một nỗi khổ và niềm vui như thế cả!". Ông cụ lại nhìn lên bàn thờ, bồi hồi nhớ lại hồi bộ đội về tiếp thu các vùng bên kia sông, hồi ấy bà cụ đang ốm nặng. Ông vực một bên nách, bác Thỉnh vực một bên, hai người dìu bà ra ngồi ở ngạch cửa để nhìn lá cờ của ta, bé như một đốm lửa đỏ, kéo trên lũy tre ở một làng rất xa bên kia sông. Bà khỏe hẳn ra, thấy ai đi qua cũng khoe: Sao lá cờ của ta linh thiêng vậy, thoắt kéo đi lại thoắt hiện về!" Ông bảo bà cố mà sống, để xem các anh bộ đội đi "thu lại Nước!" Quân Pháp rút theo cách cuốn chiếu, cờ nó lùi đến đâu, cờ ta cắm đến đó. Đến ngày lá cờ đỏ sao vàng to như cánh buồm tiến về cửa sông Kiều thì bà mất. Ngày ấy, ông cứ tiếc cho bà không gắng sống mà đi đây đi đó, trời đất đã rộng thênh thang! Đồng bào ta "trong ấy" ngày mai đây cũng vậy. Miễn là đuổi hết thằng Tây, thằng Mỹ, cứ húp bát cháo, tay cầm lá cờ mà đi đây đi đó cũng sướng. Người ta có mảnh đất dưới chân và hai bàn tay là có tất cả, xây dựng lên được tất cả!

Khuôn mặt rám đen, lóng lánh màu quang dầu của ông cụ cứ rạng rỡ, nở nang dần vì hơi rượu, và cái tin đứa cháu trai được "nhận nhiệm vụ đi chiến đấu xa". Ông nói với hai người đàn bà, như ra lệnh:

- Việc này là việc quân cơ. Các chị không được đi đâu cũng nói, cũng khoe nghe không?

***

Khoảng một giờ chiều, dọc hai bên bờ sông Đào cất lên một tiếng reo lớn và kéo dài. Người ta vừa vét xong lớp đất cuối cùng.

Con sông Đào nằm dài giữa cánh rừng như một con trăn khổng lồ đã bị moi rỗng ruột. Hai bên bờ, ngổn ngang những ụ đất, những giành sọt đã hỏng rách chìm sâu trong bùn, những thân cây sú bị đất lấp tới ngang giữa thân. Người đứng hai bên bờ đông nghịt. Trên phần đất làng Kiều, một người vừa cắm lên một lá cờ, chẳng ai bảo ai, người ta tiếp tục cắm những lá cờ đỏ trên phần đất của xã mình. Dài theo bờ sông, lác đác những lá cờ đỏ chói.

Ở nhà bác Thỉnh ra, ông Vàng đã hơi chếnh choáng. Đứng trên cái vỉa đất ở cửa sông có những hàng cọc gỗ đâm tua tủa, ông Vàng đưa cặp mắt lờ đờ say sưa nhìn suốt lòng con sông Đào một lần cuối cùng. Gió ngoài sông Kiều thổi tung vạt áo quân phục cũ đầy những nếp gấp lộn xộn, hăng hắc mùi ẩm mốc và long não. Từ ngày phục viên về làng, người ta chỉ thấy ông "diện" bộ quần áo xanh màu nước dưa có bốn túi ấy mỗi năm vài bận là cùng.

Hai bên bờ sông, người bên làng sang mỗi lúc một đông. Một đám thanh niên dân công và bộ đội đang vây lấy gánh hàng của Tốt. Tiếng cười chốc chốc lại rộ lên. Ở các khu lán nằm sâu trong rừng, các bếp tỏa khói mù mịt, người ta đang thổi cơm hay nấu nước chè tươi để gánh ra công trường cho anh chị em ăn bữa chiều sớm hơn mọi ngày. Một vài cán bộ tranh thủ phổ biến với anh chị em dân công xã mình việc gì đó. Hôm nay, quả là một ngày vui.

Khoảng hơn một giờ chiều, ông Lâm mới về. Lâm cùng ông Vàng đi kiểm tra lần cuối cùng. Đến từng chặng, Lâm bắt tay và thăm hỏi các cán bộ xã. Ai cũng muốn Lâm dừng lại lâu lâu một chút để ngắm nghía cái công trình lao động của mình, ai cũng muốn đồng chí bí thư huyện và ban chỉ huy công trường nói vài câu khen xã mình. Ông Vàng và Lâm đi ra đoạn phần đất làng Kiều. Lâm bước qua những mô đất gập ghềnh trên sườn dốc. Khi ngước lên, Lâm chợt trông thấy bố mình đứng ở ngay đầu hàng đám đông bà con làng Kiều, vẻ mặt hớn hở như trẻ lại, đang nói chuyện oang oang với mấy ông lão khác. Lâm chào các ông lão. Ông cụ hỏi:

- Anh đã về qua nhà chưa?

- Chưa ạ. Xong việc ở đây tôi mới về nhà được...

Đi quá một đoạn, Lâm phàn nàn với ông Vàng:

- Tôi họp trên tỉnh suốt gần một tuần nay, xong là về thẳng đây. Hồi này tôi bận quá, hôm kia ngày giỗ bà cụ, tôi cũng chẳng về được.

Ông Vàng cho biết ông cụ hoãn ngày giỗ đến hôm nay mới cúng; và sáng nay chị Quý cũng sang, cả nhà rất vui vẻ.

Hai người ra đến gần vỉa đất ngăn. Lâm nhìn qua những hàng sú, đã thấy một khoảng trời xanh và mặt nước sông Kiều quen thuộc. Lâm nói với ông Vàng:

- Về công tác của đồng chí, huyện ủy đã có quyết định rồi.

Lâm chỉ cho biết thế. Lát sau, ông Vàng hỏi rõ thêm:

- Ý kiến thế nào, anh Lâm?

Lâm đặt tay lên vai ông Vàng, và nhìn bộ quân phục ông đang mặc:

- Đồng chí không đạt nguyện vọng đâu. Nhưng đây là ý kiến của thường vụ: đồng chí ở lại công tác ở địa phương...

Ông Vàng sực nhớ cách đây hơn hai tháng, có lần ông đề nghị với Lâm xin trở lại bộ đội. Chuyện ấy, ông Vàng đã quên mất, nhưng Lâm vẫn còn nhớ.

Lâm không ngờ ông Vàng trả lời rất vui vẻ:

- Tôi xin phục tùng tổ chức, tôi ở lại xã cũng được, anh ạ!

Lâm bảo ông Vàng cho thông "cửa sông".

Trên vỉa đất, đội dân công đang moi những chiếc cọc gỗ lên, xếp trên bờ. Hai bên bờ, bà con đang sốt ruột chờ đợi. Một anh thanh niên chạy tới đưa tận tay ông Lâm một chiếc cuốc. Lâm trao chiếc cuốc cho ông Vàng:

- Đồng chí cuốc nhát cuốc khai sông Đào đi!

Ông Vàng lấy làm vinh dự giơ thật cao lưỡi cuốc sáng loáng bập xuống một nhát thật sâu. Tiếng vỗ tay, tiếng reo hò bật lên, kéo dài mãi không dứt. Một anh cán bộ thông tin huyện đeo chiếc máy ảnh chạy xăng xái tìm chỗ đứng chụp. Hàng trăm lưỡi cuốc, và xẻng, xà beng xúm vào cái vỉa đất rắn chắc như một bức thành mà bổ.

Những tảng đất lớn vỡ dần ra. Đất vỡ đến đâu, nước bên ngoài xoáy vào đến đấy. Mọi người hồi hộp chờ đợi. Thùy đứng giữa đám đông, nắm tay cái Lý. Tiếng cuốc bổ xuống liên tiếp và những tiếng reo hò xung quanh làm cho Thùy vừa say sưa vừa choáng váng. Thùy đưa mắt nhìn quanh nhưng không thấy bác Thỉnh và chị Quý. Cô cố tìm khắp nơi, cũng chẳng thấy hai người đứng ở chỗ nào cả.

Buổi trưa ấy, bác Thỉnh và chị Quý không ra công trường. Hai người ở nhà. Những tiếng ồn ào từ bên sông đưa sang, hai người đang ở nhà đều nghe rõ.

Chị Quý bị đau bụng. Lúc mọi người trò chuyện xong, rủ nhau đi hết, chị Quý cũng ra về. Chị ra đến giữa sân thì cúi gập người lại, mặt tái mét. Mấy đứa trẻ ngơ ngác, sợ hãi. Bác Thỉnh vội chạy ra dìu vào buồng. Thế là từ lúc ấy cho đến chiều, chị Quý cứ nằm lăn lộn trên giường, người vặn lại như một cái vỏ đỗ. Cơn đau bụng đột ngột thật đáng sợ, chị gục đầu vào thành giường, có lúc nắm cả cuộn tóc đưa vào miệng cắn chặt. Một lúc lâu, cơn đau mới hơi dịu xuống. Bác Thỉnh nhìn nét mặt tái nhợt và lấm tấm mồ hôi của chị Quý nói nhỏ:

- Dì lại có nghén rồi! Tội nghiệp, mỗi lần có nghén lại đau bụng.

Trong mấy giờ liền, bác Thỉnh ngồi bên giường, hết quạt than để chườm, lại tìm đủ các thứ thuốc trong nhà. Chị Quý tưởng đỡ, không ngờ một cơn đau khác đã trở lại. Chị lại lăn lộn trên tay bác Thỉnh hết cơn này đến cơn khác cho mãi đến chiều mới khỏi.

Chị Quý uể oải ngồi dậy. Dáng còn yếu ớt, chị tựa lưng vào thành giường, bắt đầu vấn lại tóc. Bộ tóc rất dài trùm kín hai vai.

Lúc xòe bàn tay lật món tóc về phía sau chị Quý mỉm cười ngượng nghịu rồi nói với bác Thỉnh:

- Mấy đứa sau này còn đỡ, nhưng hồi tôi nghén thằng Lân tôi đau tưởng chết đi được... Hồi đó, tuy đã có mang nhưng tôi cứ giấu, cứ xung phong đi đưa thư cho các anh ấy. Gặp địch thì chui xuống ao. May hồi ấy tôi đang còn sức con gái, còn khỏe lắm.

Bác Thỉnh với tay đẩy cánh cửa buồng. Một luồng ánh sáng lọt vào. Gian buồng sáng hơn. Bác Thỉnh ngồi nghe chị Quý kể chuyện sinh đẻ, chuyện công tác hồi chị còn con gái. Một lát sau, bác lẩm bẩm: "Thế mà chúng nó đã đi bộ đội được cả rồi. Nhanh thế!". Chẳng hiểu bác nói câu ấy với chị Quý hay nói với mình.

Bên sông Kiều bỗng bật lên một tiếng kêu rất to, xen lẫn trong tiếng người có tiếng ào ào như nước lũ tràn qua đê. Hai người đàn bà giật mình, cùng nhìn nhau và kêu lên một lúc:

- Mở "cửa sông" rồi!

Ngoài kia, cửa sông Đào đã mở. Vỉa đất ngăn đã bị vỡ ra một mảng lớn. Trong chớp mắt, khối nước ngoài sông Kiều ào ào tràn vào như một đàn ngựa bờm trắng xóa, đang phi tới hất nhào tất cả mọi chướng ngại. Cái vỉa đất phải tốn biết bao công phu mới giữ được đã đổ sập xuống. Nước tràn băng băng qua từng chặng. Tiếng nước réo ầm ầm. Sóng ngoài cửa sông cồn lên. Khoảng dăm phút sau, con sông Đào đã đầy ắp nước, một thứ nước sủi ngầu tăm bọt, lẫn bùn đen và lá sú ải vỗ mạnh xói vào hai bên bờ. Cái ngã ba sông Đào nối liền với sông Kiều bây giờ trông rộng bát ngát.

Cho mãi đến chiều tối, mọi người đã ra về, nước ngoài sông Kiều còn chảy vào con sông mới đào. Tiếng nước chảy dần dần nhẹ hơn, rì rào trong rừng, vị nước biển mặn thấm vào từng thớ đất...