Chương 18
Một buổi sáng, Bân khoác ba lô về làng.
Anh được phép về thăm nhà trong mấy ngày tàu nán lại ở "căn cứ dã chiến".
Từ trong chân núi, Bân đi băng qua khu rừng ra bờ sông. Buổi sáng mùa đông, ánh sáng trong rừng còn lờ mờ. Những hàng cây nối tiếp nhau chạy dài. Cuối chân núi, một vài mái nhà lợp rạ, tường trét đất mới dựng, bên trong vang ra tiếng máy chạy đều đều, và ánh điện sáng hắt qua hàng khuôn cửa sổ tò vò. Bân đi qua một dãy lán dân công. Một nhóm đàn ông vừa thức dậy đang lục đống xẻng và xà beng dựng trước cửa, chuẩn bị đi làm. Sau ngày mở cửa sông, các đội dân công lại chuyển vào làm trong núi. Công việc hồi này tuy không phải làm ồ ạt, gấp rút như trước nhưng lại nặng hơn, phải mở một con đường xuyên núi cho tàu vào trú. Mấy ngày hôm nay, sáng nào cũng có tàu vào, đêm nào cũng có tàu từ đây kéo neo ra đi. Bân ngắm phong cảnh khu rừng đã đổi khác. "Từ nay, cửa sông Kiều không phải là quê hương riêng của mình nữa, mà đã trở thành một căn cứ tàu mới xây dựng, được ghi bằng mực đỏ lên tấm bản đồ hải phận của phòng tham mưu quân chủng". Bân thoáng nghĩ như thế một cách vui vẻ và đầy tự hào.
Ngoài cửa sông Đào, màu nước xám như kẽm, nước vẫn chảy xiết. Gió lạnh thổi vào khóm cây ven rừng làm bật lên những tiếng kêu lào xào. Quanh một gốc sú mọc lấn xuống mép nước, thân cây trụi hết vỏ và trơ mấy cái cành khẳng khiu, buộc xúm xít mấy chiếc thuyền gỗ. Trên chiếc thuyền neo sát bờ, chất một đống quần áo ướt. Một nhóm đàn bà ngồi trên mũi chiếc thuyền đậu ngoài cùng, đang giặt quần áo, khỏa nước rửa mặt. Nghe tiếng cười phá lên và những tiếng nói chuyện rất to, chẳng khác người cãi nhau, Bân nhận ngay ra người làng mình. Anh khoác ba lô đi từ phía xa nên chỉ nhận ra trong nhóm đàn bà cái bóng cô Tốt đang cúi xuống rửa mặt.
Tốt vừa ngửng lên, liền réo ầm khúc sông:
- Có người đấy!
Bân chẳng hiểu có việc gì mà Tốt la lối ầm lên thế. Anh đặt ba lô lên gốc cây, cầm khăn xuống bờ sông rửa mặt.
Qua làn sương buổi sớm, bờ đê và lũy tre bên làng trông mờ mờ. Sương bay quẩn, trắng đục ở các quãng bờ đê ngoặt. Từ trong một khóm sú rậm rạp chỉ cách Bân mươi bước chân, một đàn chim le le gần mươi con, con nào con nấy béo múp míp vỗ cánh bay vù ra, tiếng cánh đập trên mặt nước rào rào như ai bốc đá quăng xuống. Bân xuống gần đến mép nước, bỗng đứng dừng lại. Từ trong khóm sú rậm mà đàn chim vừa bay ra, một người con gái với hai dải tóc còn ướt quấn ra sau gáy, tay xách chiếc túi lưới đựng quần áo, dáng đi hết sức vội vã, bước ra và đi thẳng một mạch về phía khóm thuyền đậu.
Bân nhận ngay được dáng đi của cô giáo của mình ở bên làng. Anh vắt chiếc khăn lên vai, hấp tấp gọi:
- Cô Thùy!
Đêm qua, Thùy lại sang công trường, vào tận trong khe núi đá làm suốt đêm; mờ sáng, trở ra, quần áo đã lấm bẩn hết. Cô đang tắm và giặt giũ thì nghe Tốt "đánh tiếng" có người lạ. Cô nép vào khóm sú, vội vã thay quần áo rồi đi ra.
Nghe tiếng người gọi, Thùy quay lại, trông thấy một anh bộ đội đang đi tới. Cô cau mày suy nghĩ: "Quái, sao anh ta lại biết mà gọi đúng tên mình?".
Khi Bân đi đến gần, Thùy mới nhận ra.
- Chao ôi! Anh Bân - Thùy không sao kìm được ngạc nhiên và vui mừng, kêu to. Rồi tự nhiên, hai gò má nóng bừng, Thùy cứ luống cuống. Tuy đứng trước mặt Bân, người học trò cũ, cô cũng đỏ bừng mặt - sự thẹn thùng của người con gái nghĩ mình vừa tắm dưới sông lên. Sau khi cất gói quần áo ướt bọc trong chiếc túi lưới vào tận góc đò, Thùy cố lấy vẻ thật tự nhiên bắt tay Bân:
- Anh mới về đấy ư? Sao anh về lối này?
Bân áp bàn tay thật mảnh dẻ và lạnh buốt của cô giáo trong bàn tay to, đầy hơi ấm của mình, rồi chỉ ra phía cửa sông:
- Tôi về theo tàu cô ạ.
Tốt đứng sau reo lên:
- Phải rồi, anh Bân đi đánh nhau về chứ gì?
Bân chào cô Tốt và những người đàn bà trong làng. Mọi người đều nhảy lên bờ làm cho mấy chiếc đò chao nghiêng. Ai nấy đều muốn hỏi thăm một vài câu:
- Trông anh khỏe nhỉ, mà trẻ ra!
- Ôi chao, lớn gấp hai ở nhà đấy nhé!
Trong khi mải nói chuyện với những người làng, Bân vẫn đưa mắt chăm chú ngắm cô giáo, anh chợt nhớ đến hai ba lá thư mà Thùy đã gửi cho mình. Anh hơi ngạc nhiên nhận thấy cô hình như bé lại, và lần đầu tiên anh nhận ra cái vẻ đẹp dịu dàng của cô, đôi mắt đen trong suốt và bộ tóc rất dày, ướt, quấn thành những vòng tròn sau gáy.
Bân nhận xét:
- Cô ạ, trông cô hồi này gầy hơn trước.
Thùy cười, nụ cười vẫn nghiêm nghị y hệt như lúc cô giảng bài trong lớp:
- Tôi hơi gầy nhưng dạo này rất khỏe, chẳng ốm đau gì cả.
- Trường ta thế nào ạ?
- Vẫn học đều đặn, chỉ khác trước là bây giờ học ban đêm.
Trong khi hai người nói chuyện thì Tốt đã trèo lên đò. Cô lúi húi cột dây chèo, thỉnh thoảng liếc nhìn lên bờ. Rồi Tốt kêu lớn:
- Anh Bân và chị Thùy có về luôn thể chuyến sang không?
Mọi người cùng giục:
- Anh sang luôn đi, đò của hợp tác xã làng ta phục vụ công trường đấy!
Không biết Tốt làm thế nào, chiếc đò cứ chùng chiềng như thể người say rượu, nước bắn tung tóe, Bân trông thấy thế liền bảo:
- Cô để tôi chèo cho!
Tốt cười khanh khách, tinh nghịch:
- Xem anh còn nhớ bến mà sang không nào?
Tiếng cười của Tốt cứ ngân mãi giữa không khí lạnh, tiếng cười to và khỏe phả một làn hơi ấm sau gáy Bân. Anh đứng choãi chân trên tấm ván sạp, xang mái chèo nhịp nhàng, không một giọt nước bắn lên đò. Bân cho đò ngược lên ngang cánh bãi "Tàu đắm" rồi buông xuống, cạy lái cho con đò từ từ trôi hướng thẳng về phía bến trường học.
Khi ra đến quá nửa sông, đò đã xuôi xuống, Bân trao mái chèo cho Tốt và anh cúi xuống vốc từng vốc nước xoa lên mái tóc, lên mặt. Nước sông Kiều lạnh buốt. Những giọt nước đã thấm lên da thịt, Bân thấy tỉnh táo hẳn. Một ý nghĩ vụt qua: "Như thế là mình sắp về làng, mình đang ngồi trên chiếc đò quen thuộc vẫn chở lúa, chở phân của hợp tác xã!"
Chiếc đò ngang gối vào bãi cát thoai thoải cạnh bến trường học. Bân chờ cho những người đàn bà lên hết, mới khoác ba lô bước xuống bãi cát. Bãi cát bến làng vẫn dẽ và sạch. Nước trào lên liếm vào bãi làm cho những con "còng gió" chạy hốt hoảng để lại những dấu chân nhỏ và sáng. Bân khoan khoái ngắm phong cảnh quen thuộc: mái trường lợp rạ, hàng tre, gốc cây đa to lớn... Trước đây vài hôm, anh còn đứng cách xa bờ hàng hải lý để nhận tìm phong cảnh làng xóm qua chiếc ống nhòm, bây giờ tất cả đều đã hiện ra ngay trước mắt. Tất cả vẫn y nguyên như cũ, như ngày anh ra đi: Bên kia bờ, một đôi chim le le thức dậy muộn đang vỗ cánh bay ra ngoài sông rồi biến mất sau bãi cây lơ thơ giữa cồn cát. Ngoài cửa sông, sương sớm vẫn chưa tan hết. Cái bãi cát chăng từng dải lưới, chiếc mảng cắm bên bờ sú, ngoài xa một chiếc thuyền xua cá khua mạn lách cách, tất cả đều mơ hồ như hiện ra sau một bức màn trắng, mỏng tanh và ẩm ướt
Tất cả đều y nguyên như cũ, có phần nhỏ bé đi chút ít, con sông Kiều cũng hẹp đi chút ít...
Hai người đi tắt qua cánh bãi "Tàu đắm" để về xóm đồng muối. Thùy kể cho Bân nghe những chuyện xảy ra trong làng, từ việc làm công trường đến cái đêm cả làng xóm náo động, từ đàn bà, đến ông già vác dao đi đẵn cây để ngụy trang chiếc tàu hải quân. Bân hỏi:
- Dạo tôi ở quân y viện, tôi không viết thư về, sao cô biết?
- Một người bạn báo cho tôi biết - Thùy cười - Sao anh không biên thư về báo cho gia đình?
- Vết thương của tôi cũng thường, tôi không muốn u tôi biết đâu, u tôi cả lo lắm!
Thùy nghĩ thầm rằng chính Bân cũng chưa hiểu bác Thỉnh bằng mình. Anh chưa hiểu thế nào là nghị lực của người đàn bà trong lúc này. Hồi Bân ở nhà, xóm làng còn làm ăn bình thường. Nhưng bây giờ, tất cả đều đổi khác. Qua báo chí, làm sao Bân có thể hiểu hết được những suy nghĩ và tình cảm của những người ở hậu phương, dù là người trong gia đình.
Cảnh bãi "Tàu đắm" còn lởm chởm gốc rạ. Máy đã dọn sang rừng hết, để lộ khoảng đất lấm đầy dầu máy, đen xỉn và dẽ như đất nền nhà. Sương giá tan nhanh, chỉ còn đọng lởn vởn trên mặt sông Kiều, nhưng bầu trời vẫn còn xám như kẽm và gió rét căn cắt. Đầu cánh bãi, mấy người đàn bà đang cày vỡ đất. Tiếng hô "tắc, rì!" nhỏ nhẻ. Bóng những người đàn bà trùm khăn vuông đen, xù ra trong lần áo bông, bước chậm rãi theo trâu. Chiếc lưỡi cày chao nghiêng ánh lên rồi lại sục xuống lớp đất dẽ cứng.
Hai người rẽ về phía cuối cánh bãi.
Ông cụ Lâm cùng ba bốn người đàn ông, đang cày vỡ đất. Ông cụ quấn khăn đầu rìu, mái tóc bạc buông lòa xòa hai bên tai. Vẫn chiếc áo dạ màu cứt ngựa đã gần rách mọi ngày trên mình, bên ngoài khoác thêm một chiếc áo nẹp bằng cói.
Bân đặt ba lô cạnh bờ ruộng và chạy băng qua những luống đất đen nhánh mới cày, một làn hơi nhẹ và mỏng như khói tỏa lên giữa các khe đất còn âm ấm. Ông cụ Lâm hò trâu giữa ruộng, ấn lưỡi cày cắm ngập sâu xuống rồi đặt bàn tay khum khum trước trán, nheo mắt nhìn. Khi nhận ra Bân, ông cụ không hề tỏ vẻ ngạc nhiên, liền đưa cả hai bàn tay to bè và tím ngắt ra bắt tay cháu:
- Anh hôm nay mới về qua nhà ư?
- Ông!
Nét mặt hết sức hể hả, ông cụ kéo hai người về phía lùm dứa ở góc ruộng. Bân nhìn ông tỏ vẻ ái ngại:
- Hồi này ông còn đi cày được kia ư?
Ông cụ vạch các lần áo trong, áo ngoài để tìm sáp thuốc lào; miệng không ngớt động viên con trâu đứng yên tại chỗ, và nói đùa với Bân:
- Từ thuở bé đến giờ, ông chẳng đi cày thì làm quan ư? Rì, rì! - Ông cụ lại an ủi con trâu đang giậm chân bành bạch ra vẻ sốt ruột - Mày dứng yên đấy để ông cháu tao còn trò chuyện với nhau một chút chứ!
Ông cụ bắt đầu ngắm Bân từ đầu đến chân:
- Khỏe đấy! Anh có món quà gì đem về cho nhà không?
Bân chợt thấy lúng túng:
- Cháu từ ngoài biển về...
Ông cụ phá lên cười khà khà:
- Tôi biết rồi!... Quà đấy chứ đâu? Phải không cô Thùy? Tức là đêm hôm kia, các anh chẳng nện cho thằng Mỹ một trận nên thân là gì?
Ông cụ chêm mồi thuốc bằng đầu ngón tay. Bân cúi thổi cái bùi nhùi rơm cháy bùng lên. Ông cụ đặt đầu chiếc bùi nhùi cháy đỏ trên nõ điếu và rít một hơi thật dài:
- Lúc các anh đánh nhau là lúc tôi còn thức với các anh ở tổ máy bên rừng. Tôi biết hết... Khi các anh về, tôi đứng đón ngay trên bờ đê chứ đâu? - Ông cụ hút thuốc xong liền đứng dậy - Anh về nhà đi, về ngay cho nhà Thỉnh nó mừng! - Nào, chồn chân lắm hử!
Con trâu ghếch mõm lên trời thở phì phì mấy cái, quay lại nhìn ông cụ rồi chậm rãi cất bước. Bân đứng giữa ruộng, ngắm những đường cày thẳng tắp. Cứ nhìn ông cụ bước đi vững chãi và nhắc chiếc cày bằng một tay hết sức nhẹ nhõm mỗi khi bắt sang luống khác, đố ai bảo là một ông già đã gần tám chục tuổi. Cái nuốm cày trong tay ông cụ mỗi lần khẽ chúc xuống và né nghiêng là lưỡi cày liền cắm ngập, những tảng đất mới đổ ngả về một phía, đều đặn như người xếp từng hòn đất xuống ruộng vậy. Đến cuối ruộng ông cụ lại giục, không quay lại:
- Anh về nhà đi, về thẳng dưới lò cho nhà Thỉnh nó mừng!
Một bầy chim sáo mỏ vàng bay sà xuống, quẩn xung quanh chân trâu. Ngoài sông, sương đã tan hết. Cửa sông Kiều phơi mình trong nắng ấm. Một tiếng còi tàu rúc lên trong rừng. Bân bước theo một rãnh cày mới mở ra còn bốc hơi ấm. Thùy xách chiếc túi lưới đi bên cạnh; màu đất mới óng ánh dưới chân hai người.
Đã lâu rồi, Bân lại được ngửi cái mùi thơm ngây ngất, ấm áp và quen thuộc. Đấy là hương vị đặc biệt của đất bãi ven sông Kiều mới cày vỡ.