← Quay lại trang sách

Chương 16 Tàu T.730 mới lên đà

Trong trận chiến đấu ngày 25, có một số thủy thủ hi sinh và bị thương phải bổ sung chiến sĩ mới. Tàu bị oanh tạc hư hỏng một vài bộ phận nên phải trở về cảng để chữa.

Theo chỉ thị của khu trưởng Quang, kỳ hạm T.730 phải được sửa chữa hết sức gấp rút. Công việc lắp ráp các bộ phận máy do bên công trường và các chiến sĩ "cơ điện" của tàu phụ trách, các thủy thủ khác làm những việc phụ như cạo hà, sơn và gác tàu. Hàng ngày, từ lúc mặt trời mới ló, bến chữa tàu đã rộn lên tiếng búa nện chan chát, tiếng máy và dây "cua roa" chạy xình xịch. Những chiếc tàu đi làm nhiệm vụ ngoài khơi về náu tạm ở quân cảng, vội vã kéo một hồi còi dài và cuốn neo chạy ra ngoài dãy núi đá còn bọc kín trong màn sương mù trước mặt. Trong lúc đó, kỳ hạm T.730 vẫn nằm trên đà! Như một thủy thủ già gan góc xưa nay quen vùng vẫy, con tàu chỉ huy nằm đó, đang thèm khát biển khơi, thèm khát cuộc chiến đấu.

Tàu T.730 nằm trong bến gần ba tháng thì một buổi sớm, trung tá Quang tới thăm tàu và các thủy thủ.

Nhìn nét mặt hơi lầm lì, đôi tròng mắt màu khói thỉnh thoảng ánh lên và đưa đẩy hết sức linh lợi, chúng ta cũng đoán được người chỉ huy đầy cương nghị và quen suy nghĩ ấy đang mải mê với những ý nghĩ, những dự tính sâu xa của mình. Chắc chắn vấn đề mà Quang đang nghĩ tới rất quan trọng đối với các chiến sĩ, và cũng rất thú vị.

So với ngày cùng Lâm về làng Kiều thì dạo này trông Quang gầy hơn, hai vòm mắt thâm quầng. Gần hai tháng qua, ông chuyên nằm ở các đài quan sát mặt biển. Quang có tác phong chiến đấu giống như của một đồng chí chỉ huy cũ của ông ở đại đoàn Đồng bằng: trinh sát, điều tra địch hết sức tỉ mỉ và chu đáo, nhưng khi đặt kế hoạch tác chiến lại rất nhanh và táo bạo.

Chiếc xe con chạy vun vút trên con đường trồng thông. Con đường lộng gió, nối liền mặt biển với cánh đồng, như một đường viền của hai tà áo. Quang đưa mắt nhìn ra ngoài: Phía tay phải là những cánh ruộng bậc thang trập trùng, những luống đất vừa cày vỡ. Phía bên kia là biển, gió biển thổi vào trong xe đến nhức mắt. Quang ngắm phong cảnh hai bên đường, cảm thấy mỗi tấc đất của Tổ quốc đều gắn bó với mình như máu thịt. Những năm kháng chiến, ông đã cùng nhân dân cầm súng giành giật lấy từng góc vườn, từng luống cày. Ngày nay, ông lại cùng các đơn vị hải quân mới thành lập, còn non trẻ đang sải cánh tay ra ngoài biển Đông để bảo vệ bờ cõi, cũng như đại đoàn Đồng bằng của Quang ngày xưa, con đại bàng vừa đẻ ra đã vỗ cánh trên từng lớp đồn bốt giặc dày như đinh cắm dọc hai bờ sông Hồng!

Xe vào gần đến cổng gác. Từ bên ngoài, Quang nhìn qua vai đồng chí lái xe thấy các chiến sĩ đang làm việc ở bãi sửa chữa. Tiếng cười nói, tiếng máy chạy, tiếng búa nện sắt choang choang. Không khí bến tàu rất ồn ào. Trên vạt sân nền xi măng trước dãy nhà kho, một đám đông chiến sĩ tàu T.730 đang rũ gỉ dây neo. Cuộn dây xích sắt buộc vào một cây luồng rất dài và treo lơ lửng dưới một gốc cây si già. Các chiến sĩ ngồi thành hai hàng trên một chiếc ghế dài, những cánh tay đặt trên đầu cây luồng cùng nhịp níu xuống lại thả ra. Cuộn dây sắt vừa được nhấc lên lại rơi xuống nền sân kêu loảng xoảng, làm bay tung những đám bụi sắt màu đỏ.

Khi trông thấy chiếc xe con của Quang vào sân, các chiến sĩ liền bỏ việc đổ xô đến bên thành xe. Một Thượng sĩ vội vàng hô nghiêm. Tình cảm của mọi người như bị nén lại. Sau động tác đứng nghiêm dán năm đầu ngón tay vào đường chỉ quần một cách vội vã, các chiến sĩ liền chạy ùa đến gần Quang lúc ấy cũng vừa bước xuống. Đối với Quang, các chiến sĩ đều thích gần gũi và chẳng có gì e ngại. Họ tranh nhau hỏi thăm và buông những lời trách móc lâu ngày không thấy ông đến với họ. Một vài cậu trẻ tỏ vẻ nũng nịu với vị thủ trưởng. Được sống những phút như thế, Quang cảm thấy mình trẻ thêm vài ba tuổi. Ông cười hồn nhiên và phân bua: "Mình bận lắm các cậu ạ, gần hai tháng nay mình chỉ nằm ngoài đài quan sát thôi!" Quang bắt tay khắp lượt và đưa cặp mắt thân mật nhìn từng người. Qua cái liếc mắt đầu tiên, ông đã nhận thấy có ba bốn cái đầu cạo trọc.

- Ghê nhỉ? - Quang quay lại hỏi Cương, thuyền trưởng - Đồng chí hạ lệnh cho anh em cắt trọc đấy ư?

- Báo cáo, không! Anh em kêu để tóc dài nước mặn bết vào rất khó chịu.

Quang biết "các cậu" T.730 bắt chước mình, cho đấy là một cái "mốt" thời chiến! - Nhưng không sao, để tóc dài mà gội nước biển hàng tháng cũng ngứa ngáy khó chịu thật. - Quang nói, và đưa tay lên xoa đầu.

Các chiến sĩ cũng bắt chước đưa tay lên xoa đầu mình và ôm vai nhau nhìn thủ trưởng cười.

Quang ngồi xuống chiếc ghế dài kê bên gốc si.

Mọi người ngồi bệt xuống sân. Xung quanh Quang đã nổi lên những câu hỏi:

- Đề nghị thủ trưởng nói chuyện thời sự miền Nam ạ!

- Đề nghị thủ trưởng cho biết tại sao thằng Giônxơn bảo phong tỏa bờ biển vịnh Bắc Bộ mà gặp mình, tàu biệt kích chúng nó cứ lủi như chạch ạ?

- Thủ tưởng cho biết chúng tôi sắp được "về" chưa ạ?

Quang hiểu ngay tiếng "về" có nghĩa là được trở ra biển, được đi chiến đấu. Lâu nay, các cán bộ chính trị vẫn thường giáo dục trong toàn quân chủng ý thức "biển là nhà"...

Quang trả lời những câu hỏi rất tỉ mỉ, cho từng người một, rồi hỏi Cương:

- Bân quan trắc đâu?

- Báo cáo, đồng chí ấy vừa lên gặp trưởng ban quân lực - Cương lợi dụng lúc thủ trưởng đang cởi mở, liền khiếu nại việc đồng chí trưởng ban quân lực sắp ra lệnh lấy Bân đi bổ sung cho phân đội khác.

Quang vỗ lên cặp vai béo tròn của Cương:

- Tôi thừa biết đồng chí định giữ cậu Bân lại làm quan trắc suốt đời cho tàu mình. Như thế là tư tưởng sai đấy nhé! Việc ấy không phải là do ý kiến của trưởng ban quân lực, mà là của tôi. Tôi cũng không lấy một chiến sĩ giỏi lên cơ quan khu đâu - Quang quay sang nói với tất cả các chiến sĩ đang vây xung quanh - Quân chủng chúng ta mới xây dựng, hãy còn trẻ. Phải nghĩ đến sự phát triển của toàn quân chủng, các đồng chí ạ!

Quang tỏ ý tiếc không được gặp Bân. Ông hỏi mọi người:

- Các đồng chí đã nghe tin tức gì về chiếc T.40 ở bên khu 9 chưa?

Mấy hôm trước, Cương nghe tin một chiếc tàu của khu tuần phòng 9 đi làm nhiệm vụ trở về thì bị địch oanh tạc. Cương chưa biết tin ấy có đích xác hay không nên chưa dám phổ biến cho chiến sĩ. Anh không ngờ chính Quang lại nhắc tới, với thái độ rất bình thản và vui vẻ.

Cương trả lời:

- Chưa ạ!

- Được, tôi sẽ phổ biến tình hình chiếc T.40 của đơn vị bạn để các đồng chí yên tâm.

Quang giở tấm bản đồ rất lớn giải xuống sân. Ba phần tư tấm bản đồ là biển, một màu xanh bao la và các cửa sông ăn lõm vào đất liền như hình những cái phễu. Các chiến sĩ chen nhau vào tò mò ngắm nghía, một vài người hết sức thú vị khi tìm thấy một hòn đảo, một đoạn bờ biển quen thuộc. Quang đặt ngón tay vào giữa màu biển xanh loãng, vạch một đường ngoằn ngoèo vào trong bờ rồi bắt đầu kể:

- Cách đây một tuần, chiếc T.40 của khu tuần phòng 9 đi làm nhiệm vụ phục kích tàu địch hoạt động ban đêm vùng ven bờ biển. Sau khi đuổi chiếc tàu địch ra ngoài khơi và bắn nó bị thương nặng, vì trời sắp sáng, T.40 được lệnh vào "dựa" ở một cửa sông - Quang đặt ngón tay vào chính giữa hình một cái phễu xanh trên bản đồ - Đấy là cửa sông Kiều, chỗ này là làng đồng chí Bân. Tảng sáng hôm đó, mù biển rất dày. Tàu đi xuyên mù, theo hướng Tây Bắc đến 4 giờ 30 phút thì vào gần đến nơi. Vì trời xấu và không thuộc luồng lạch nên đâm vào một cái lưỡi cát ở cửa sông và bị mắc cạn. Vừa lúc ấy, máy bay địch, có lẽ qua màn ra đa đã tìm ra hướng đi của ta nên chúng liền kéo tới, cứ nhằm khu vực ấy mà bắn phá và thả bom rất dữ dội.

Quang kể đến đây liền xếp tấm bản đồ lại. Trong óc Quang hiện lên rất rõ hình dạng cái lưỡi cát ngầm ở cửa sông Kiều. Ông cẩn thận gấp từng nếp tấm bản đồ, bỏ vào chiếc túi đeo bên mình, đoạn hỏi Cương và toàn thể anh em:

- Gặp trường hợp như T.40, các đồng chí xử trí như thế nào?

Quang nhìn lướt nhanh từng người chiến sĩ ngồi trước mặt. Sau mỗi một trận đánh, Quang lại càng hiểu chiến sĩ hơn. Đối với họ, bao giờ ông cũng tỏ ra kính trọng và đặt tất cả niềm tin của mình.

Một chiến sĩ trả lời:

- Chúng tôi sẽ đánh, vừa đánh vừa tìm cách "cơ động" tàu.

Mọi người gật đầu tán thành.

- Nếu vẫn không "cơ động" được thì sao? - Quang hỏi vặn.

Các chiến sĩ đưa mắt nhìn nhau, rồi nhìn Cương ngồi bên cạnh. Khuôn mặt đầy đặn của Cương vẫn nghiêm trang và rắn lại như một tảng đá. Mọi người hoàn toàn đồng ý với Cương, với câu trả lời của Cương: - Nếu tàu vẫn bị cạn thì cứ đứng vững ở đấy, ngẩng cao đầu lên mà đánh!

Nhìn nét mặt từng người, Quang hiểu hết. Gặp trường hợp ấy, họ lại đánh nhau quyết tử với địch như trong trận ngày 25 vừa qua. Bất cứ một chiếc tàu nào cũng xử trí như vậy. Giá Quang là chiến sĩ hoặc thuyền trưởng, ông cũng làm như vậy. Có thể, chúng sẽ oanh tạc trúng tàu, có thể có thiệt hại và thương vong, nhưng với số hỏa lực có trong tay, họ đủ sức giáng cho địch những đòn mạnh mẽ, cho chúng phải lộn cổ xuống đáy biển!

Quang rút thuốc lá hút, và mời các chiến sĩ cùng hút. Vạt sân đầy khói thuốc, Quang nói tiếp:

- Nhưng diễn biến trận này khác hẳn với trận ngày 25. Các anh em T.40 cũng hạ quyết tâm đánh địch như các đồng chí. Nhưng cục diện đổi khác hẳn, bởi vì chiếc T.40 có thuận lợi là họ gặp địch sau khi đã dựa lưng vào một cái cửa sông, có nhân dân đứng ở đằng sau lưng. Các đồng chí thử đoán xem trước tình hình chiếc tàu của bộ đội như thế, nhân dân đã xử trí như thế nào?

Một chiến sĩ nhanh nhảu trả lời:

- Dân quân địa phương tích cực phối hợp chiến đấu với chúng ta!

Quang đáp:

- Đồng chí nói đúng, nhưng chỉ nói như thế cũng chưa thấy hết tinh thần của nhân dân đâu! Vùng cửa sông Kiều này tôi quen lắm. Chúng ta đang làm thêm một khu vực giấu tàu ở đây. Rồi nay mai các đồng chí cũng sẽ làm quen với nhân dân vùng này.

Quang kể tiếp câu chuyện đang bỏ dở.

Sau khi xảy ra trận đánh, Quang lập tức về làng Kiều và ông lại gặp ông Vàng (Quang thấy không tài nào kể cho chiến sĩ hiểu hết mọi chuyện mà ông đã biết).

... Đêm hôm ấy, cả làng Kiều đang ngủ say. Bên công trường điện cũng đã tắt. Loạt bom đầu tiên trút xuống mé bãi gần cánh rừng phi lao. Từ các xóm trong đồng đến xóm ngoài đồng muối đều thức dậy, chưa ai hiểu việc gì. Ông Vàng đang ngủ, chợt nghe tiếng máy tàu ở ngoài khơi liền nhảy xuống giường. Tay với khẩu súng trường trên đầu giường, ông chạy đến một nhà ở đầu xóm. Tiểu đội dân quân trực chiến ngủ ở đấy.

Ông lay mọi người dậy:

- Các cậu có nghe tiếng gì không?

- Có tiếng tàu... cũng như mọi ngày, xa lắm!

- Không phải tiếng tàu mọi ngày... Tao nghe như có tàu đang chạy vào đây!...

Ông Vàng hạ lệnh cho tiểu đội trực chiến lên đê, và cho nhân dân chuẩn bị đề phòng tàu địch vào gần. Lúc tiểu đội dân quân chiếm lĩnh xong quãng giao thông hào trên sườn đê chạy sang xóm đồng muối thì tàu T.40 đã vào đến cửa sông, ngay trước làng. Chỉ một loáng sau, trung đội dân quân đã ra đủ. Máy bay lại thả bom xuống lòng sông và hai bên bờ. T.40 thả khói hỏa mù che kín bãi. Với kinh nghiệm của một cán bộ đại đội cũ, ông Vàng đứng trên bờ, phán đoán ngay được tình hình. Ông gọi một anh dân quân tới, hai người cởi áo bơi ra ngoài cửa sông, ngay chỗ tàu đỗ.

Ông Vàng leo lên tàu tìm gặp đồng chí thuyền trưởng và tự giới thiệu.

- Tôi là bí thư chi bộ ở trong làng.

Thuyền trưởng T.40 một đồng chí thiếu úy còn trẻ, vội vã nắm bàn tay còn ướt của ông Vàng:

- May quá, chúng tôi đang bàn cách liên lạc với các đồng chí...

Ông Vàng hỏi thẳng vào việc:

- Tôi phán đoán các đồng chí bị lộ rồi đấy. Tàu thì vướng vào bãi cát. Các đồng chí định thế nào?

Thuyền trưởng đáp:

- Chúng tôi vừa hội ý toàn thể tàu. Chúng tôi quyết định sẽ chiến đấu đến cùng - Đề nghị đồng chí về đưa anh em dân quân ra đê, chúng ta "chơi" với chúng nó một trận!

Ông Vàng lắc đầu, không tán thành kế hoạch đó. Ông bàn kỹ với thuyền trưởng và chính trị viên rồi vội vã bơi về.

Mười phút sau, trong làng đã ồn ào, tiếng chân chạy rầm rập. Trong các khu vườn, dọc các dong ngõ, ngoài vườn ươm giữa cánh đồng, tiếng dao đẵn cây chan chát. Hàng chục chiếc thuyền lưới, thuyền câu, bè mảng, đò chở lúa của hợp tác xã và công trường ghé hàng ngang vào chân đê chở cây cối trong làng đưa ra ngụy trang tàu. Chuối, ổi, na, mít, dừa, xoan giồng làm nhà, có những cây còn mang đầy chùm quả, cây cối trong làng đều được ngả xuống, hàng trăm đồng bào nghìn nghịt vác ra đê, chất đầy thuyền. Khi trời sáng hẳn, khói hỏa mù cũng tan hết, hai tốp máy bay địch vẫn lồng lộn trên trời soi tìm mục tiêu. Nhưng chiếc tàu hải quân đã biến mất. Chỗ cái lưỡi cát từ bờ ăn lan ra ngoài cửa sông chỉ thấy một cánh rừng cây um tùm mọc trên một khóm thuyền gỗ và bè mảng đậu xúm xít chung quanh con tàu bộ đội. Bàn tay đồng bào đã góp lại, trồng lên hẳn một cánh rừng xanh um phủ kín cái cồn cát, cánh rừng ngụy trang tàu ăn liền thành một dải với cánh rừng sú...

Câu chuyện của Quang làm cho các chiến sĩ hết sức cảm động.

Quang kết luận:

- Người chiến sĩ quân đội cách mạng chúng ta phải luôn luôn tìm địch mà đánh, luôn luôn tấn công địch bằng cách phát huy hết những điểm mạnh của mình. Các đồng chí ạ, như thế, chúng ta nhất định đánh thắng chúng!

Lời kết luận hình như không ăn khớp với câu chuyện, nhưng nằm trong cái mạch suy nghĩ của Quang từ đầu. Ông hỏi một chiến sĩ:

- Một quân chủng hiện đại và phức tạp như chúng ta có đánh du kích được không?

- Có ạ!

- Vì sao thế?

Tất cả ồ lên đáp rất sung sướng:

- Vì chúng ta có nhân dân ạ!

Quang ngửa cái đầu trọc đã mọc lởm chởm những sợi tóc về phía sau (các chiến sĩ trông thấy có sợi đã bạc). Ông vỗ vào tấm lưng rộng bè của Cương ngồi bên:

- Đúng! Các đồng chí nói rất đúng! Chúng ta có chỗ tựa vững chắc, và cái lưng rất kín. Các đồng chí không phải sốt ruột đòi "về"! Hãy rèn lòng căm thù giặc Mỹ cho thật sắc và chuẩn bị tinh thần thật vững vàng, nhiệm vụ của các đồng chí sắp đến nơi rồi đấy.

Quang đứng dậy lần lượt bắt tay tất cả các chiến sĩ.

Sau khi đi kiểm tra tàu và trao nhiệm vụ sơ bộ cho Cương, Quang ra xe. Qua khung cửa xe, các chiến sĩ trông thấy một khuôn mặt nghiêm nghị và đôi mắt màu khói vút qua. Trên con đường ven biển lộng gió, dòng suy nghĩ của Quang lại được chắp mối lại. Trong đời chỉ huy, ngay từ lúc còn là một tiểu đội trưởng, có bao giờ Quang được đánh nhau với thằng địch trong thế lực lượng cân bằng. Bao giờ cũng một chọi hai, có khi một chọi mười. Ngày nay, các thứ tàu và hạm đội của đế quốc Mỹ có mạnh và hùng hổ đến đâu, có gì đáng cho Quang phải bỡ ngỡ? Nhưng Quang bao giờ cũng nghĩ đến trách nhiệm của mình là một người cán bộ, có nhiệm vụ đưa chiến sĩ vào trận tấn công khi đã cầm chắc phần thắng. "Làm sao với lực lượng nhỏ bé, các phân đội tàu của ta sẽ như đàn cá ép (1)có thể đánh bại một đàn cá mập, và vẫn bảo vệ mình nguyên vẹn?". Đấy là câu hỏi mà Quang đang tự đặt ra cho mình.

Từ hôm về đơn vị, Bân biết chắc chắn mình sẽ không được ở tàu T.730 nữa. Hà sẽ thay thế anh làm quan sát viên. Cùng mấy đồng chí ở ngành cơ điện và hàng hải, anh sẽ được chuyển đi đơn vị khác.

Buổi sớm hôm đó, nghe Cương bảo anh lên gặp đồng chí trưởng ban quân lực, anh đã đoán ra hết mọi việc.

Đồng chí đại úy làm công việc điều động có vẻ mặt phúc hậu, tóc đã hoa râm, ăn mặc luộm thuộm, kéo ghế mời Bân ngồi:

- Đồng chí ngồi xuống đây. Lâu nay, tôi xem báo thấy có đăng ảnh đồng chí. Té ra đồng chí còn trẻ hơn trong ảnh nhiều!

Bân có cảm tình ngay với con người ấy nhưng chẳng có cảm tình chút nào đối với công việc của ông. Anh ngồi xuống ghế và đợi.

Ông ta hút thuốc lào và không quên mời Bân hút, rồi rót nước đưa tận tay anh. Hỏi chuyện gia đình, chuyện đánh nhau chán chê, ông mới rút trong tập hồ sơ đặt trước bàn ra một mảnh giấy bằng bàn tay và mỏng teo. "Thế là cái sự phỏng đoán từ lâu đã thành sự thật!"

- Bân thoáng nghĩ một cách thất vọng.

- Tôi mời đồng chí lên để... trao quyết định đề bạt cho đồng chí - Ông trao tờ giấy quyết định do thủ trưởng khu tuần phòng ký đề bạt Bân lên chức tiểu đội trưởng thông tin.

Bân đỏ mặt, chưa kịp mừng đã nghe ông ta nói tiếp:

- Sau đây, đồng chí có thể nghỉ phép tranh thủ về nhà mấy hôm, rồi đến gặp tôi để nhận lệnh thuyên chuyển.

Bân đã chuẩn bị từ trước, liền hỏi:

- Báo cáo, tôi muốn đề đạt nguyện vọng, có được không?

- Đồng chí cứ nói.

- Tôi muốn ở lại T.730 - Bân nói với một vẻ cương quyết, mong đồng chí trưởng ban quân lực thay đổi ý kiến.

- Không được đâu đồng chí ạ, thủ trưởng khu đã ký quyết định rồi - Ông vừa nói vừa chìa ra một bản danh sách điều động chiến sĩ và hạ sĩ quan dài hai trang giấy khổ lớn.

Bân biết là mọi việc đã xong: Anh sẽ xa T.730, xa tất cả các đồng chí, xa một cái gì rất thiêng liêng mà anh không thể nào giải thích được. Bân chỉ đề nghị được ở lại tàu thêm một thời gian ngắn nữa: Anh biết tàu của mình sắp đi làm nhiệm vụ.

Đồng chí đại úy quân lực hỏi:

- Vậy đồng chí không định về phép ư?

- Thôi, đồng chí ạ!

Đồng chí đại úy nắm chặt bàn tay Bân. Khi tiễn Bân ra đến cửa, đồng chí thú thực:

- Phải đưa đồng chí đi đơn vị khác ở ngoài khu, tôi rất tiếc. Đồng chí Quang, thủ trưởng khu cũng rất tiếc. Hình như đồng chí Quang cũng muốn gặp đồng chí để nói chuyện, trước khi đồng chí đi.

Ban biết là việc thuyên chuyển của mình đã được quyết định, không nên đề nghị gì thêm nữa. Anh chỉ nhắc lại đề nghị cuối cùng, xin được ở nán lại một thời gian để dự trận chiến đấu sắp tới.

Sau ngày Quang đến thăm vài hôm, tàu T.730 hoàn thành công việc sửa chữa và chuẩn bị xuống đà.

Trên bến tàu, sau mấy ngày rét cóng, bỗng bừng lên những tia nắng hanh. Cây si già đổ một vạt bóng râm xuống mảnh sân chất ngổn ngang từng hàng thủy lôi và thùng hỏa mù sơn đen. Các chiến sĩ làm việc tất tả, nhưng ai nấy đều vui sướng, vì sắp được bước vào một đợt chiến đấu mới. Từ thuyền trưởng đến thủy thủ bắt đầu theo dõi tình hình địch một cách chăm chú. Từ các đài quan sát, cứ nửa giờ một lại điện về những hoạt động của tàu địch. Những chiếc tàu lởn vởn trên đường ranh giới hải phận, xuất hiện rồi lại biến mất như những cái bóng ma trên mặt biển. Các chiến sĩ hàng ngày để một con mắt nhìn ra khơi, kiên nhẫn và lặng lẽ làm công việc chuẩn bị chiến đấu.

Một buổi chiều, tàu T.730 xuống đà.

Trên bãi, bộ đội, công nhân đã đứng chật. Nắng chiều mùa đông hắt qua vòm trời, từ khu đồi tăng gia phía sau lưng quân cảng chiếu thẳng ra biển. Dãy núi đá lô nhô đủ mọi hình khối trước mặt bỗng sáng rực lên như được thếp vàng. Nắng chiếu lấp lánh trên thân tàu đồ sộ phủ sơn mới màu xám.

Mọi người nín lặng chờ đợi phút con tàu xuống nước.

Thuyền trưởng Cương, vẻ mặt trịnh trọng, đứng bên cạnh đồng chí chỉ huy công trường. Con tàu đã được tháo tất cả các khóa hãm. Đít tàu từ từ trượt trên dãy bánh xe giữa hai thanh sắt cao của bến đà. Hàng loạt tiếng reo vang ầm trên bến. Chiếc tàu đồ sộ, uy nghi đang chạy chầm chậm, bỗng lao đi như một mũi tên. Những đợt sóng hối hả từ ngoài khơi chạy vào lập tức rẽ ra, tuôn bọt trắng xóa. Biển mở lòng ra đón lấy con tàu, âu yếm và vồn vã như đón một đứa con đi xa trở về.

Tiếng máy tàu nổ vang rền. Đứng trên đài chỉ huy, bên cạnh thuyền trưởng Cương, Bân từ từ kéo lá quốc kỳ lên cột. Lá cờ trải qua khói lửa, qua mưa nắng và gió bão, đã ngả màu bạc lại bắt gió biển bay phần phật như vẫy chào các thủy thủ. Các chiến sĩ trên tàu, các công nhân và mọi người trên bến đều đứng nghiêm ngước mắt nhìn lá cờ. Bân nhận phiên "trực canh" đầu tiên. Anh khoác chiếc ống nhòm "vọng hải" trước ngực, leo từng bậc thang lên đài quan sát. Trước tầng gác ngôi nhà cao nhất của quân cảng, một đồng chí thông tin hàng hải múa tít hai lá cờ hiệu chào T.730 vừa xuống nước. Bân đánh cờ hiệu đáp lại lời chào của bến rồi đưa ống nhòm nhìn ra xa.

Ngoài xa, ánh nắng chưa chịu rớt hẳn, còn đọng trên dãy núi đá dần dần trở màu tím, và bóng hoàng hôn dịu dàng, xanh mướt bắt đầu trùm lên mặt biển đang phập phồng như khuôn ngực một người mẹ...

Chú thích:

(1) Cá ép: một giống cá biển, mình dẹt, rất bé, thường ép bên sườn cá mập làm cho cá mập thối thịt.