Chương 2
Tối đó, cảnh sát thị trấn So— tiến hành họp tổ điều tra.
Tôi không biết rõ cuộc họp diễn ra thế nào. Nội dung họp được bác sĩ F ghi trong sổ tay cũng chỉ là nghe ngóng qua người khác. Vì vậy, ở đây tôi xin chỉ viết lại những thông tin quan trọng. Chắc cuộc họp đại khái thế này.
“Về phần nhật kí bị thiêu hủy, chúng tôi nắm được một số thông tin như sau.” Dĩ nhiên đây là lời của chỉ huy Isokawa. “Akiko bên chi thứ trước đó từng khai, chiều tối hôm qua, chỉ ít giờ trước hôn lễ, cô ta tới biệt thất tìm Kenzo. Khi ấy Kenzo nhờ cô ta đóng bộ cửa chớp còn bản thân rời đi trước. Ngay sau đó, Akiko trở lại nhà chính, nhưng lại không thấy bóng dáng Kenzo, người đáng lẽ phải ở đó. Lúc ấy vội lắm rồi, phu nhân Itoko liên tục giục giã nên Akiko đi khắp nơi tìm Kenzo, để rồi thấy anh ta đứng trước lò sưởi trong thư phòng, đốt gì đó…”
“Ra vậy. Nói thế thì Kenzo đã tự đốt chỗ nhật kí ấy?” Cảnh sát trưởng xác nhận lại.
“Vâng, đúng vậy. Người ta cũng thường đốt các loại thư từ, nhật kí cũ trước khi kết hôn. Tuy nhiên tôi đoán phải có uẩn khúc nên Kenzo mới đốt ngay trước lúc diễn ra buổi lễ. Tức là mảnh giấy Akiko đưa ở biệt thất đã khiến anh ta đột nhiên nhớ lại chuyện cũ, thấy cần tiêu hủy ngay những ghi chép ngày trước.”
“Vậy đây là tàn tro của chỗ nhật kí đó ư?”
“Vâng. Có thể thấy chúng được thiêu rất kĩ, gần như cháy rụi. Tuy nhiên có năm, sáu trang còn sót lại đôi chút, Tôi nghĩ có liên quan tới vụ án nên đã nhặt lại và xếp ra đây theo đúng thứ tự. Tiếc là chỗ ghi ngày tháng đã cháy hết, nhưng tôi đoán chúng được viết vào năm 1925.”
Isokawa lần lượt xếp ra năm mẩu nhật kí còn sót lại. Từng câu chữ trong đó chứa đầy ẩn ý. Bác sĩ F dường như rất hứng thú với chúng nên đã chép lại. Tôi xin giới thiệu nguyên văn như dưới đây.
Mẫu thứ nhất… Dọc đường xuống bãi biển, ngang qua chốn quen, hôm nay tiểu thư Fuyu vẫn chơi đàn. Dạo này hễ nghe thanh âm ấy là lòng tôi lại đau thắt…
Mẫu thứ hai… Chính tên đó, chính tên đó. Tôi hận hắn. Tôi hận hắn cả đời…
Mẫu thứ ba… Tang lễ của tiểu thư Fuyu. Một ngày ảm đạm, thê lương. Trên đảo hôm nay lất phất mưa. Buổi tang lễ…
Mẫu thứ tư… Tôi suýt nữa đã thách đấu hắn. Không gì có thấm với nỗi căm phẫn trong tôi. Nghĩ tới người thê lương nằm đó, tôi có băm vằm hắn thành trăm mảnh cũng chưa hả dạ. Hắn chính là kẻ thù không đội trời chung của tôi. Tôi hận hắn, căm thù hắn…
Mẫu thứ năm… Trước khi rời đảo tôi đã tới thăm mộ tiểu thư Fuyu lần cuối. Đặt bó cúc dại trước mộ, tôi quỳ lạy em. Bỗng có tiếng đàn từ đâu vẳng tới. Tôi thẫn thờ…
“Tôi hiểu rồi.” Cảnh sát trưởng đọc kĩ năm mẩu nhật kí sót lại rồi nói. “Qua đây có thể thấy Kenzo từng thân thiết với một cô gái tên Fuyu trên hòn đảo nào đó. Song cô này qua lại thân mật và còn chết vì người đàn ông khác. Nên tóm lại người đàn ông đó là kẻ thù không đội trời chung của Kenzo, và cũng chính là hung thủ trong vụ án này.”
“Vâng, có lẽ thế. Hẳn câu chuyện ở đây không hề đơn giản. Giá mà biết được tên của kẻ kia, hoặc ít nhất biết tên hòn đảo thì tốt. Nhưng chỗ nhật kí lại đã cháy rụi, không truy xét được. Lúc đó là năm 1925, Kenzo 28 tuổi. Anh ta gặp vấn đề ở đỉnh phổi nên đi du lịch tĩnh dưỡng ở mấy hòn đảo thuộc vùng biển nội địa Seto. Có điều sự việc kia xảy ra tại đảo nào thì người nhà Ichiyanagi không rõ.”
“Nhưng nếu có bức ảnh này… À đúng rồi, cậu đưa cho bà chủ tiệm cơm xem chưa? Tiệm cơm mà tên ba ngón xuất hiện lần đầu ấy.”
“Đương nhiên là rồi. Tôi đã đưa ảnh cho bà chủ tiệm, viên cán bộ ủy ban và tay dân thồ hàng có mặt lúc đó. Cả ba xác nhận đúng là người đàn ông này. Dĩ nhiên bây giờ hắn đã có tuổi, tiều tụy hơn hẳn so với trong ảnh, lại thêm vết sẹo lớn ở khóe miệng nên trông tương đối khác, nhưng ba người kia đều khẳng định chính là hắn.”
“Vậy không sai được rồi. Thế sau khi hắn rời tiệm cơm, không ai trông thấy hắn nữa à?”
“Thưa sếp, có người đã gặp hắn ạ.” Cậu điều tra viên Kimura xen vào. “Cùng hôm đó, một nông dân tên Taguchi Yosuke sống gần dinh thự Ichiyanagi đã bắt gặp hắn đứng trước cổng dinh thự, ngó nghiêng bên trong. Thấy khả nghi, Yosuke lẳng lặng theo dõi thì hắn phát hiện ra. Hắn thản nhiên hỏi anh ta Đường tới làng Ku… đi thế nào? rồi lê bước về hướng ấy. Lát sau Yosuke ngoảnh lại, thì thấy hắn đang trèo lên vách núi phía Bắc dinh thự Ichiyanagi. Ngẫm lại thì xem ra hắn lên đó để quan sát tình hình trong dinh thự. Bấy giờ là khoảng năm, mười phút sau khi hắn rời tiệm cơm.”
“Lúc đó là chập tối 23, tức trước hôn lễ hai ngày nhỉ?”
“Vâng.”
“Sau đó thì hắn xuất hiện lần nữa tại bếp nhà Ichiyanagi, ngay trước lúc đám cưới diễn ra. Cậu đã đưa ảnh cho những người có mặt trong bếp lúc đó, và cả người kia, à đúng rồi, Taguchi Yosuke xem chưa?”
“Tất nhiên là rồi ạ. Có điều họ không nhận mặt được vì hắn đội mũ sùm sụp, đeo khẩu trang to đùng, chưa kể bếp nhà Ichiyanagi còn tối nữa…”
Cảnh sát trưởng trầm ngâm hút thuốc, ngẫm nghĩ gì đó. Cuối cùng, ông nhìn xuống đống vật chứng trên bàn, cẩn thận quan sát. Đầu tiên là cốc nước, thứ hai là thanh kiếm, thứ ba là vỏ kiếm, thứ tư là ba móng gảy, thứ năm là con nhạn, và cuối cùng là cái liềm.
“Cốc nước này là vật chứng lấy ở tiệm cơm à? Kiểm tra dấu vân tay chưa?”
“Tôi xin phép trình bày.” Như chỉ chờ cảnh sát trưởng hỏi đến, cậu nhân viên trẻ của phòng giám định mở cặp táp. “Tôi có mang ảnh chụp theo đây. Dễ thấy trên cốc nước có hai loại dấu vân tay. Một của bà chủ tiệm cơm. Còn lại là loại chỉ có ba ngón, ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa. Nhất định là của tên ba ngón. Hơn nữa, chúng tôi còn tìm thấy dấu vân tay tương tự trên thanh kiếm Nhật, vỏ kiếm và con nhạn. Đặc biệt, dấu vân tay trên con nhạn có dính máu. Ngoài ra, trên thanh kiếm và vỏ kiếm còn lưu mờ mờ dấu vân tay của Kenzo, nhưng trên con nhạn, ngoại trừ dấu vân tay hung thủ thì không có gì khác. Mặt trong của móng gảy đáng ra cũng phải có vân tay của hung thủ, nhưng như sếp thấy đấy, nó dính đầy máu nên chúng tôi không tìm được dấu vân tay. Về cái liềm thì do cán làm bằng gỗ loại này nên cũng không tìm được dấu vân tay chính xác.”
“Cái liềm…”
“Chuyện là thế này…” Isokawa rướn người về phía trước. “Chúng tôi phát hiện nó cắm trên cây long não trong vườn biệt thất. Điều tra ra thì độ một tuần trước đúng là có người làm vườn tới dinh thự Ichiyanagi. Tôi đã gọi anh ta đến hỏi chuyện. Anh ta nhận là có để quên liềm, nhưng lại khẳng định chắc nịch rằng không hề cắm nó lên cây long não. Nếu là kéo tỉa cây thì không nói, đằng này sao tưởng tượng nổi có người trèo lên cây long não mà đem theo liềm, nên tôi nghĩ lời khai của người làm vườn khá đáng tin. Vậy thì tại sao cái liềm lại cắm trên cây long não? Hơn nữa còn được mài cực kì sắc? Tôi đoán nó có vai trò gì đó chăng, nên quyết định thu giữ luôn.”
“Xem ra vụ án này có rất nhiều điểm nghi vấn. Đúng rồi, dấu vân tay ở hiện trường thì sao?”
“Chúng tôi thu thập được dấu vân tay rõ nét của hung thủ ở ba nơi tại hiện trường. Đầu tiên là dấu vân tay không dính máu, nằm trong tủ âm tường đằng sau gian tám chiếu. Sau đó là hai dấu tay dính máu, một ở mặt trong cửa chớp, một ở trên cột trụ góc Tây Nam của gian tám chiếu. Hai dấu tay này được tìm thấy sau cùng dù nằm ở vị trí rất dễ quan sát. Cũng bởi toàn bộ căn biệt thất sơn màu đỏ son, không kiểm tra cẩn thận rất dễ bỏ sót.”
“Nói vậy, đây chắc chắn là vụ án giết người, chứ không thể là tự sát.”
“Sếp bảo tự sát là sao?” Isokawa trợn mắt ngạc nhiên.
“Kìa, không phải ý tưởng của tôi đâu. Có người nghi Kenzo tự đâm vào tim mình, rồi ném thanh kiếm ra ngoài qua vách thông gió.”
“Ai nghĩ ra ý tưởng hoang đường đó vậy? Chỉ cần nhìn hiện trường là đủ thấy không thể. Xét nơi cắm hung khí thì lại càng không. Huống chi còn con nhạn. Nhất định hung thủ đã đợi tuyết ngừng rơi rồi mới bỏ vào đó. Cho dù cửa chớp có mở, cũng không ném nó ra đó được. Rốt cuộc ai nghĩ ra chuyện ngớ ngẩn này thế?”
“Seno đấy. Đây mà là tự sát thì may cho anh ta quá. Không cần trả tiền bảo hiểm nữa mà.”
“Tiền bảo hiểm…? À, gã Seno bên đại lý bảo hiểm ấy ạ? Thế Kenzo mua gói bảo hiểm bao nhiêu tiền thế?”
“50.000 yên.”
“50.000 yên?”
Ở nông thôn thời đó, 50.000 yên quả là số tiền rất lớn. Bảo sao Isokawa nghe xong liền giật mình kinh ngạc.
“Cụ thể thì Kenzo tham gia bảo hiểm từ bao giờ?”
“Nghe nói từ năm năm trước.”
“Năm năm trước? Nhưng Kenzo không vợ không con, Sao lại nộp bảo hiểm số tiền lớn như vậy?”
“Thấy bảo thế này. Kenzo có cậu em tên là Ryuji đúng không? Năm năm trước, khi Ryuji kết hôn, tài sản được đem ra chia cho các anh em. Có điều lúc đó cậu em Saburo được chia rất ít do không được lòng họ hàng, nên Kenzo bất bình, quyết định mua gói bảo hiểm 50.000 yên và nhượng nó cho Saburo.”
“Vậy thì người thụ hưởng sẽ là Saburo rồi.”
Isokawa chợt thấy nôn nao khó tả.
Đêm tổ chức hôn lễ, Saburo đưa ông trẻ về rồi ở lại luôn làng Kawa—. Nói cách khác, trong những người liên quan, chỉ mỗi Saburo có chứng cứ ngoại phạm. Hay chính việc đó lại có ý nghĩa quan trọng gì chăng?
Isokawa đưa tay lên vân vê hàm râu.
Ngày 27 tháng Mười một, ngay sau hôm xảy ra vụ án mạng kinh hoàng tại dinh thự Ichiyanagi, một thanh niên bước xuống ga Kiyo thuộc tuyến Hakubi, thong dong đi về phía làng Kawa—. Anh tầm hai lăm hai sáu tuổi, hơi nhỏ người thì đúng hơn là tầm thước. Mình vận kimono kèm haori[26] họa tiết dệt[27], bên dưới là hakama[28] kẻ sọc nhỏ. Áo haori và kimono nhăn nhúm, quần thì lùng thùng tới mức chẳng nhìn ra li xếp, lại thêm đôi tất xỏ ngón trông tưởng rách đến nơi, đôi guốc mòn vẹt và chiếc mũ móp méo… Tóm lại, so với tiêu chuẩn thanh niên thời bấy giờ thì anh quá lôi thôi. Xét riêng mặt mày, anh cũng trắng trẻo nhưng dường nét không có gì nổi bật.
Sau khi qua sông Takat hanh niên đi bộ về phía làng Kawa—. Tay trái không xỏ qua ống tay mà để trong ngực áo, tay phải chống gậy. Ngực áo phồng to, hình như nhét đầy mấy thứ như tạp chí, vở viết.
Ở Tokyo thời đó không hiếm thanh niên kiểu này. Cứ dạo quanh khu nhà trọ ở Waseda hay ghé mấy nhà hát vùng ngoại ô thì gặp khối. Thanh niên này chính là Kindaichi Kosuke, người mà Kubo Ginzo gửi điện báo để gọi tới.
Những người làng biết tường tận diễn tiến của vụ án đều không sao quên nổi thanh niên bí ẩn này.
“Chàng trai trẻ đó trông thì ngu ngơ mà khả năng phá án còn vượt cả viên chỉ huy. Dân Tokyo có khác. Khi ấy ai cũng hết lời khen ngợi…”
Nghe lời tán dương là đủ biết chàng thanh niên sẽ đóng vai trò cực kì quan trọng giúp phá giải vụ án tiếng đàn sát nhân tại dinh thự Ichiyanagi. Có điều, sau khi tổng hợp và nghiền ngẫm lời dân làng, tôi thấy thanh niên này có phong thái ung dung tự tại rất giống với Anthony Gillingham. Độc giả hẳn sẽ ngạc nhiên vì tự dưng tôi lại nhắc tới cái tên này. Thực ra Anthony Gillingham là một thám tử nghiệp dư, nhân vật chính trong tiểu thuyết trinh thám Bí mật căn nhà đỏ[29] của A. A. Milne[30], tác giả người Anh mà tôi vô cùng yêu thích.
Trong cuốn tiểu thuyết ấy, Milne giới thiệu Anthony Gillingham trong lần đầu xuất hiện như sau: “Nhân vật này đóng vai trò chủ chốt, nên trước khi bước vào câu chuyện, tôi cần miêu tả sơ qua về anh ta.” Bởi vậy tôi sẽ học tập Milne, kể đôi chút về chàng trai Kindaichi Kosuke.
Kindaichi là họ hiếm. Chắc một số bạn độc giả cũng biết đến một học giả nổi tiếng mang họ này, chuyên nghiên cứu về dân tộc Ainu[31]. Vị học giả ấy có xuất thân Tohoku hoặc Hokkaido, và Kindaichi Kosuke hình như cũng sinh ra ở khu vực đó. Nghe bảo thanh niên này có giọng địa phương rất nặng, còn hơi cà lăm nữa.
Năm 19 tuổi, sau khi tốt nghiệp trung học ở quê, Kindaichi ôm hoài bảo tới Tokyo. Anh nhập học một trường đại học dân lập và trọ tại khu Kanda. Chưa đầy năm thì cảm thấy đại học ở Nhật quá tẻ nhạt nên anh lưu lạc sang Mỹ, nhưng chẳng mấy chốc cũng chán cuộc sống ở Mỹ. Trong khoảng thời gian lang bạt khắp nơi và sống bằng mấy nghề lặt vặt như rửa bát thuê, vì hiếu kì anh dính vào ma túy, rồi ngày càng nghiện ngập.
Cứ đà đó thì thật e Kindaichi sẽ thành ra một con nghiện đúng nghĩa, bị cộng đồng Nhật kiều tẩy chay.
Nhưng một sự kiện lạ lùng đã thay đổi cuộc đời chàng trai trẻ. Trong cộng đồng Nhật kiều ở San Francisco khi ấy xảy ra một vụ án mạng kì quái, tưởng chừng đi vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ con nghiện Kindaichi tình cờ lang thang qua đã phá giải được vụ án. Chưa kể, thủ pháp phá án còn rất thẳng thắn, đanh thép, dựa trên logic chứ không phải dùng chiêu trò gì, nên cộng đồng Nhật kiều vô cùng kinh ngạc. Kẻ nghiện ngập chẳng ai muốn giao du như Kindaichi nay bỗng hóa anh hùng.
Hồi ấy vừa hay Kubo Ginzo đang ở San Francisco. Vườn cây ăn quả ở Okayama mà Ginzo gây dựng đang trên đà phát triển, nên ông định lấn sân sang ngành khác. Các bạn độc giả còn nhớ loại nho khô thương hiệu Sunkist hồi trước chiến tranh chứ? Đa phần chúng được sản xuất bởi người Nhật sống ở California. Ginzo muốn thử sản xuất nho khô tại Nhật, nên mới quay lại Mỹ để tham quan và học hỏi kinh nghiệm. Ông tình cờ gặp Kindaichi tại một bữa tiệc của cộng đồng Nhật kiều.
“Thế nào? Anh nên cai nghiện rồi học hành cho tử tế đi.”
“Cháu cũng tính vậy. Nghiện ngập rốt cuộc chẳng hay ho gì.”
“Nếu anh muốn, tôi sẽ đóng giúp học phí.”
“Cảm ơn chú, nhờ chú giúp vậy. ”
Kindaichi gãi gãi mớ tóc rối bù, chẳng chút do dự cúi đầu nhờ vả.
Ngay sau đó Ginzo quay về Nhật, còn Kindaichi ở lại Mỹ thêm ba năm, cuối cũng lấy được tấm bằng đại học. Vừa về Nhật, chàng thanh niên liền từ Kobe tới thăm Ginzo ở Okayama. Lúc ấy Ginzo có hỏi, “Thế từ giờ anh định làm gì?”
“Cháu tính làm thám tử.”
“Thám tử?”
Ginzo ngạc nhiên nhìn Kindaichi rồi chợt nhớ lại vụ án ba năm trước, lòng thầm nghĩ thôi thì cũng được, dù sao cậu chàng cũng chẳng phải dạng sẽ theo được kiểu công việc nhiều kỉ luật, gò bó.
“Tôi không hiểu mấy về nghề thám tử, nhưng dụng cụ làm việc chắc sẽ phải có kinh lúp hay thước dây nhỉ?”
“Không ạ, cháu không định dùng mấy thứ ấy.”
“Thế anh định dùng gì?”
“Cái này ạ.” Kindaichi tủm tỉm cười, tự gõ gõ lên cái đầu tổ quạ.
Ginzo gật gù thán phục. “Có điều, dùng đầu làm việc thì vẫn cần vốn chứ?”
“Vâng. Sắm sửa trang thiết bị cho văn phòng tốn khoảng 3000 yên. Với lại trước mắt cháu cũng cần sinh hoạt phí. Vừa treo biển thì lấy đâu ra khách ngay.”
Ginzo lẳng lặng kí tấm séc 5000 yên rồi đưa cho Kindaichi. Nhận xong, Kindaichi không nói gì mà chỉ lễ phép cúi đầu. Về đến Tokyo, anh chàng lập tức bắt tay vào cái nghề chẳng giống ai này.
Dĩ nhiên mới đầu, văn phòng thám tử Kindaichi ở Tokyo chẳng có nổi một mống khách. Trong thư thông báo tình hình thi thoảng gửi cho Ginzo, Kindaichi kể văn phòng vắng như chùa Bà Đanh, ông chủ suốt ngày ngáp ngắn ngáp dài đọc truyện trinh thám. Chẳng biết anh nghiêm túc hay đang đùa bỡn Ginzo nữa.
Qua độ nửa năm, vừa ngỡ tình hình thư từ cuối cùng cũng dần thay đổi thì một sáng nọ, Ginzo giật mình kinh ngạc khi bất ngờ phát hiện ảnh Kindaichi chình ình trên mặt báo. Ban đầu ông còn tưởng Kindaichi lỡ gây họa, đọc thư mới biết anh được báo chí giật tít khen ngợi vì đã xuất sắc phá giải vụ án nghiêm trọng gây xôn xao cả nước. Trong bài báo, Kindaichi cho biết, “Việc thu thập dấu chân và giám định vân tay đều do cảnh sát phụ trách. Tôi chỉ phân tích, tổng hợp logic các kết quả thu được rồi suy luận ra thôi. Đó là cách tôi phá án.”
Đọc tới đó Ginzo liền nhớ ra rằng trước đây Kindaichi từng tự gõ đầu tuyên bố sẽ sử dụng trí óc thay cho kính lúp và thước dây. Ông bất giác mỉm cười hài lòng.
Khi án mạng tại dinh thự Ichiyanagi xảy ra, trùng hợp là Kindaichi đang ở nhà Ginzo. Trước đó, Kindaichi tới Osaka để điều tra một vụ án hóc búa, nhưng không ngờ công việc xong sớm hơn dự kiến. Tiện thể, anh chàng ghé thăm Ginzo vì đã lâu không gặp, nhân đó xả hơi vài bữa ở Okayama. Tiễn Ginzo và Katsuko lên đường xong, Kindaichi tính ở lại chơi vài hôm, đợi Ginzo trở về sau hôn lễ, nhưng rốt cuộc lại bị Ginzo gọi đi phá án.
Dinh thự Ichiyanagi ở làng Oka—, cách vườn cây ăn quả của Ginzo chưa tới bốn mươi cây số, nhưng giao thông bất tiện nên Kindaichi phải đi tuyến Tamashima, sau đó lại lên tàu tuyến Sanyo hướng đi tỉnh lỵ, tới Kurashiki thì đổi sang tuyến Hakubi và xuống ở ga Kiyo—, xong còn phải đi bộ ngược lại độ bốn cây số nữa. Lộ trình của anh y hệt của chú cháu Ginzo hôm trước. Tuy nhiên, Vừa qua sông Taka—, gần tới đường vào làng Kawa, anh bỗng nghe tiếng một toán người hô hoán. Họ vừa hò hét ầm ĩ vừa chạy tới khúc ngoặt phía trước.
Xảy ra chuyện gì thế nhỉ? Kindaichi vô thức dừng chân. Hóa ra có chiếc xe khách đâm vào cột điện trên đường làng nên rất đông người bu lại. Kindaichi tiến tới quan sát thì thấy dân làng đang khiêng người gặp nạn ra khỏi xe. Anh hỏi thăm người đứng cạnh thì được biết xe khách vì tránh xe bò đi ngược chiều nên đã đâm phải cột điện.
Chiếc xe khách xuất phát từ ga Kiyo—, nơi Kindaichi xuống tàu ban nãy, nên hành khách đa phần là người ngồi cùng tàu với anh. Anh thầm cảm thấy may mắn vì đã không lên chuyến xe này. Vừa toan rời đi, Kindaichi chợt trông thấy một phụ nữ được khiêng ra khỏi xe. Anh từng gặp cô ta.
Như ban nãy đã nói, sớm nay Kindaichi từ Tamashima lên tuyến Sanyo đi hướng tỉnh lỵ, đến Kurashiki thì đổi sang tuyến Hakubi. Người phụ nữ này lên cùng chuyến tàu xuất phát từ Kurashiki với anh. Nhưng hình như trái ngược với Kindaichi, cô ta tới Kurashiki bằng tuyến rời tỉnh lỵ. Lúc ngồi xuống đối diện người phụ nữ, Kindaichi nhận thấy cô ta cực kì bồn chồn.
Lúc ấy, người phụ nữ đang đọc ngấu nghiến tờ báo địa phương đặt trên đùi, xem chừng cô ta vừa mua nó ở ga chuyển tiếp. Để ý thấy cô ta đang đọc bài về vụ án mạng tại dinh thự Ichiyanagi, Kindaichi không khỏi liếc nhìn, dò xét đối phương. Người phụ nữ đó độ hai bảy hai tám tuổi, mặc kimono giản dị bằng vải meisen[32] bên dưới là hakama tím. Mái tóc xoăn xù bện thành búi, mắt khá lác. Khách quan mà nói thì khó khen cô ta ưa nhìn, nhưng vẻ trí thức toát ra lại phần nào bù đắp cho những khiếm khuyết bề ngoài. Nói chung, trông cô ta rất giống giáo viên trường nữ sinh.
Kindaichi chợt nhớ tới Katsuko, nạn nhân trong vụ án lần này, cũng là giáo viên trường nữ sinh. Lẽ nào người phụ nữ trước mặt quen biết Katsuko? Nếu đúng vậy thì chi bằng bắt chuyện thử xem, biết đâu hỏi thăm được gì. Mỗi tội cô ta trông khá khó gần, nên đến tận khi tàu vào ga Kiyo—, Kindaichi vẫn chưa dám lên tiếng, và thế là bỏ lỡ cơ hội bắt chuyện.
Lúc này người phụ nữ đang được khiêng ra khỏi xe khách. Trong số hành khách, hình như cô ta bị thương nặng nhất, mặt mày tái mét, cơ thể mềm nhũn. Kindaichi toan đi theo người phụ nữ, song lại nghe được cuộc trò chuyện của mấy người bu quanh chiếc xe nên thay đổi ý định, dừng bước đứng lại. Họ rì rầm bàn tán như sau.
“Nghe bảo tối qua người đàn ông ba ngón tay lại xuất hiện ở dinh thự Ichiyanagi à?”
“Đúng vậy. Từ sớm nay cảnh sát đã tới, làm lớn lắm rồi. Nghe nói sẽ phong tỏa toàn vùng. Ông cẩn thận đấy. Cứ đi loanh quanh, bộ dạng thì kì quái là dễ bị tóm lắm.”
“Đừng nói hồ đồ. Đây, tay tôi đủ cả năm ngón nhé. Mà này, rốt cuộc tên hung thủ trốn đi đâu được nhỉ?”
“Thấy bảo hắn trốn lên núi, phía làng Ku—. Cảnh sát đang huy động hội thanh niên làng lên núi truy tìm. Nói chung là lớn chuyện lắm rồi.”
“Gia tộc Ichiyanagi cứ như trúng lời nguyền ấy nhỉ? Ông Sakue gia chủ đời trước đã chết thảm rồi. Nghe đâu cha của Ryosuke bên chi thứ cũng mổ bụng tự sát ở Hiroshima nữa.”
“Ừ, báo sáng nay cũng có nhắc tới, bảo bọn họ là gia tộc dính lời nguyền đẫm máu… Mà từ trước tới giờ cái nhà đó cứ ảm đạm, u ám kiểu gì ấy.”
Sáng nay báo chí địa phương vừa đưa tin về “gia tộc dính lời nguyền đẫm máu” mà mấy người dân làng Kawa— vừa bàn tán, nên Kindaichi cũng biết. Chuyện là thế này.
Khoảng mười lăm, mười sáu năm về trước, không lâu sau khi Suzuko chào đời, cha của anh em Kenzo là ông Sakue qua đời, hơn nữa cái chết còn rất khác thường. Bình thường ông vốn đôn hậu, hiểu lý lẽ, nhưng gặp chuyện lại dễ kích động, khi tức giận sẽ không phân biệt được đúng sai. Suzuko chào đời chưa lâu thì giữa ông và một người trong làng xảy ra tranh chấp ruộng đất. Hai bên cãi nhau dữ dội, kết quả là tối nọ, Sakue cầm kiếm xông sang nhà chém chết người kia. Tuy giết thì giết được nhưng bản thân Sakue cũng bị thương nặng nề, về đến nhà là trút hơi thở cuối cùng.
Mấy bô lão trong làng liên hệ chuyện ấy với vụ giết người lần này, còn thêm mắm giặm muối răng thanh kiếm Sakue dùng để giết người là một thanh Muramasa[33], rồi thì vợ chồng Kenzo cũng bị giết bằng thanh kiếm ấy. Họ kháo nhau rằng gia tộc Ichiyanagi bị thanh kiếm ấy nguyền rủa. Song sự thực không phải vậy. Thanh kiếm Sakue cầm theo vốn không phải Muramasa. Hơn nữa sau khi Sakue gây án, thanh kiếm đã được đem gửi vào chùa Bồ Đề. Còn trong vụ án lần này, hồ sơ của cảnh sát ghi rõ thanh kiếm hung thủ sử dụng là Sadamune[34]. Dẫu vậy, khó trách tại sao báo chí lại giật tít “gia tộc dính lời nguyền đẫm máu”, bởi em trai ông Sakue là Hayato, hay cha Ryosuke, cũng đã “chết vì kiếm”, một cái chết uất nghẹn.
Ông Hayato có chí hướng binh nghiệp và tự nguyện tòng quân. Hồi chiến tranh Nga-Nhật[35] nổ ra, ông đang ở Hiroshima, giữ hàm đại úy. Khi đó, ông đã dùng kiếm Nhật mổ bụng tự sát để chịu trách nhiệm cho một vụ bê bối trong đơn vị. Trong xã hội Nhật thời bấy giờ, tự sát để chịu trách nhiệm là hành vi cực kì đáng nể, nhưng mọi người đều cho rằng vấn đề không nghiêm trọng đến mức phải rạch bụng. Hayato hành động như vậy một phần vì bê bối của đơn vị, song chủ yếu cũng do bản tính quá nhạy cảm, hay quan trọng hóa vấn đề. Tóm lại, tính không chịu nhún nhường, cố chấp đến cực đoan của gia tộc Ichiyanagi vốn là do di truyền.
Gác chuyện ấy lại thì ban nãy là lần đầu tiên Kindaichi nghe được việc người đàn ông ba ngón tay tái xuất ở dinh thự Ichiyanagi vào đêm qua. Linh cảm sắp có chuyện xảy ra, anh không dám chần chừ thêm mà vội chạy ngay đến dinh thự. Đành bỏ chuyện người phụ nữ bị thương sang một bên, nhưng anh vẫn không quên xác nhận cẩn thận nơi cô ta sẽ được đưa tới. Đó là bệnh viện Kiuchi.
Kindaichi Kosuke tới dinh thự Ichiyanagi ở xóm Yamanotanl lúc sắp giữa trưa. Càng đến gần thì càng thấy xóm này được cảnh giới nghiêm ngặt. Cảnh sát tuần tra đạp xe lượn qua lượn lại, rất giống cảnh tượng sau mỗi khi có vụ án nghiêm trọng xảy ra.
Khi Kindaichi đến, người nhà Ichiyanagi đều đang tập trung tại phòng khách. Vốn im lặng ngồi một góc, Ginzo bỗng tươi tỉnh hẳn lên khi nghe nhắc đến tên Kindaichi.
“Ôi, cuối cùng anh cũng tới.”
Ginzo bước ra cửa đón Kindaichi, nét mặt đầy hoài niệm, dù biểu cảm này không hợp với ông chút nào.
“Lại được chú chiếu cố…”
“Thôi việc ấy để sau, tới đây trước đã. Để tôi giới thiệu anh với mọi người.”
Tối qua, Ginzo đã thông báo rằng Kindaichi sẽ đến, nên người nhà Ichiyanagi rất hiếu kì xem anh là nhân vật ra sao.
Tuy nhiên khi Kindaichi vừa xuất hiện, ai nấy đều sững sờ trước bộ dạng lôi thôi, tóc tai bù xù của chàng thanh niên tuổi tác chỉ tầm Saburo. Suzuko tròn mắt ngây ngô hỏi, “Ô, thám tử lừng danh là anh đấy à?”
Phu nhân Itoko, Saburo và Ryosuke hơi ngỡ ngàng, nhìn chằm chằm chàng thanh niên mới đến. Chỉ có Ryuji khách sáo cảm ơn Kindaichi đã vất vả đường xa.
Giới thiệu xong, Ginzo lập tức đưa Kindaichi về phòng mình, kể tường tận mọi chuyện diễn ra từ đêm hôm kia tới nay. Một số chuyện Kindaichi đã đọc trên báo, song đa phần là chưa từng nghe qua. Kể xong, Ginzo còn nói thêm, “Vậy đấy, nghi phạm hiện nay là người đàn ông ba ngón không rõ lai lịch. Tuy nhiên tôi thấy vụ này vẫn còn nhiều uẩn khúc. Đầu tiên là cái cậu tên Ryuji, ngay sáng sớm sau khi án mạng xảy ra đã về nhà cùng Saburo, bảo vừa từ Kyushu trở về. Nhưng thực tế từ hôm trước đấy, khi lên tàu ở Tamashima, tôi và Katsuko đã bắt gặp cậu ta trên tàu rồi.”
“Ồ hố!” Kindaichi khẽ kêu lên, nghe như huýt sáo. “Vậy là anh ta cố ý giấu việc bản thân đang loanh quanh gần đây lúc án mạng xảy ra?”
“Đúng. Cậu ta không phát hiện ra tôi ngồi cùng tàu. Trong khoảng thời gian từ tối 25 đến sáng 26, chắc chắn cậu ta chỉ ở quanh đây. Không biết vì sao cậu ta phải nói dối, hơn nữa tối 25 còn không tham dự hôn lễ. Thật chẳng hiểu nổi.” Ginzo hầm hầm liếc sang phòng khách rồi tức giận nói tiếp. “Mà không, chẳng riêng gì cậu ta. Ai trong tái nhà này cũng kì lạ. Cứ như họ biết gì đó nhưng lại cố tình giấu giếm. Trông thì như bao che cho nhau, song lại cũng giống đang nghi kị lẫn nhau. Bầu không khí khác thường giữa họ khiến tôi rất khó chịu.”
Hiếm khi thấy Ginzo bức xúc như vậy, Kindaichi vừa lắng nghe vừa suy ngẫm về những lời ông nói. Như chợt nhớ ra chuyện gì, anh hỏi, “À chú ơi, vừa nãy trên đường tới đây, cháu nghe nói đêm qua tên ba ngón lại xuất hiện, có thật không ạ? Lại xảy ra chuyện gì sao?”
“Ừ, cũng hơi kì quái. Thực tế là có mỗi Suzuko trông thấy bóng dáng hắn. Tuy nhiên vẫn còn chứng cứ chứng tỏ hắn thực sự đã tới.”
“Chứng cứ? Là sao vậy chú?”
“Do Suzuko kể. Chắc anh cũng biết cô bé đó rồi nhỉ Suzuko nói năng hơi lộn xộn, nên tôi nghĩ chưa biết chừng là bị mộng du.”
“Mộng du?” Kindaichi bất giác mở to mắt kinh ngạc.
“Ừ. Thế thì mới dậy đi thăm mộ mèo vào giờ ấy chứ”
“Mộ mèo?” Kindaichi lại tròn mắt ngạc nhiên rồi bật cười thích thú. “Chú ơi, chú đang nói gì thế? Lúc thì mộng du, lúc lại mộ mèo, không phải kì quái quá sao? Rốt cuộc chuyện là thế nào ạ?”
“À, tôi xin lỗi! Chỉ kể mỗi lập luận của mình mà bỏ qua tình tiết thì ai hiểu được nhỉ. Chuyện là thế này…”
Đêm qua, hay nói chính xác hơn là rạng sáng nay, lại có một tiếng hét quái dị đánh thức toàn bộ người trong dinh thự Ichiyanagi. Như đêm hôm trước, Ginzo choàng tỉnh, bật dậy mở cửa chớp. Một bóng người từ biệt thất loạng choạng chạy về phía ông.
Ginzo vội vã lao xuống sân, không cả xỏ guốc, chạy tới chỗ người đó. Người đó cứ thế lao vào lòng ông. Bất ngờ thay đó là Suzuko. Cô bé vẫn mặc nguyên bộ đồ ngủ bằng dạ mỏng, mặt trắng bệch, toàn thân run lẩy bẩy. Nhìn lại thì chân cô bé cũng không mang guốc.
“Suzuko, sao vậy? Cháu làm gì ở đây?”
“Chú ơi, xuất hiện, xuất hiện rồi. Yêu quái xuất hiện rồi! Yêu quái ba ngón tay xuất hiện rồi!”
“Yêu quái ba ngón tay?”
“Vâng, vâng. Chú ơi, sợ lắm, đáng sợ lắm! Hắn ở bên kia kìa. Đó, cạnh mộ Tama ấy.”
Ryuji và Ryosuke lúc này mới lần lượt chạy tới. Lát sau, Saburo cũng lảo đảo bước đến.
“Suzuko, sao đêm khuya mà em còn lang thang ngoài này?” Ryuji nghiêm giọng hỏi.
“Tại… Tại em… em đi thăm mộ Tama. Xong… xong yêu quái ba ngón tay bỗng chạy ra…”
Đúng lúc ấy, từ xa vọng lại tiếng phu nhân Itoko lo lắng gọi tên Suzuko. Cô bé khóc lóc chạy về hướng phu nhân, để lại mấy người đàn ông đứng nhìn nhau dò xét. Cuối cùng Ginzo mở lời “Thử ra đó xem sao” rồi rảo bước đi trước.
“Tôi đi lấy đèn lồng.” Saburo bảo rồi đi về hướng ngược lại, được một lát thì cầm đèn lồng đuổi theo sau.
Ở góc Đông Bắc dinh thự, phía bên ngoài rào tre ngăn riêng khu biệt thất, có một cây cử và một cây sồi lớn, Cành lá sum sê. Khắp mặt đất dưới tán cây, lá rụng tầng tầng lớp lớp, chồng chất lên nhau. Giữa đống lá rụng, gồ lên một cái gò trông như nấm mộ nhỏ, đỉnh gò cắm cọc gà mộc. Trên cọc viết “Mộ của Tama”. Nét chữ rất khó nhìn chắc do Saburo viết. Trước bia mộ cắm vài ba bông cúc dại trắng.
Bốn người lùng sục khắp xung quanh nhưng không thấy bóng dáng nào khả nghi. Nương theo ánh đèn Saburo mang tới, họ cố tìm kiếm cả dấu vết trên nền đất. Tuy nhiên quanh đó phủ đầy lá rụng, nên cũng không phát hiện ra dấu chân hay gì tương tự. Thậm chí họ còn chia nhau tìm kiếm ở mọi ngóc ngách trong dinh thự, song vẫn không thấy kẻ đáng ngờ nào.
“Thế rồi tất cả trở về phòng khách, vây quanh Suzuko và hỏi cô bé đủ điều. Nhưng cô bé nói năng không được rành mạch, cứ một mực bảo mình đi thăm mộ mèo. Vốn dĩ việc đi thăm mộ mèo giữa đêm hôm khuya khoắt đã quá kì lạ rồi, nên ban nãy tôi mới bảo có thể cô bé bị mộng du. Suốt từ hôm qua Suzuko vẫn đau đáu chuyện con mè qua đời, nên nửa đêm cô bé vô thức bật dậy, chạy ra mộ mèo, xong gặp phải người đàn ông khả nghi kia mới giật mình tỉnh giấc. Tôi đoán lúc đó Suzuko vẫn trong trạng thái nửa tỉnh nửa mơ, nhưng nếu cô bé nhớ chính xác thì kẻ kia ngồi ngay chỗ mộ mèo, đeo khẩu trang to che gần hết mặt, tựa hồ muốn giấu đi vết thương ở mép. Suzuko hét lên toan chạy trốn thì hắn liền vươn tay phải ra giữ cô bé lại. Bàn tay đó chỉ có ba ngón… Suzuko kể thế. Lúc trước tôi cũng bảo anh rồi nhỉ? Đầu óc cô bé không được bình thường, xem chừng hơi kém phát triển. Có thể điều cô bé kể rất khó tin, chẳng đâu vào đâu, nhưng ít ra với tôi cô bé là người đáng tin nhất trong nhà này. Chí ít Suzuko không cố ý nói dối. Cô bé bảo nhìn thấy thì nhất định là đã tận mắt chứng kiến. Ngoài ra vẫn còn chứng cứ khác xác thực việc tên ba ngón kia từng lảng vảng quanh đây.”
“Chứng cứ? Là gì thế ạ?”
“Là thế này… Tờ mờ sáng, bọn tôi đến tìm kiếm quanh mộ mèo lần nữa xem có phát hiện được dấu chân không. Đáng tiếc là lá rụng quá nhiều nên không thể thấy dấu chân, đổi lại phát hiện ra chứng cứ còn xác thực hơn. Ấy là dấu tay, dấu tay chỉ có ba ngón.”
“Dấu tay ở đâu ạ?”
“Trên bia… Trên tấm bia cắm nơi mộ con mèo có lưu lại rất rõ dấu tay ba ngón, dính đầy bùn đất.”
Kindaichi lại chu môi, phát ra âm thanh nghe như huýt sáo. “Vậy dấu tay đó đúng là của tên ba ngón ạ?”
“Ừ, sớm nay cảnh sát tới điều tra và xác nhận đúng là của hắn. Vì thế không nghi ngờ gì cả, tối qua con quỷ ba ngón kia đã lại tới đây.”
Ginzo kiên định nhìn thẳng vào Kindaichi. Song trong ánh mắt ông rõ ràng vẫn có nét hoài nghi.
“Nấm mộ mèo kia được đắp từ bao giờ ạ?”
“Nghe bảo là chập tối qua. Xác mèo đã chôn ở đó từ sáng hôm kia, tức là sáng hôm hôn lễ, nhưng lúc ấy chưa kịp dựng bia mộ. Đến hôm qua Suzuko mới nhõng nhẽo đòi Saburo làm cho, xong tới chập tối thì cùng cô hầu Kiyo đem ra dựng. Cảnh sát cũng đã thẩm vấn Kiyo. Câ ta khẳng định khi đó trên bia không có dấu tay nào. Tấm bia bằng gỗ mộc, nên nếu dính gì thì Kiyo hay Suzuko sẽ phát hiện ra ngay.”
“Vậy là tối qua tên ba ngón đã quay lại thật? Nhưng hắn quay lại với mục đích gì? Lại còn đụng tay vào mộ mèo nữa chứ?”
“Saburo cho rằng nhất định hung thủ để quên gì đó nên phải quay lại lấy. Suzuko cũng bảo có người đã đào mộ mèo, hình dạng nấm mộ không giống hôm qua nữa. Cảnh sát đã đào lên kiểm tra ngay.”
“Thế có tìm thấy gì không ạ?”
“Không, chẳng thu được gì cả. Trong chiếc hộp gỗ mộc cỡ vừa chẳng có gì ngoài xác con mèo nhỏ.”
“Con mèo được chôn vào sáng hôm kia, chú nhỉ?”
“Đúng thế. Tối đó thì hôn lễ diễn ra. Suzuko kể cô bé bị mẹ mắng vì xác mèo để lâu sẽ rất gở, nên sáng sớm ngày 25 đã đem chôn con mèo. Như đã nói ban nãy, tôi hoàn toàn tin lời cô bé.”
Không lâu sau đó Kindaichi bắt đầu đi xem xét hiện trường.
Khi có án mạng xảy ra, thông thường trừ cảnh sát, không ai được tùy tiện đi lại quanh hiện trường, vậy mà Kindaichi lại được tự do ra vào. Cả dân làng lẫn người nhà Ichiyanagi đều cảm thấy hết sức kì lạ. Cụ già kể chuyện cho tôi cũng từng bảo, “Cậu trai đó chỉ cần thì thầm mấy câu là viên chỉ huy lập tức thay đổi thái độ, quay ra răm rắp nghe lời. Thấy vậy ai chẳng nể cậu ta.”
Ngay qua việc đó chàng thanh niên bí ẩn đã để lại ấn tượng sâu sắc cho dân làng. Tuy nhiên, theo như anh F kể thì sự tình đơn giản là do Kindaichi mang theo giấy giới thiệu của một cán bộ cấp cao ở trung ương.
“Nghe nói trước khi tới đây, cậu ta đã tham gia điều tra vụ án nào đó Ở Osaka. Hình như vụ đó khá lớn, nên cậu ta được người của Cục Cảnh sát Bộ Nội vụ cấp cho giấy tờ giới thiệu kiêm chứng minh thân phận. Giới chức địa phương có thể không sợ trời không sợ đất, nhưng nhìn thấy giấy giới thiệu của trung ương thì nhất định phải đối đãi tử tế. Đến cả cảnh sát trưởng hay trưởng ban tư pháp[36] cũng phải nể nang cậu ta mấy phần.”
Nói vậy nhưng không hắn chỉ vì giấy giới thiệu mà cảnh sát trưởng và trưởng ban tư pháp có thiện cảm đặc biệt với Kindaichi. Qua nhiều câu chuyện được nghe, tôi đoán có lẽ chính thái độ khiêm nhường cùng ngữ điệu đậm chất địa phương của chàng thanh niên đã vô tình lôi cuốn người xung quanh. Chỉ cần anh nhờ, mọi người đều sẽ hết lòng giúp đỡ.
Chỉ huy Isokawa phụ trách vụ án này cũng là một người bị Kindaichi mê hoặc. Suốt buổi sáng, Isokawa chỉ huy hội thanh niên làng tìm kiếm khắp nơi, quá trưa mới quay về dinh thự Ichiyanagi. Vừa gặp Kindaichi, Isokawa đã lập tức bị thu hút. Viên chỉ huy kể cho anh nghe toàn bộ kết quả điều tra được. Trong số đó, Kindaichi dường như hứng thú nhất với bức ảnh người đàn ông ba ngón và mấy mẩu nhật kí cháy sót. Lúc nghe đến, anh đã tủm tỉm cười rất vui rồi giơ tay gãi mái đầu bù xù. Đây là thói quen mỗi khi Kindaichi phấn khích.
“Bức… Bức ảnh và mấy mẩu nhật kí cháy sót hiện đang ở đâu?”
“Ở chỗ cảnh sát thị trấn So—, nếu cần tôi sẽ đem tới cho cậu xem.”
“Phiền… Phiền anh quá. Các quyển album và nhật kí khác vẫn trong thư phòng chứ?”
“Đúng vậy. Cậu muốn xem thì để tôi dẫn đi.”
“Vâng, vâng. Nhờ… Nhờ anh…”
Kindaichi theo chân Isokawa đến thư phòng của Kenzo, loạt soạt giở bừa vài quyển album và nhật kí ra xem rồi để lại chỗ cũ.
“Tôi sẽ thong thả xem xét chỗ này sau. Giờ tôi ngó qua hiện trường được không?”
Hai người rời khỏi thư phòng. Vừa ra đến cửa, Kindaichi bỗng đứng sững lại, như vừa ngẫm ra điều gì đó.
“Chỉ huy.” Một lát sau, Kindaichi quay sang nhìn Isokawa, vẻ mặt vô cùng khó hiểu. “Chỉ huy, tại sao anh không kể chuyện đó cho tôi?”
“Chuyện đó… là chuyện gì?”
“Kia kìa, mấy cuốn sách xếp đầy trên tủ. Chúng… chúng là tiểu thuyết trinh thám mà?”
“Tiểu thuyết trinh thám? À ừ, đúng vậy. Nhưng tiểu thuyết trinh thám thì liên quan gì tới vụ án này?”
Kindaichi không đáp. Anh xộc tới trước tủ sách, thở hổn hển, mắt trợn tròn, say đắm ngắm kho tàng tiểu thuyết trinh thám được sắp xếp hết sức cẩn thận, ngay ngắn trên tủ.
Kindaichi bất ngờ đến thế âu cũng dễ hiểu thôi. Trên tủ sách là đủ loại tiểu thuyết trinh thám trong và ngoài nước. Xưa nhất là sách của Kuroiwa Ruiko, rồi Conan Doyle toàn tập, tuyển tập Arsène Lupin, tuyển tập tiểu thuyết trinh thám dịch từ tiếng nước ngoài của các nhà xuất bản Hakubunkan và Heibonsha. Tác phẩm Nhật thì có của Edogawa Ranpo, Kosakali Fuboku, Koga Saburo, Oshita Udaru, Kigi Takataro, Unno Juza, Oguri Mushitaro… không sót cuốn nào. Ngoài ra còn rất nhiều bản nguyên tác các tác phẩm của Ellery Queen, John Dickson Carr, Freeman WIlls Crofts, Agatha Christie… Số lượng đủ để mở cả thư viện tiểu thuyết trinh thám.
“Rốt… Rốt… Rốt cuộc kho… kho sách này là của ai… ai vậy?”
“Của Saburo đấy. Cậu ta cực kì hâm mộ tiểu thuyết trinh thám.”
“Sa… Sa… Saburo chính là người thụ hưởng tiền bảo hiểm của Ke… Ken… Kenzo mà ban nãy anh kể ư? Cậu ta có chứng cứ ngoại phạm xác thực nh… nh… nhất phải không?”
Kindaichi lại vô thức đưa tay sột soạt gãi mái đầu tổ quạ.
Sau khi phá xong vụ án này, Kindaichi Kosuke từng phát biểu cảm nghĩ như sau.
“Nói thật, ban đầu tôi không hứng thú với vụ án này lắm. Đọc báo là đủ thấy người đàn ông ba ngón kia rất khả nghi. Dĩ nhiên vẫn còn nhiều nghi vấn và uẩn khúc khác, song nhìn chung chúng dễ chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên, không liên quan đến cốt lõi vụ án. Nếu gỡ từng lớp màn ngẫu nhiên đó xuống, cuối cùng sẽ lộ ra tội ác do tên ăn mày ba ngón gây ra… Tôi những tưởng vụ án này cũng sẽ diễn tiến theo lối mòn ấy, giống bao vụ khác. Nể ân tình của chú Ginzo nên tôi mới đến, chứ cứ bị lôi tới mấy vụ án tầm thường suốt thì chịu sao thấu. Đó chính xác là tâm trạng tôi lúc bước qua cánh cổng dinh thự Ichiyanagi. Nhưng từ khi trông thấy hàng đống tiểu thuyết trinh thám trong và ngoài nước xếp trên tủ sách của Saburo, tôi lập tức hứng thú hơn hẳn. Trong dinh thự vừa xảy ra một vụ “án mạng trong phòng kín’, mà ở đây lại có rất nhiều tiểu thuyết trinh thám cùng đề tài ấy. Chẳng nhẽ là ngẫu nhiên? Không, phải chăng vụ án này không đơn giản như trước nay mọi người vẫn nghĩ, mà là một tội ác được lên kế hoạch tỉ mỉ? Phải chăng những cuốn tiểu thuyết trinh thám ở đây là tài liệu tham khảo giúp hung thủ vẽ nên kế hoạch ấy? Khi nghĩ đến khả năng đó, tôi bỗng thấy vui khôn tả. Hung thủ đưa ra đề bài “án mạng trong phòng kín” để thách thức kẻ khác. Hắn thách mọi người đấu trí với hắn. Được thôi, tôi chấp nhận thử thách. Hãy đấu trí nào. Tôi đã nghĩ vậy đấy.”
Tuy nhiên, lúc đó Isokawa hẳn đã cho rằng phản ứng đầy hào hứng của Kindaichi thật trẻ con và ngớ ngẩn.
“Sao thế? Chỉ là tiểu thuyết trinh thám thôi mà. Chẳng phải cậu muốn đi xem hiện trường ư? Còn chần chừ nữa là tối mất đấy.”
“À, vâ… vâng.”
Ban nãy Kindaichi có lựa năm, sáu cuốn tiểu thuyết trên tủ sách xuống, lật qua vài trang. Anh mải mê đến mức Isokawa phải nhắc mới sực nhận ra và đặt lại chúng lên tủ với vẻ tiếc nuối. Thấy thế, viên chỉ huy tốt bụng không nhịn cười nổi.
“Xem ra cậu thích tiểu thuyết trinh thám quá nhỉ?”
“À, cũng… cũng không hẳn. Tại tham khảo được nhiều điều từ chúng nên tôi mới quyết định xem qua. Anh dẫn đường đi ạ.”
Như đã kể, hôm ấy lực lượng điều tra viên và cảnh sát tuần tra đều phải lên núi lùng sục hung thủ nên ở hiện trường không có ai. Do đó Isokawa cứ thế tự xé bỏ niêm phong ở cửa chính rồi dẫn Kindaichi vào căn biệt thất.
Biệt thất khá tối vì toàn bộ cửa chớp đều đang đóng kín, chỉ có chút ánh sáng lờ mờ rọi qua vách thông gió ở hành lang. Cái lạnh của buổi chiều muộn cuối tháng Mười một bao phủ gian phòng, khiến con người ta rét run cả ngoài da thịt lẫn trong tâm hồn.
“Tôi mở cửa chớp nhé?”
“Đừng, tạm thời cứ để nguyên đi ạ.”
Nghe thế Isokawa bèn bật đèn bên gian tám chiếu.
“Ngoại trừ thi thể, mọi thứ đều nguyên như lúc phát biện ra án mạng. Bình phong đổ, trải dài như bắc cầu giữa cửa sổ cạnh hộc tường và cửa trượt mở toang. Đằng sau bình phong, bên trong phòng, là cô dâu và chú rể ngã đè lên nhau.”
Isokawa thuật lại tỉ mỉ vị trí hai nạn nhân lúc đó. Kindaichi vừa nghe vừa ậm ờ phụ họa.
“Tôi hiểu rồi. Vậy là chú rể ngã xuống, đầu hướng về phía chân cô dâu nhỉ?”
“Đúng, đúng rồi. Anh ta ngã ngửa, đầu rơi ở vị trí trên đầu gối cô dâu. Có gì lát nữa tôi cho cậu xem ảnh.”
“Vâng, xin nhờ anh…”
Sau đó Kindaichi chuyển sang xem xét ba dấu móng gảy dính máu lưu trên bình phong. Ba dấu móng gảy đã thẫm lại, màu như dâu tây chín nẫu, nổi bật trên lớp mạ vàng rực rỡ. Từ dấu móng gảy lên đến mép trên của bình phong có một vết chém khá nông, hơi dính máu. Chắc là trong lúc hung thủ vung kiếm, mũi kiếm dính máu đã sượt qua bình phong. Kindaichi tiếp tục kiểm tra cây đàn tranh đứt dây. Dấu máu trên dây đàn đã ngả đen như màu gỉ sắt.
“Sau đó các anh phát hiện con nhạn trong đống lá rụng ngoài sân ư?”
“Đúng. Qua đó suy ra hung thủ nhất định đã chạy ra khoảng sân phía Tây.”
Kindaichi quan sát 12 con nhạn còn lại rồi chợt ngẩng đầu lên, lắp bắp gọi Isokawa.
“Chỉ huy, chỉ huy, lại… lại… lại đây mà xem.”
Isokawa vội vàng ngó sang xem có chuyện gì.
“Sao… Sao… Sao vậy?”
“Ha ha ha, chỉ huy xấu tính thật. Không cần học tôi nói cà lăm đâu.”
“Không. Không phải, tôi nhất thời lây cậu thôi. Thế có chuyện gì?”
“Anh nhìn con nhạn này đi. 11 con giống y như nhau, trên thân khắc nổi hình chim và sóng. Riêng con này thì không. Đây không phải con nhạn của đàn này.”
“Ồ, ừ nhỉ. Thế mà trước giờ tôi không phát hiện ra.”
“À phải rồi, con nhạn tìm thấy trong đống lá thì sao? Chắc phải giống với mấy con này chứ?”
“Phải, phải. Nó cũng được khắc nổi hình chim và sóng. Nhưng mà việc con nhạn khác lẫn vào có ý nghĩa gì à?”
“Vâng, có thể có, cũng có thể không. Nhiều khi do bộ nhạn đàn bị mất một con, nên phải thay con khác vào. Nhân tiện, cái tủ âm tường khả nghi nằm sau bức tường này ư?”
Chú Thích:
[26] Áo khoác tay rộng thường mặc ngoài kimono.
[27] Kasuri. Họa tiết màu trắng (tạo bởi các sợi ngang), nằm cách đều trên nền màu (tạo bởi các sợi dọc đã nhuộm màu), thường xuất hiện trên khăn gói đồ, quần áo của tầng lớp bình dân…
[28] Một loại quần ống rộng xếp li.
[29] Tên tạm dịch từ The Red House M gsterg.
[30] Alan Alexander Milne (1882-1956). Nhà văn, nhà thơ, biên kịch nổi tiếng người Anh. Tác giả của cuốn Gấu Pooh xinh xắn.
[31] Dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu ở Hokkaido, Nhật Bản.
[32] Một loại vải thông dụng dệt từ tơ tằm. Thường dùng để may kimono bình dân cho nữ. Rất được ưa chuộng và phổ biến vì bền đẹp mà giá lại phải chăng.
[33] Kiếm rèn bởi thợ rèn Muramasa. Nổi tiếng là sắc bén và khát máu, được coi là quỷ kiếm.
[34] Kiếm rèn bởi thợ rèn Sadamune cuối thời Kamakura, tương truyền là con của thợ rèn kiếm Masamune.
[35] (2/1904-9/1905), cuộc chiến giữa hai Đế quốc Nga-Nhật nhằm tranh giành ảnh hưởng lên vùng Mãn Châu, Trung Quốc.
[36] Một chức danh trong hệ thống cảnh sát Nhật Bản thời bấy giờ. Phụ trách điều tra án hình sự, thường do người có cấp bậc chỉ huy, phó chỉ huy đảm nhiệm.