Chương 14
Trước ngày mở cửa sông, Thùy gặp một người quen ở trên phố và được biết tình hình của gia đình.
Thường trong khi Thùy làm việc bận rộn, người ta cứ ngỡ cô ít quan tâm đến gia đình. Trên phố, Thùy chỉ còn mẹ, người mà Thùy lúc nào cũng nghĩ đến. Mỗi lần ngồi một mình nghĩ đến mẹ, hay những lúc bác Thỉnh hỏi thăm "Cụ ở trên phố hồi này ra sao?", Thùy lại thấy bỗng hiện lên trước mắt hình dáng người mẹ với mái tóc bạc, đang ngồi một mình trên cái bậc cửa. Cũng lúc ấy, có biết bao kỷ niệm nho nhỏ, không quên được cùng hiện lên. Nhà Thùy ở cuối dãy phố hẹp nằm kề ngoại ô. Một chiếc cột đèn bằng sắt sơn đen và rất cao đứng ngay ở đầu phố, bên chân cột đèn là một khoảng đất trống: chợ họp ở đấy, vòi nước ở đấy, trẻ con trong phố chơi với nhau và lớn lên vẫn trò chuyện với nhau ở đấy. Gia đình Thùy chỉ có mẹ và một người anh trai. Người anh, sau khi học xong đại học, nhận công tác tận trên Tây Bắc, hàng năm mới về thăm nhà một lần. Từ bé chí lớn, Thùy chỉ sống quanh quẩn với mẹ trong cái dãy phố nhỏ bé có cây cột đèn điện. Từ ngày cô thôi học để đi dạy thì bà mẹ ở nhà có một mình. Thùy yêu mẹ bằng một mối tình bao trùm lên cuộc sống tình cảm của cô, cô yêu từ miếng trầu mẹ ăn, cái bậc cửa mẹ thường ngồi khâu áo bông. Hồi mới về làng Kiều, có nhiều đêm ngồi soạn bài xong, Thùy quay mặt vào vách khóc thút thít như một đứa trẻ, vì chợt nghĩ đến mẹ không biết đang làm gì ở nhà một mình?
Bà mẹ Thùy góa chồng sớm. Bố Thùy là Vệ quốc đoàn "Nam tiến" từ ngày Pháp mới khởi hấn ở Nam Bộ và chiến đấu bị hi sinh ngay giữa thành phố Sài Gòn. Trong những năm kháng chiến mới bùng nổ, bà cụ một tay bế Thùy, một tay dắt đứa con trai lớn chạy tản cư khắp nơi. Hòa bình lập lại, bà cụ đưa hai con trở về thành phố với mái tóc đã bạc trắng, rồi lại nuôi dạy con, cho con học hành đến nơi đến chốn bằng số tiền khâu áo bông ít ỏi. Bà cụ phải rất tần tảo và kiên nhẫn mới đủ sống. Cái tính ấy đã ảnh hưởng đến Thùy từ bé. Tuy ở phố nhưng hai mẹ con năm nào cũng nuôi vỗ đủ hai lứa lợn để lấy tiền chi tiêu thêm trong nhà, và Thùy mới có tiền mua giấy bút. Tuy bây giờ hai con đều trưởng thành, không phải nuôi nữa, nhưng bà cụ vẫn giữ thói quen như ngày xưa, mỗi năm vẫn nuôi đủ hai lứa lợn.
Sau ngày giỗ bà cụ Lâm, Thùy thu xếp công việc nhà trường để về thăm mẹ. Cô có vẻ không bằng lòng khi kể với bác Thỉnh: người quen mà cô vừa gặp cho biết bà cụ đi "sơ tán" nhưng thỉnh thoảng lại về ở nhà. Có lẽ bà cụ vừa nhớ Thùy lại vừa nhớ nhà. Thùy vừa bực lại vừa thương mẹ hơn.
Buổi trưa hôm ấy, Thùy đạp xe thẳng về cái làng mẹ mình "sơ tán", cách thành phố vài chục cây số. Quả đúng như thế, bà cụ đã bỏ về trên phố. Cô vội vàng đạp thẳng về nhà. Đến gần chập tối, khi Thùy đã đứng trước cái bậc cửa, bên cạnh cánh cửa sơn xanh cũ kỹ thì cô không thấy giận bà cụ chút nào nữa. Cũng như bao nhiêu lần về thăm mẹ, đứng trước cánh cửa nhà mình, tim cô lại đập rộn lên. Cô nép vào bên bức tường cửa sổ, đứng ngắm bà cụ đang ngồi một mình trong nhà, bên ngọn đèn dầu. Cô đứng bên ngoài nhìn vào một lát rồi nhảy xô vào nhà như một cơn lốc.
- U!
Bà cụ buông cái áo bông đang may dở, giơ ngọn đèn ngang mắt, hồi lâu mới thốt lên được: "Cha mày, mày về với mẹ đấy ư con?".
Thùy cầm chiếc áo bông màu tím khâu đã sắp xong, ướm thử vào người, hỏi:
- U khâu áo của ai đặt đây?
- U khâu cho mày đấy, trời bắt đầu rét rồi còn gì nữa?
Trong lúc Thùy mừng rỡ mặc thử cái áo mẹ mới may cho thì bà cụ lật đật xách đèn đi xuống bếp. Nghe tiếng lịch kịch dưới bếp, Thùy chạy xuống bảo:
- U đừng thổi cơm nữa, con đã bảo con còn no mà.
Bà cụ cầm chiếc niêu đất, đứng ngẩn ra:
- Cha mày, sao mày kêu đói?
Thùy ôm lấy mẹ, chế giễu:
- Tai u dạo này nghe lẫn rồi, ban nãy con bảo đã ăn cơm dưới làng, con no rồi kia mà!
Đêm ấy, bà cụ được ngủ với con gái một đêm, lấy làm mừng lắm. Thùy cũng vậy. Thùy lại nép vào bên yếm mẹ, nghe bà cụ kể bao nhiêu chuyện như ngày nhỏ. Kể chuyện xa chuyện gần chán, bà cụ khuyên: "Bây giờ lại đến thời buổi kháng chiến, con phải tập chịu vất vả, con làm việc gì cũng phải hỏi han các anh cán bộ và ngủ in ít chứ!" Thùy nghe, chỉ cười khúc khích. Bà cụ vội mắng yêu: "Tao tưởng mày đã làm cô giáo, đã thành người lớn rồi cơ đấy!" Thùy càng nằm sát lại bên mẹ và ngủ đi lúc nào không biết.
Sáng hôm sau, Thùy dậy rất sớm và chạy tới thăm các nhà xung quanh. Trong dãy phố, ngày xưa, cánh bạn con trai, con gái lứa tuổi Thùy rất đông. Cô hỏi thăm nhưng chẳng mấy người còn ở nhà. Khu phố vẫn nguyên vẹn nhưng đã đổi khác: Trong các sân sau, các ngách tường mọc lên những hầm hố tránh máy bay. Bản tin chiến thắng treo ở cột đèn. Tự về khu phố suốt ngày đội mưa nắng ngồi trực bên các khẩu súng bộ binh phòng không đặt xung quanh chợ.
Buổi trưa, Thùy đang ngồi trong nhà soạn chồng sách cũ thì còi báo động thét lên. Từng loạt đạt cao xạ nổ làm rung các cánh cửa chớp. Bên ngoài, đường phố vắng ngắt. Khi còi vừa báo yên, một cô gái mặc quân phục màu tím, đội mũ ngụy trang, vẻ điềm tĩnh, khoác ba lô bước thẳng lên bậc cửa nhà Thùy ở sát đường.
Thùy vẫn ngồi trong nhà đang mải lục tìm một cuốn sách, khi ngước lên phải nhìn một lát mới nhận ra người nữ quân nhân vừa bước vào:
- Chao ôi, Liên! - Thùy kêu to và hai người ôm chầm lấy nhau.
Liên hỏi tíu tít:
- Cậu về từ bao giờ, bà cụ đâu?
- Mình về hôm kia, mẹ mình còn ở dưới hầm.
- Bên nhà mình đã đi "sơ tán" hết rồi. Mình đi công tác, nhớ nhà quá nên rẽ qua một lát. Không ngờ cửa khóa, nhà đã đi hết, có người mách cậu vừa về. Thế là mình mừng hết sức!
Thùy ngắm cô bạn của mình không chán mắt. Liên đã nhập ngũ. Trong bộ quân phục hải quân màu tím than, Liên càng rắn rỏi và trẻ ra. Liên chạy vào nhà trong thăm mẹ Thùy, rồi kể chuyện huyên thuyên dọc đường bị máy bay "cù"!
Bà cụ thổi cơm cho Liên ăn. Xong, hai cô bạn gái thức suốt cả buổi trưa nói chuyện. Liên hỏi:
- Chỗ làng cậu dạy học đang xây dựng quân cảng, sắp xong chưa?
- Chưa đâu. Mình có được gặp chú Liên.
- Chú mình có kể chuyện. Ông ấy khen cậu hết lời, làm cho mình phát ghen tị! Chú mình bảo bây giờ cậu phụ trách một trường cấp hai tiền tiến trong huyện, được đồng bào địa phương rất tín nhiệm cơ mà?
Quả ông Quang có nói to thêm thành tích của Thùy với cô cháu gái mình. Thùy vừa nói chuyện vừa tiếp tục lục tung đống sách cũ trên bàn.
Liên hỏi:
- Giữa thời buổi này, cậu còn giở đống sách cũ ra để làm gì?
- Cậu quên mình đang dạy học ư? Những thứ này đối với mình còn cần lắm!
Trên sàn nhà, trên chiếc giường hai người đang ngồi bừa bộn những sách vở, giấy má: sách in, sách chép tay, những bản in "rônêô", những bài tập quốc văn viết trên trang giấy khổ lớn còn dấu mực đỏ của thầy giáo; một bài luận từ ngày hai người còn học cấp hai với cái đầu đề: "Sau này em thích làm nghề gì, vì sao?". Thùy chọn những cuốn sách đang cần, bó thành bó riêng. Mỗi lần lục ra được một trang vở, một dòng chữ gợi lại cả một câu chuyện dài dòng và buồn cười, Thùy lại đưa cho Liên xem. Quãng đời học sinh của họ chưa qua đi lâu lắm, nhưng cả hai người đều tưởng như thời cắp sách đến trường đã lùi vào quá khứ, đã xa lắc!
Liên lục ba lô trao cho Thùy một tập các bài báo cô đã viết rồi từ biệt Thùy cũng vội vã và đột ngột như khi tới.
Chiều hôm ấy, Thùy đưa mẹ về nơi "sơ tán" rồi trở về làng Kiều.
Cô sang đò, đi tắt qua lối rừng phi lao. Sang mùa đông, cánh rừng rất vắng. Mặt cát dẹ xuống. Thùy đi qua một trảng cát trồng phi lao non và chiếc cầu tre bắc ngang con lạch nước mặn thì trời đã tối. Đàng xa, sau những mái lều nằm rải rác dọc các hàng cây cao, đã có nhiều ánh lửa của lò nấu muối đêm hắt ra ngoài. Bác Thỉnh đang trông lò. Trong gian lều vừa thấp vừa hẹp, chỉ vừa đủ chỗ đặt cái khung bếp, cái bể chứa nước giắt và một chiếc chõng nhỏ như chiếc giường của trẻ con nằm, bác đang lúi húi khuấy mẻ nước muối bắt đầu sôi. Thấy Thùy về, bác Thỉnh hỏi tíu tít:
- Bà cụ thế nào? Cụ có khỏe không? Nhà cửa trên phố thế nào?
Thùy kể qua loa tình hình gia đình rồi giở cuộn giấy báo ra trước khung bếp. Bác Thỉnh hỏi:
- Giấy tờ gì đấy, hả cô?
Thùy mỉm cười đáp:
- Tôi đọc bác nghe nhé! Đây là một bài báo kể một trận đánh nhau - Cô ghé sát trang báo có in tấm ảnh của Bân trước ánh lửa - Nhà báo người ta viết chuyện anh Bân, lại chụp cả ảnh nữa...
Bác Thỉnh sung sướng ngắm bức ảnh con rất lâu, khẽ đưa ngón tay sờ lên mặt giấy.
Bài báo khá dài, tường thuật trận đánh rất tỉ mỉ. Thùy nghiêng trang giấy trước bếp lửa, đọc thật chậm. Bác Thỉnh ngồi trên chiếc chõng, lắng tai nghe rất chăm chú. Trên gương mặt đã dầu dãi, những nếp răn dãn ra, cặp mắt nhìn đăm đăm vào ngọn lửa. Thùy đọc, chốc chốc lại phải dừng lại. Bác Thỉnh chốc chốc lại đến bên cửa lò, lúc bỏ thêm củi, lúc cầm thanh gỗ gạt lớp bọt xám phồng trên miệng chảo. Làm xong, bác lại đến ngồi bên chõng, và giục.
- Cô đọc tiếp đi...
Thùy lại đọc tiếp đoạn vừa bỏ dở. Khung bếp đầy ắp than, lửa cháy rừng rực. Bác Thỉnh đến ngồi bên cạnh Thùy, ngay cạnh lò, vừa nghe vừa theo dõi mẻ muối sắp đông. Thùy đọc đến đoạn tả trận chiến đấu bước vào giai đoạn gay go nhất, bác Thỉnh vội vàng bảo:
- Tiếc quá, để chốc nữa cô ạ, bây giờ tôi phải dỡ muối.
Trên mặt chảo mù mịt khói, nước đã sánh đặc. Bác Thỉnh khều bớt than, vung tay rắc một lớp hạt thầu dầu, chất nước sánh đặc lùm lên ở khoảng giữa. Mẻ muối cuối cùng đã nấu xong: Những hạt muối trắng, đủ mọi hình khối đầy ắp trên miệng chảo.
Đêm ấy về nhà, Thùy đọc nốt đoạn cuối bài báo cho bác Thỉnh nghe rồi hai người mới đi ngủ. Thùy ngủ thiếp đi đến gần sáng và trong giấc ngủ, cô nằm mơ thấy mình đang giảng bài ở lớp. Cô gọi Bân lên đọc bài. Bân cao lớn, khỏe mạnh, mặc bộ quần áo bộ đội hải quân. Giữa giờ học, máy bay địch từng đàn từng lũ kéo ập tới. Các học sinh của Thùy biến thành pháo thủ hết. Bân trèo lên đứng trên mái nhà. Ta và địch quần nhau. Máy bay của chúng cháy hết chiếc này đến chiếc khác, lửa bốc đầy trời và tiếng súng ở xung quanh trường nổ ran...
Đang giữa giấc ngủ say, bác Thỉnh đánh thức Thùy dạy. Thùy vẫn còn nửa mơ nửa tỉnh. Bác Thỉnh dựng cô ngồi dậy và bảo:
- Cô ạ, có tiếng máy bay, gần lắm!
Ngoài biển, sóng như xay lúa, có lúc gằn lên. Lát sau nghe tiếng súng nổ lụp bụp. Thùy đã tỉnh hẳn. Hai người chợt nghe có tiếng máy tàu thủy ngoài sông. Tiếng máy tàu rõ dần, vang rền mặt đất và một hồi còi "tu tu" thốt lên, vọng vào xóm. Bác Thỉnh bảo: "Cô ở nhà nhé, tôi chạy ra lò xem sao?". Bác Thỉnh chạy ra lò muối. Thùy nóng ruột quá, cũng chạy ra theo, trong bụng cố đoán xem việc gì?
Con đường đê tối om. Thùy vừa chạy được mấy bước thì trên trời đã ầm ầm tiếng máy bay, rõ ràng tiếng máy bay phản lực của địch. Đêm vẫn tối như bưng mắt. Bỗng một vừng chớp sáng lòe lên, tiếp theo một loạt bom nổ dậy mặt đê. Thùy vội nằm sấp xuống, nghe đất đá rơi rào rào trên đầu. Trong ánh chớp, hiện ra hình thù một chiếc tàu thủy đang quay mũi nằm giữa cửa sông.
Tràng bom vừa dứt, Thùy nhổm dậy và men theo rìa đê chạy thẳng đến chỗ anh chị em dân quân tập trung. Trên một đoạn bờ hào, chỉ nghe thấy tiếng người nói lao xao, những mũi súng tua tủa. Và bóng ông Vàng chạy qua trước mặt. Bóng đêm như vừa được phủ một lượt tro xám. Từ giữa sông, màn khói hỏa mù như một tà áo khoác tung ra. Phút chốc, cái màn khói mù hăng hắc, màu xam xám đã trùm lên tất cả bờ bãi, rừng sú, mặt sông, cả khu trường học và đoạn giao thông hào mà Thùy và anh chị em dân quân đang nấp.
Mọi người hết sức lo lắng và chẳng ai hiểu ra việc gì cả.