Chương 15
Sau đêm gặp Lân, Bân khoác ba lô cuốc bộ liền ba ngày đêm.
Nhờ gặp một chiếc xe chở hàng của khu tuần phòng đi cùng đường, anh xin đi nhờ. Vào một buổi tối, đã gần nửa đêm, Bân về đến quân cảng.
Bến quân cảng bỏ trống, không có một chiếc tàu nào đỗ. Trên dãy cầu tàu bằng ván lát treo một hàng bóng điện nhỏ, chụp bằng ống bơ, mỗi chiếc tỏa một quầng ánh sáng bằng cái nia xuống mặt biển tối sẫm. Ánh sáng những ngọn điện phòng không lờ mờ. Những cơn gió từ ngoài khơi không ngớt thổi ràn rạt vào bờ đá. Bân đứng trước cầu tàu, nhìn sóng khỏa trên đầu những chiếc phao đỏ nhấp nhô trước mặt, anh bỏ mũ để cho từng cơn gió lẫn hơi nước biển mơn man trên da mặt và thổi tung món tóc bay xõa. Đã mấy tháng nay, Bân không được hưởng cái thứ gió lồng lộng và phóng túng, có lẫn vị chát của muối biển. Chỉ đứng trước bờ biển một lát, Bân đã thấy khỏe hẳn ra.
Anh khoác ba lô đi lững thững trên bến. Bãi sửa chữa tàu ở bên kia dãy nhà kho nằm nối tiếp nhau, như đang ngủ im phăng phắc. Anh đến gần một ngôi nhà kho và nhìn về phía bãi. Giữa cảnh đêm vắng, hiện ra một mảng đen đồ sộ hình thân tàu. Không cần đọc số tàu vừa sơn lại, cũng chẳng phải đến gần, bằng linh tính của người thủy thủ Bân nhận ra ngay tàu của mình. Chính T.730 đang nằm trên đà! Anh bồi hồi quá, con tàu mà anh sốt ruột muốn trở về với nó, anh đã ngã xuống ở đấy và trong cơn mê vẫn không quên, bây giờ đang nằm kia, trên hai thanh sắt cao giữa bãi sửa chữa, thân tàu che khuất một mảng trời đầy sao. Anh đứng ngoài xa rồi tiến lại gần nhìn dãy dây cáp lòng thòng thả xuống từ mặt boong, ngắm những khẩu pháo phủ áo bạt và chiếc đài quan sát, vị trí chiến đấu của mình. Chưa bao giờ Bân thấy con tàu uy nghi và thật gắn bố với mình như thế. Như tất cả các thủy thủ đi xa về, Bân đưa tay lên vành mũ chào hạm tàu và đứng yên hồi lâu, nghe tiếng gió ngoài khơi thổi qua đài quan sát.
Bân đang đứng đó, chợt nghe trên boong có tiếng bước chân. Một người lính gác, khoác khẩu tiểu liên từ phía sau đi ra.
Bân đưa giấy tờ, rồi ngắm đồng chí chiến sĩ. Đấy là một anh chàng còn trẻ, đội chiếc mũ vải bịt tai rất ngay ngắn. Dưới ánh đèn điện, người chiến sĩ trẻ mà Bân chưa hề quen biết nhìn lướt qua hàng chữ trên tấm giấy "chứng nhận thương binh ra viện" và ngước nhìn lên, đôi mắt chớp nhanh:
- Hay quá, hóa ra đồng chí chính là đồng chí Bân. Đồng chí đã khỏi hẳn rồi ư?
Rồi anh nói tiếp, giọng nghe đầy vẻ thân mật:
- Bây giờ tôi mới được gặp đồng chí nhưng tôi đã được nghe nhắc đến đồng chí luôn. Tên tôi là Hà.
Bân theo người chiến sĩ mới trèo lên boong. Anh cất đồ đạc và hỏi thăm:
- Đồng chí xuống tàu được bao lâu rồi?
- Từ sau ngày đồng chí đi quân y viện.
- Đồng chí ở pháo hay thông tin?
Hà đáp bằng giọng ngượng ngập:
- Tôi thay thế đồng chí, tôi làm quan sát viên!
Hà cho biết, T.730 giờ là kỳ hạm. (1)
-----
(1) Kỳ hạm: tàu chỉ huy.
Tuy mới gặp, Bân đã có cảm tình với người chiến sĩ trẻ có khuôn mặt tuấn tú, hơi giống Lân. Đồng thời, anh không thể nào làm quen được với ý nghĩ rằng Hà đã thay thế mình, chiếm lấy chỗ đứng của mình trên chiếc vòng sắt quen thuộc và đầy nguy hiểm. Nhưng sự thực là như thế, Hà đã thay anh làm quan sát viên và T.730 của anh đã lĩnh trách nhiệm tàu chỉ huy.
Sau khi nói chuyện với Hà, Bân biết trên tàu đã có nhiều thay đổi. Trong thời gian anh nằm quân y, tàu vẫn đi làm nhiệm vụ ở ngoài biển, đã đánh thêm hai trận. Nhiều đồng chí thuyên chuyển sang phân đội khác, hoặc bị thương. Nhiều đồng chí được đề bạt và khen thưởng sau hai trận đánh mà anh vắng mặt.
- Thuyền trưởng Cương còn không? - Bân hỏi.
- Còn.
- Ái vẫn ở đây hay đã chuyển đi đâu?
- Đồng chí Ái hi sinh trận ngày 25 rồi!
Bân níu lấy cánh tay Hà:
- Đồng chí nói sao?
- Đồng chí Ái hi sinh trong trận ngày 25 rồi!
Tin đó làm cho Bân choáng váng. Cổ anh như tắc nghẹn. Một chất nước đắng dâng lên đầy miệng. Anh bỗng quên hết: Việc Hà thay thế mình..., những ngày nằm quân y..., anh vừa được gặp Lân trên dọc đường... tất cả mọi chuyện ấy đều trở nên bé nhỏ, như lùi vào trong cõi mơ hồ. Trước mặt Bân hiện lên sừng sững hình ảnh Ái: cái gáy rám nắng và rợp tóc vì lâu ngày không được cắt, và tiếng thét sang sảng giọng xứ Nghệ - tiếng thét động viên khẩu đội trút căm thù lên nòng súng để trả thù cho đồng bào!...
Khẩu pháo ở "vị trí Một" đang lặng lẽ chĩa chiếc nòng dài, đen sẫm lên bầu trời chi chít sao. Bân tưởng như Ái vẫn còn đứng ở ngay bên cạnh tấm lá chắn, với một lá cờ đỏ như ngọn lửa...
Trời về khuya. Vài ngọn đèn trong các khoang thuyền kề bên xóm chài trước mặt cứ nhấp nháy mãi và kẻ một đường thẳng hơi run rẩy xuống mặt nước. Biển tối sẫm. Tiếng sóng dâng trào lên từng đợt, lúc xa, lúc gần chậm rãi và rất trầm giống như một giọng kể chuyện buồn bã. Bân nằm cuộn mình trong chiếc tăng bằng vải bạt căng từ nòng pháo xuống. Hà vẫn khoác súng đi lại bên cạnh. Hà kể trận đánh ngày 25 rất tỉ mỉ:... "Lúc ấy, tôi đứng ở trên đài, tôi trông rõ đồng chí Ái đang thét lên, tay chỉ vào chiếc máy bay...". Tiếng Hà chìm dần, bên tai Bân chỉ nghe tiếng sóng khuya vỗ vào bờ quân cảng.
Bân nhớ những đêm anh và Ái cùng phiên "trực canh": Bốn bề chỉ có trời và nước. Hai người thỉnh thoảng mới trao cho nhau vài lời, mắt cả hai người đều dán vào bóng tối cho đến lúc chân trời phía đông hừng lên. Lần ấy, tàu đi tuần ven biển khu Bốn và không kéo cờ. Trời vừa tang tảng sáng, xung quanh tàu bỗng thấy có rất nhiều thuyền đánh cá dong buồm chạy thẳng tới. Lấp ló sau mạn thuyền và sau những lá buồm cói, có nhiều mũi súng trường và súng máy, những đôi mắt nảy lửa nhìn chĩa về phía tàu. Bân và Ái vội đi gọi thuyền trưởng và các thủy thủ dậy. Thuyền trưởng cho treo cờ. Sau khi nhận ra tàu mình, đồng bào trên thuyền đứng cả dậy. Hóa ra đồng bào ngỡ T.730 là tàu biệt kích của địch nên châu thuyền lại định vây bắt! Ái đang đứng trên đài chỉ huy bỗng hấp tấp chạy băng về bên mạn, kêu lên rối rít, rồi cứ đứng ngây ra nhìn sang một chiếc thuyền bên cạnh.
Trong số đồng bào ngư dân trên chiếc thuyền đó, có mấy người đàn bà, và có vợ Ái. Hai vợ chồng đứng cách nhau một khoảng trời và nước, cùng nhận ra nhau một lúc. Cả hai vừa mừng vừa thẹn, cứ cuống quýt. Lần ấy là lần cuối cùng Ái gặp vợ. Vợ anh có đôi mắt đầy lòng đen rất gan góc, chỉ nhìn chồng cũng nói lên được tất cả.
Suốt đêm hôm ấy, Bân không hề chợp mắt. Trong lòng Bân đang nổi lên cơn giông bão. Tình đồng chí, lòng căm thù địch như những đợt sóng lớn cao ngất, trái chiều nhau cùng một lúc xô tới, xoáy vào tận đáy lòng anh. Anh nắm chặt hai bàn tay và ngước nhìn lên nòng pháo trên đầu. Trên cao là một vừng sao rất dày, trong đó có một ngôi sao sáng xanh, chớp luôn, như đậu ngay trên nòng pháo. Bân lẩm bẩm: "Ái, mình sẽ chiến đấu như cậu đã chiến đấu. Nhất định mình sẽ trả thù cho cậu! Nhất định mình phải giết hết "chúng nó" để trả thù cho cậu!".
Tiếng chân Hà đi lại bên cạnh. Hà hỏi vọng vào trong tăng:
- Đồng chí vẫn chưa ngủ ư?
-...!
- Về sáng hơi lạnh đấy. Tôi đi lấy chăn cho đồng chí đắp nhé!
Bân vội từ chối:
- Tôi cũng có, cậu không phải lấy nữa - Anh nói và giở ba lô lấy chiếc chăn của mình đắp lên ngực. Đấy là chiếc chăn còn mới của Ái, Ái đã đưa cho anh đắp cách đây hai tháng, lúc anh bị thương. Qua lần bông dày, chiếc chăn tỏa lên người Bân một làn hơi nóng ấm áp, lẫn mùi dầu máy và mồ hôi rất quen thuộc. Vừa nằm ấm chỗ, Bân đã ngồi bật dậy. Từ lúc ấy cho đến khi chân trời đằng đông lóe dần những tia sáng trăng trắng như sữa loãng, và vệt sao xanh rất gần còn sót lại trên đầu súng đã tắt, Bân cứ ngồi tựa bên khẩu pháo ở mũi tàu, chiếc chăn khoác trên lưng, đưa đôi mắt ráo hoảnh và xam xám như một lớp tro phủ ngoài hòn than hồng nóng bỏng ngước nhìn ra ngoài biển khơi. Đôi mắt ráo hoảnh và lạnh ngắt!
Trời sáng hẳn.
Khoảng trời trước mũi tàu trắng như sữa.
Một hồi kẻng khua lanh lảnh sau dãy nhà kho.
Các chiến sĩ T.730, từ trong khu doanh trại "sơ tán" phía sau con đường dốc đất đỏ quạch đi ra bến. Mọi người đứng tụ tập trước cửa dãy nhà kho dài và thấp lè tè, mới quét một lượt nước xi măng xám nham nhở. Một người báo tin Bân đã về từ đêm qua. Tất cả liền chạy ùa về phía tàu. Những tiếng kêu từ dưới bãi:
- Bân đâu?
- Nghe nói cậu Bân vừa về đêm qua, phải không?
Bân đang đi xem những vết đạn dưới các khoang máy và khoang chứa đạn. Anh từ trong khoang máy chui ra, hai vai váo lấm đầy dầu. Lập tức, những cánh tay từ phía dưới bãi chìa lên. Bân nắm lấy hai ba bàn tay đen sạm và vạm vỡ. Ai cũng tranh hỏi trước:
- Vết thương của cậu thế nào?
- Còn đánh nhau được nữa không?
Bân co chân nhảy xuống bãi, và đưa mắt nhẩm đếm từng đồng chí cũ còn lại:
- Khỏi rồi! Còn đánh nhau được, đánh tốt hơn ấy chứ!
Ngay buổi sáng, sau khi thu xếp chỗ ăn ngủ và báo cáo với thuyền trưởng, Bân nhận một bộ quần áo vải bạt màu xanh và treo mình trên cái giá lủng lẳng sát sườn tàu, cùng mọi người cạo hà. Ngồi bên cạnh các đồng chí khác, nom Bân càng trắng trẻo và có vẻ non nớt. Hình như trên người anh chưa phai hết mùi thuốc khử trùng thơm hăng hắc thường phảng phất trong các gian phòng của quân y viện.