Chương 17
Bân đã được trên đồng ý cho ở lại dự trận chiến đấu trước khi rời đơn vị.
Sau ngày tàu xuống đà, anh nhận được lá thư thứ hai của Lân. Trong quãng thời gian gần ba tháng, Lân mới gửi cho anh một lá thư rất ngắn,vừa vặn nửa trang giấy. Đặc biệt lá thư thứ hai, Lân viết rất dài.
Anh Bân thân mến,
...
Vừa qua, em đã biên thư cho thầy trên huyện, nhưng em quyết định chưa báo cho dì em và cho cả nhà biết. Nhưng hiện nay, đồng chí thủ trưởng đơn vị đã cho phép anh em biên thư về nhà. Em đã biên thư cho dì. Đôi lúc em tự kiểm điểm cách đối xử của mình với dì hồi ở nhà, em rất ân hận...
Như thế, trước mặt chúng em đã là một cánh rừng mới, rừng núi dốc đứng! Em viết thư này cho anh trong lán của tiểu đội. Chúng em sẽ còn hành quân miết trong rừng hàng mấy tháng nữa. Chắc anh không thể nào hiểu được hết những gian khổ và những thú vui đặc biệt của cánh lính bộ binh chúng em đâu. Một chiếc ba lô, một bao gạo, một chiếc võng dù và một khẩu súng trường trên vai - mỗi đứa chúng em chỉ cần có thế. Với một cặp giò đã luyện rắn, chúng em sẽ lội suối leo đèo, chúng em sẽ đi đến bất cứ nơi nào Đảng gọi đến.
Anh Bân, chúng em sẽ còn đi xa lắm... Hiện nay, thằng Mỹ đang giày xéo lên nửa đất nước ta, có mảnh đất nào của Tổ quốc mà người chiến sĩ không có nhiệm vụ phải đi tới? - Đấy là câu đồng chí chính ủy trung đoàn thường nói với chúng em.
Em biên thư này cho anh giữa lúc đang ăn Tết. Chúng em ăn Tết trước một tháng, vui lắm! Có cả bánh chưng và thuốc lá. Không có hoa đào và cây nêu như ở nhà ta, nhưng hoa mai và hoa lau thì rất nhiều, cả một rừng, cả một thung lũng!...
Hồi này em béo và đen lắm. Tiếc rằng trước khi đi, em không kịp chụp ảnh gửi cho anh làm kỷ niệm. Các anh chỉ huy đại đội mến em lắm, các anh ấy vẫn gọi em là thằng Lân "ngỗng", còn các cậu trong tiểu đội lại đặt biệt hiệu em là thằng "voi thồ". Trong tiểu đội ai cần mang giúp là em "thồ" được hết! Em có thừa sức mang bốn chục cân đi suốt đêm!
Đồng chí chính ủy trung đoàn bảo rằng hành quân kết quả là thắng lợi một nửa, nhưng chúng em đã thấy sốt ruột lắm rồi. Bao giờ chúng em mới đi tới đích, bao giờ mới được nổ súng vào đầu giặc?
Anh Bân thân mến,
Hẹn đến ngày anh em ta lại gặp nhau. Ngày ấy nhất định miền Nam nước ta đã hoàn toàn giải phóng.
Anh đừng biên thư cho em nữa vì chúng em đang ở trên đường hành quân.
Em
LÂN
Vào một buổi tối, từ đài quan sát, khu trưởng Quang lệnh cho tàu T.730 nhổ neo ra vùng biển tập kết. So với ngày thường, quân số trên tàu tăng lên gấp bội. Các đồng chí bị thương đã lần lượt trở về hết. T.730 là kỳ hạm, cho nên thủ trưởng và chính trị viên phân đội, cán bộ chuyên môn các ngành hàng hải và thông tin đều có mặt trên tàu.
Tàu xẻ sóng lao vào trong đêm. Hàng đèn điện nhỏ li ti của thị trấn cảng giăng thành một chuỗi dài rồi chụm lại và khuất hẳn. Trước mũi tàu là màn đêm tối đen dựng thẳng lên như bức thành. Bân đứng phía sau Hà, trên nấc thang cuối cùng lên đài quan sát. Đêm biển vẫn yên tĩnh. Trước mặt, một hòn đảo toàn núi đá hình răng cưa lô nhô in giữa nền trời. Sóng đánh vào bờ như giận dữ, từng khối nước bắn tung sáng lấp lánh. Thuyền trưởng Cương cho tàu nép vào một vòm núi đầy cây cối. Trên dốc núi cao có tiếng khỉ kêu. Bân lắng tai nghe những tiếng động ngoài xa: vẫn chỉ có tiếng sóng đục, ầm ì, vợi đi trong khoảnh khắc rồi lại trào lên: Biển vẫn yên tĩnh.
Quá nửa đêm, tàu vẫn chưa nhận được lệnh mới, và lát sau có lệnh hạ mức báo động xuống cấp hai. T.730 đậu kề mạn một chiếc tàu khác, của phân đội bạn mới được phái sang phối hợp. Thuyền trưởng Cương lệnh cho mỗi khẩu đội để nửa số pháo thủ trực chiến, còn một nửa đi nghỉ. Riêng các đồng chí báo vụ và ra đa vẫn phải mở máy làm việc. Cả hai tàu thả trôi, không buông neo.
Bân sờ tay lên vai Hà. Sương đã thấm ướt hai bên vai và cánh tay áo Hà. Bân bảo Hà đi nghỉ. Anh đứng một mình trên đài quan sát. Phía biển Đông - hướng quan sát chính - vẫn một màu tối đen thẫm, thỉnh thoảng một đợt sóng nhô lên, tiếng sóng ồ ồ, đứt quãng. Bân lắng tai nghe, cảm thấy giữa tiếng sóng biển triền miên hình như lúc nào cũng ẩn náu một âm thanh gì đó. Anh lắng tai thật kỹ, tiếng sóng vẫn đục. Biển có lúc như ngừng thở, nghe ngóng. Bân cũng ngừng thở. Rồi bỗng chốc tiếng sóng lại trào lên. Nghe tiếng sóng vẫn đục, vẫn không hề chen một âm thanh nào lạ, anh lại thở đều, và bắt đầu đưa ống nhòm rà trên những lớp sóng.
Sóng vẫn đánh rào rào trên vách đá. Đã nghe một tiếng gà gáy trên đảo. Lại một tiếng gà thứ hai đáp lại. Có lẽ đã quá canh hai. Một bóng người trèo lên, gọi khẽ:
- Anh Bân!
- Hà đấy ư?
- Anh xuống chợp mắt một tí, em gác cho!
Bân giao nhiệm vụ quan sát cho Hà. Tiếng gà lác đác báo hiệu trời sắp sáng.
Bân dặn:
- Cậu phải hết sức chú ý theo dõi, chúng thường lợi dụng lúc trời sắp sáng để lẻn vào bắn pháo lên bờ đấy!
Điều Bân dự đoán đến ngay trong phút chốc. Anh vừa xuống được vài nấc thang thì bỗng nghe tiếng máy tàu rền rền. Thuyền trưởng Cương đang nhận lệnh của khu trưởng Quang, người trực tiếp chỉ huy trận đánh sắp tới. Từ một đài quan sát trên sườn đảo phía Đông, Quang chỉ thị cho các phân đội tàu ở các vị trí phục kích chuẩn bị "tiếp xúc" địch. Riêng T.730, Quang hạ lệnh vẫn nằm yên tại chỗ.
Trên đài quan sát, Hà trao ống nhòm cho Bân, anh đứng bên cạnh giúp Bân phát hiện mục tiêu.
Phía trước mặt, chếch về bên trái, góc trời bỗng nhiên sáng rực lên những tia chớp chằng chịt. Khoảng một giây sau mới nghe vọng lại một loạt tiếng nổ. Mặt biển chẳng khác gì người đang ngủ say bỗng choàng thức giấc.
- Cha nó, nó đã "cắn trộm" lên bờ đó! - Bân thốt lên chửi, và nghe ngóng ước lượng khoảng cách giữa tàu mình và tàu địch, nơi có những tia chớp lóe lên ở đầu nòng súng.
Chúng bắn liền trong một phút, không hề ngừng.
Tia sáng đỏ lừ tuôn ra từng cụm. Sau hàng loạt tiếng nổ, từ phía đất liền lại dội lên hàng loạt tiếng nổ khác, nhỏ và rền hơn. Một vệt sáng dài lan dần phía chân trời như một lớp bụi. Vệt sáng cũ chưa kịp tắt, đã nhóm lên những vệt khác, chân trời sau lưng cứ hừng lên.
Tiếng sóng trầm hẳn xuống. Lại nghe tiếng gà gáy thảng thốt. Tiếng gà gáy trên biển! Giữa lúc các cỡ pháo của địch bắn dồn dập vào bờ, tiếng gà cứ điểm vào, nghe xa và mơ hồ như từ đất liền vọng ra. Trong đôi mắt của Bân và của các thủy thủ, không bao giờ tắt cái vệt sáng nhấp nháy. Cổ họ uất nghẹn. Hình ảnh những làng mạc, nhà cửa vụt hiện ra. Tất cả đang bốc cháy! Những vệt lửa xa hình như phả sức nóng vào tận gan ruột họ và đốt cháy lòng mọi người. Tự nhiên Bân chợt nhớ đôi mắt cháu bé con đồng chí trưởng cung giao thông. Đôi mắt ngây thơ như đang mở to, ngước lên nhìn anh.
Vừa ngừng mấy giây, chúng lại tiếp tục bắn, càng dữ dội hơn. Lần này, Bân đã trông thấy rõ hai cụm chớp. Chúng nó đi có một cặp!
Phút chờ đợi đã đến.
Từ chỉ huy sở trên vách đá, Quang hạ lệnh cho T.730 và chiếc tàu của đơn vị bạn xuất kích, đường đi và tốc độ do Quang chỉ thị trực tiếp cho hai đồng chí thuyền trưởng.
T.730 vừa nhô ra khỏi bóng núi thì cuộc chiến đấu bắt đầu. Đạn pháo và đạn của tất cả các cỡ súng liên thanh từ các mục tiêu bí mật ẩn kín giữa biển bất ngờ nổ như sấm sét. Từng khối lửa như từ dưới đáy biển bay vọt lên, rót thẳng vào hai chiếc tàu địch trắng toát. Hai chiếc tàu chỉ kịp bắn trả lại được vài loạt rồi luống cuống quay đầu chạy. Nhưng trận địa phục kích đã giăng sẵn. Trên mặt biển sáng rực, hiện ra một cặp tàu của ta, bé hơn, và hàng chục chiếc thuyền buồm cỡ lớn đang di động. Một chiếc tàu địch bốc cháy, chiếc thứ hai rú máy hoảng hốt chạy rẽ về hướng khác.
T.730 và chiếc tàu bạn đến phối hợp xẻ sóng chạy theo hướng đông, luồng sóng để lại phía sau thẳng căng. Tàu địch đang chạy, bỗng phát hiện thấy hai bên mạn đều có tàu và thuyền của ta liền nổ súng bắn vung vãi. Qua máy vô tuyến điện, Quang chỉ thị cho Cương: "T.730 không được để cho địch chạy thoát!". T.730 đã vòng lên khóa đầu. Cương lệnh cho đồng chí lái, lái thẳng vào giữa mũi tàu địch. Trước mặt Bân, khẩu pháo của "vị trí Một" đang hạ thấp tầm ngắm. Trong một thoáng Bân trông thấy cả khẩu đội của Ái xúm xít quanh cỗ pháo. Đồng chí khẩu đội trưởng mới giơ cao lá cờ đỏ chờ lệnh Cương. Lá cờ phất lên. Từ trên cao Bân thét to: "Vị trí Một, bắn trúng tàu địch trả thù cho đồng chí Ái!" Tiếng thét của Bân bị chìm trong một tiếng nổ rất lớn làm rung chuyển đài quan sát.
Cùng một lúc, tất cả các cỡ pháo của ta đều gầm lên. Trong gần một phút không hề dứt, tiếng nổ cứ như giã gạo. Cả một góc biển sáng trưng. Cương ra lệnh vừa bắn vừa tiến sát địch. Trung liên cũng phát hỏa. Chiếc tàu địch hoàn toàn tê liệt, không còn cách đối phó. Đã nghe tiếng lính trên tàu la hét. Chúng chạy nhốn nháo trên boong và trên các tầng. Trông rõ một vệt lửa liếm vào khoang sau. Lửa lan rất nhanh. Bỗng nhiên, từ giữa khoang máy, một ngọn lửa xanh lét phụt lên cao đến hai thước và một tiếng nổ rất lớn trùm lên tất cả các thứ tiếng súng. Trong phút chốc chiếc tàu địch biến mất, trước mặt mọi người chỉ còn một đám lửa đỏ như máu, lẫn với khói đen, tận dưới đáy biển bốc lên trời ngùn ngụt...
Trận đánh kết thúc hoàn toàn thắng lợi.
Trời đã tang tảng sáng. Một mảng ánh sáng màu hồng hồng ngoài khơi phía đông lan rộng dần. Trên đầu những cuộn sóng nhấp nhô xung quanh tàu T.730, trông thấy rõ những vết dầu, rải rác vài mẩu gỗ, một chiếc mũ vải xám trôi lềnh bềnh.
Bân đưa ống nhòm nhìn ra xa. Đã có thể phân biệt vệt nước xanh lờ mờ như khói ngoài chân trời, tất cả dường như đang còn ngái ngủ. Các phân đội tàu và thuyền của nhân dân tham gia chiến đấu đã rút lui khỏi trận địa từ lâu. Các phân đội tàu của bộ đội ở hướng chính cũng đã rút về căn cứ.
Trời sắp sáng hẳn. Mặt biển im phăng phắc.
Hai chiếc tàu ở lại sau cùng cũng nhận được lệnh của Quang nhanh chóng rút khỏi trận địa.
Cương ra lệnh cho các pháo thủ tăng cường quan sát và chuẩn bị sẵn sàng đánh máy bay. Các chiến sĩ đang say sưa ôm lấy nhau, bắt tay nhau và reo ầm ĩ. Trong niềm vui thắng trận, mọi người vẫn nghiêm chỉnh chấp hành lệnh thuyền trưởng. Chính các chiến sĩ cũng nhận thấy ngay phải làm gì sau khi trời đã sáng.
Bân chỉ cái vệt nước ngăn đôi chân trời và mặt biển còn lờ mờ, nhanh chóng chia "xạ giới" giữa mình và Hà. Bân tin chắc vào quy luật hoạt động của địch. Chúng đã tính toán rất kỹ, thường hoạt động vào tầm bốn năm giờ sáng. Chúng lẻn vào bắn phá một lúc, nếu gặp tàu hải quân của ta là lập tức tháo chạy và báo cho máy bay từ ngoài hạm đội cất cánh. Khi ấy, trời vừa sáng, tàu của ta sẽ là mục tiêu oanh tạc của chúng.
Bân dặn Hà:
- Cậu nhớ các khu vực, và nhìn cho tinh nhé!
Hà gật đầu, tỏ ý đã hiểu: Đường về khu neo, địa điểm tập kết còn rất xa, nhất định buổi sáng hôm nay sẽ gặp máy bay địch trên biển. T.730 và chiếc tàu của đơn vị bạn chạy song song, hơi chếch, theo đội hình "đối không". Hai chiếc đang đi thẳng hướng Bắc bỗng nhận được mệnh lệnh của Quang cho rẽ về phía Tây, thẳng hướng bờ biển. Thuyền trưởng Cương vẫn đều đặn nhận lệnh của đài chỉ huy. Anh lập tức cho tàu đi theo hướng mới do khu trưởng Quang trực tiếp ra lệnh trong máy nói.
Bân quan sát từng ngọn sóng ngoài xa, và lắng tai thật kỹ để nghe ngóng. Nền trời biển Đông sáng dần, những tia mặt trời hình rẻ quạt như ngọn chổi lớn xua dạt đám mù trên biển. Tiếng sóng dội lên ầm ì làm xôn xao cả khoảng chân trời nhuộm đỏ. Hai chiếc tàu vẫn chạy với tốc lực bốn máy, đám bọt sóng kéo thành một đường thẳng và trắng xóa.
Sau vài chục phút, dải đất liền trước mặt hiện ra. Bân nghe các pháo thủ bàn tán ở phía dưới. Mọi người vẫn chưa nhận ra cái dải đất còn bọc kín trong màn sương buổi mai, đang tiến dần lại trước mũi tàu là thuộc vùng biển nào? Họ như bị lạc vào giữa đám mù. Hà cúi xuống đài chỉ huy hỏi thuyền trưởng.
Cương không đáp. Hà hỏi Bân:
- Đồng chí có thuộc vùng này không?
Dải đất càng tiến lại gần: Một vệt đất, một chỏm cây xanh hiện ra lờ mờ. Bân lấy làm ngạc nhiên. Từ trên đài quan sát, qua ống nhòm, Bân đã trông thấy cái bờ cát xanh thẫm và một ngọn núi ở xa "Chẳng lẽ làng mình ư?" - Bân giật mình tự hỏi. Anh nhận ra tất cả phong cảnh hình như rất quen thuộc, ngờ ngợ của làng mình. Anh lại đưa ống nhòm lên nhìn: cánh rừng sú nằm dài ven bãi, một vùng nước lấp lánh màu kẽm với khóm thuyền mảng đậu xúm xít, và bên này đê, cái chỏm cây đa nhô lên trên rặng phi lao. "Thôi, đúng rồi!"
Anh báo cáo với Cương, không nén được vui mừng:
- Đây là cửa sông Kiều - làng tôi đấy, đồng chí ạ!
Một lần nữa Cương hỏi đồng chí quân sĩ trưởng hàng hải (1)đang cặm cụi tính toán. Người quân sĩ hàng hải cũng vừa xác định được trên bản đồ một cách chắc chắn, tàu đang tiến vào cửa sông Kiều.
Tàu chỉ cách bờ một hải lý, rồi nửa hải lý. Các chiến sĩ đều xôn xao, ai cũng mong muốn được ghé vào cái cửa sông thuộc làng Bân. Họ vẫn còn nhớ câu chuyện của khu trưởng Quang. Mấy đồng chí pháo thủ ngước lên gọi Bân, và chia sẻ nỗi mừng vui với anh.
Mái trường cấp hai và đoạn bờ đê đã hiện ra, có thể trông thấy cả cái lưỡi cát như lưng một con trâu bạc nằm ngâm mình dưới nước. Hai tay tì vào thanh sắt, chiếc ống nhòm "vọng hải" treo trước ngực, Bân đứng lặng yên trên đài quan sát và cứ nhận ra dần, mỗi lúc một ít, những nét rất quen thuộc của làng xóm. Mối tình yêu quê hương đến nghẹn ngào, có lẽ chỉ trong hoàn cảnh của anh mới cảm thấy hết, cứ bóp thắt trái tim anh từng hồi. Anh đã trông rõ, bằng mắt thường cây đa giữa cánh đồng nhô lên khỏi những rặng tre thưa còi cọc của xóm đồng muối, những lũy tre um tùm ôm lấy các xóm trong đồng. Tự nhiên, Bân chợt nhớ đến Lân, nhớ những buổi trưa mùa hè, cái lưỡi cát sáng chói trong nắng, hai anh em rủ nhau bơi ra giữa sông, lấy bùn đắp lên mình, đến khi nước thủy triều lên, nghe tiếng ồ ồ ở ngoài khơi mới vội vã bơi vào bờ. Đứa em ấy, bây giờ cũng đang cầm súng và đã đi xa. Còn anh thì đang trở về làng!
Máy báo thoại của tàu bắt liên lạc được với một luồng sóng mới, nghe tiếng nói ríu rít, rất rõ "Chào cá ép! Chào cá ép! Chú ý con bò húc, chú ý con bò húc!" Thuyền trưởng Cương phổ biến cho anh em biết máy bay địch đã xuất kích. Nhưng tàu đã vào trước cửa sông Kiều, đang kéo một hồi còi chào đất liền, chào cửa sông!
Bân đề nghị cho giảm tốc độ. Anh nhảy xuống đài chỉ huy, đứng bên cạnh đồng chí lái và hướng dẫn cho tàu chạy né qua để tránh lưỡi cát. Đã nghe rõ tiếng máy bay địch kêu ran ngoài biển. Tàu từ từ đi vào luồng sông Kiều. Máy báo thoại vẫn giữ liên lạc với luồng sóng mới, tiếng nói càng rõ, y như ở ngay bên những gốc cây sú nào đó: "Chào cá ép! Chào cá ép! Rẽ hướng trái, rẽ hướng trái!"
Bên bờ sông phía làng Kiều, đồng bào đổ ra đứng đầy trên bờ đê, đang vẫy tay chào tàu. Các thủy thủ vẫy tay đáp lại. Đêm qua, đồng bào thức suốt đêm nghe tiếng súng ngoài khơi, bây giờ thấy tàu của ta trở về, thế là đủ để xác nhận ta đã chiến thắng.
Hai chiếc tàu chiến bỏ luồng sông Kiều, nối đuôi nhau rẽ vào cửa sông Đào. Từ thuyền trưởng Cương đến các thủy thủ đều ngơ ngác nhìn cánh rừng sú: Những túp lều dân công ghép bằng cành cây nằm rải rác khắp nơi. Những mái nhà lấp ló trong chân núi. Bóng điện sáng trong rừng. Tiếng đập đá, tiếng mìn nổ ở xa. Tàu chạy đến đâu, từ những túp lều, đồng bào dân công chạy ùa ra đến đó. Họ vỗ tay, họ nhảy lên:
- Chào các đồng chí mới về!
- Chào bà con!
- Thắng chứ? Các đồng chí?
- Thắng rồi!
- Hoan hô hải quân ta!...
Từ lúc tàu rẽ vào luồng sông Đào, Bân đứng lặng đi. Anh nhìn ngơ ngác, tưởng như mình đang nằm mơ, như đang lạc vào một thế giới hết sức quen thuộc mà cũng hết sức xa lạ. Anh ngắm từng hòn đất, từng gốc sú, và đám bọt sóng trắng xóa tõe ra như một đường cày đầu tiên rạch trên mặt sông Đào. Có phải đây là cánh rừng sú của anh thời bé, mà bao nhiêu lần anh và Lân đã chèo thuyền qua để chặt củi sú, hay đi bẫy cá nác? Có phải đây là khu rừng căn cứ của các đồng chí du kích hồi kháng chiến với bao nhiêu chuyện kỳ lạ, đầy bí ẩn?
Cánh rừng sú không còn vắng vẻ như trước, nhưng vẫn đầy bí ẩn với lớp lá rất dày, đan khít, làm thành cái mái khổng lồ che kín con sông Đào. Những cây sú già, lớp vỏ ngoài đen sạm và con nước sa mùa qua còn để lại ngấn bùn khô trắng vẫn đứng vững chãi hai bên bờ sông.
Nước dưới đuôi tàu xoáy lên. Bân chợt trông thấy một cánh chim le le bay vút qua đầu mình.Tàu đã vào đến khu rừng căn cứ. Con tàu vừa tung hoành giữa biển đã trở về nằm yên tĩnh, nép mình bên bờ con sông mới đào; lưng tàu tựa vào dốc bờ sông có những dấu bàn chân in chi chít trên lớp đất còn ướt.
Chú thích:
(1) Đồng chí chỉ huy bộ phận hàng hải ở dưới tàu, giúp thuyền trưởng nghiên cứu tình hình biển.