CUNG ĐÀN BÁO OÁN

CUNG ĐÀN BÁO OÁN

Tổng số chương: 11

Trước khi bắt tay viết câu chuyện này, bỗng dưng tôi lại muốn ngó qua dinh thự là nơi vụ án kinh hoàng kia đã xảy ra. Nên một chiều đầu xuân, tôi chống ba toong rời nhà, làm chuyến tản bộ tới đó.

Tôi sơ tán về vùng nông thôn tỉnh Okayama này từ tháng Năm năm ngoái. Ở đây, hễ gặp dân làng, tôi lại được nghe kể về vụ án tiếng đàn sát nhân xảy ra với gia tộc Ichiyanagi.

Vốn dĩ khi biết tôi là nhà văn trinh thám, mọi người thường kể cho tôi những vụ án giết người mà họ được mắt thấy tai nghe. Dân ở đây cũng vậy, song tình cờ tất cả luôn nhắc tới cùng một vụ. Thế thôi là đã đủ thấy vụ án này để lại ấn tượng sâu đậm nhường nào với dân địa phương. Tuy nhiên nhiều người trong số họ lại chưa biết đến điều kinh hoàng nhất của vụ án.

Trong những vụ án tôi từng nghe, chẳng có mấy vụ thực sự thú vị như người kể tưởng, hay ít nhất là tôi chưa gặp được vụ nào đáng đem ra làm tư liệu viết tiểu thuyết. Tuy nhiên vụ này thì khác. Mới qua vài chi tiết vụn vặt, tôi đã rất hứng thú. Đến khi biết được chân tướng sự việc qua một người tường tận là anh F, tôi càng phấn khích hơn. Nó hoàn toàn khác với các vụ giết người thông thường, bởi kế hoạch của hung thủ vô cùng tỉ mỉ, hơn nữa còn là “án mạng trong phòng kín”.

Nhà văn trinh thám nào chẳng muốn một lần viết về “án mạng trong phòng kín”. Thật khó cưỡng lại mong muốn phá giải vụ giết người xảy ra trong căn phòng nội bất xuất ngoại bất nhập, nên phần lớn họ đều thử sức với đề tài này ít nhất một lần. Theo lời anh bạn đáng kính Inoue Eizo[1], các tác phẩm của Dickson Carr[2] đều là biến thể của “án mạng trong phòng kín”. Tôi cũng mang danh nhà văn trinh thám, nên định sẽ thử sức khi có dịp. May thay, giờ tôi đã có cơ hội mà chẳng phải tốn công tốn sức. Xem ra tôi phải cảm ơn tên hung thủ tàn nhẫn máu lạnh, kẻ đã dùng phương cách đáng sợ để đâm đôi nam nữ kia.

Lúc mới nghe chân tướng vụ án, tôi liền lục lại kí ức, xem trong số tiểu thuyết từng đọc đã xuất hiện tình tiết tương tự chưa. Đầu tiên là Bí mật căn phòng vàng của Leroux[3]. Sau đó đến Những chiếc răng cọp của Leblanc[4], Án mạng Canary[5] và Án mạng Kennel[6] của Van Dine[7], Vụ mưu sát tại biệt thự Plague Court[8] của Dickson Carr. Cuối cùng là một biến thể của án mạng trong phòng kín, Vụ thảm sát gia đình Angells[9] của Scarlett[10]. Nhưng tình tiết trong những tiểu thuyết ấy đều khác hẳn vụ này. Phải chăng hung thủ đã đọc hết chúng, giải mã từng thủ đoạn, rồi nhặt ra các yếu tố cần thiết, từ đó xây dựng cho mình một cách thức hoàn toàn mới? Dám lắm chứ!

Nếu so sánh thì vụ án này có nhiều điểm tương đồng nhất với Bí mật căn phòng vàng. Tuy nhiên, điểm giống không phải chân tướng sự việc, mà là bầu không khí tại hiện trường. Gian phòng trong vụ án này không dán giấy tường màu vàng, mà thay vào đó, từ cột trụ, trần nhà cho đến xà ngang, cửa chớp đều sơn màu đỏ son. Thật ra nhà màu đỏ son không hiếm ở vùng này. Căn nhà tôi đang ở cũng thế, chỉ khác là khá cũ nên đã ngả sắc đen. Còn gian phòng hiện trường thì vừa được sơn sửa trước khi vụ án xảy ra, nên lúc đó hẳn vẫn đậm sắc đỏ. Chiếu và cửa trượt còn mới tinh, lại thêm bình phong dát vàng quây trước đôi nam nữ nằm trong vũng máu. Quang cảnh xem chừng vô cùng ấn tượng.

Ngoài ra, tiếng đàn tranh xuyên suốt vụ án cũng là yếu tố bí ẩn lôi cuốn tôi. Mỗi lần xảy ra chuyện, tiếng đàn đều vang lên điên cuồng! Tôi vốn không bỏ được tính lãng mạn sến sẩm, nên thấy chi tiết đó có sức hút cực kì khó cưỡng. Giết người trong phòng kín, căn phòng tuyền đỏ son, và tiếng đàn… Vụ án này có quá đủ yếu tố để trở thành tiểu thuyết, nên nếu không viết ra, tôi thật chẳng đáng mặt nhà văn nữa.

Hơi lan man rồi. Nhà tôi cách hiện trường vụ án là dinh thự gia tộc Ichiyanagi khoảng mười lăm phút đi bộ. Dinh thự nằm ở làng Oka—, xóm Yamanotani. Y như cái tên, xóm này có ba mặt giáp núi[11], núi non không cao lắm, uốn lượn tựa chân loài sao biển vươn ra vùng đồng bằng. Và ở một mũi chân của sao biển chính là dinh thự rộng lớn của gia tộc Ichiyanagi.

Phía Tây dãy núi “chân sao biển” kể trên có một dòng suối, còn phía Đông là con đường nhỏ dẫn sang làng Ku—, xuống tới vùng đồng bằng không bao xa thì dòng suối giao với con đường, tạo nên khu đất hình tam giác méo mó, diện tích hơn sáu nghìn năm trăm mét vuông. Dinh thự gia tộc Ichiyanagi nằm trên khu đất đó, Bắc giáp rìa núi, Tây sát dòng suối, Đông nhìn ra con đường dẫn tới làng Ku—. Cổng chính của dinh thự dĩ nhiên hướng ra con đường này.

Đầu tiên, tôi đi đến trước cổng chính của dinh thự. Cánh cổng lớn màu đen gắn nhũ sắt[12], hai bên là tường bao sừng sững, dài hơn hai trăm mét. Nhòm qua cổng thì thấy bên trong lớp tường ngoài còn một lớp tường nữa che kín khuôn viên dinh thự. Quả là nhà quyền thế.

Tôi bèn vòng sang mạn Tây, men theo dòng suối ngược lên phía Bắc. Đến chỗ cuối bức tường bao, tôi băng qua cây cầu đất đằng sau cái guồng nước hỏng để lên vách núi nằm ở phía Bắc, nơi có một rừng tre. Tôi len vào bụi tre rậm rạp ở rìa vách để nhìn về phía Nam. Cảnh trí khu dinh thự thu hết vào tầm mắt.

Trước hết, tôi để mắt tới mái căn biệt thất nằm ngay dưới vách núi. Án mạng xảy ra ngay dưới lớp mái này. Nghe nói đây vốn là nơi gia chủ đời trước xây để ẩn cư dưỡng già. Bên trong có một gian tám chiếu và một gian sáu chiếu. Biệt thất dẫu nhỏ song vẫn là nơi ẩn cư, nên sân vườn được thiết kế rất kì công, từ Nam qua Tây bày trí nhiều cây cảnh và non bộ tới mức hơi quá đà.

Chuyện về biệt thất sau này tôi sẽ kể chi tiết hơn, còn giờ thì phóng tiếp tầm mắt về phía Nam sẽ thấy căn nhà chính một tầng rộng rãi quay mặt về hướng Đông, tiếp đến là nhà của chi thứ, nhà kho hay lán nằm không theo quy tắc. Nhà chính được ngăn cách với biệt thất bằng hàng rào tre, thông nhau chỉ qua một cánh cửa tre nhỏ. Cả rào lẫn cửa tre giờ đều đã hư hỏng nặng, không sao nhìn ra hình dạng ban đầu, nhưng lúc vụ án xảy ra thì hẵng còn mới và kiên cố. Chính chúng đã ngăn mọi người từ nhà chính ập tới hiện trường ngay sau khi nghe thấy tiếng la hét.

Vậy là đã nhìn bao quát xong một lượt dinh thự gia tộc Ichiyanagi nên tôi rời bụi tre, qua ủy ban làng Oka—.

Ủy ban nằm ở mé Nam của làng, mấy dãy nhà dân chạy tới đây là hết. Từ đây đi tiếp về phía Nam cho tới khi gặp làng Kawa sẽ toàn là đồng ruộng. Giữa các cánh đồng là con đường thẳng tắp, rộng độ ba, bốn mét. Cứ thẳng đường này đi bộ khoảng bốn mươi phút sẽ tới ga tàu hỏa, Vì thế, những người ngồi tàu tới đây sau đó muốn vào làng thì kiểu gì cũng phải đi theo con đường này, qua phía trước ủy ban.

Đối diện ủy ban là một căn nhà có phần nền đất[13] rộng, mặt ngoài lắp cửa kính thô sơ. Đây vốn là một tiệm cơm nhỏ, nơi nghỉ chân dành cho dân thồ hàng bằng ngựa. Tiệm cơm này liên hệ mật thiết với vụ án mạng xảy ra tại dinh thự Ichiyanagi, bởi là nơi đầu tiên người đàn ông bí ẩn với bàn tay phải chỉ có ba ngón ghé vào.

Chuyện bắt đầu vào chiều tối 23 tháng Mười một năm 1937, hai ngày trước khi án mạng xảy ra.

Bên ngoài tiệm cơm, bà chủ tiệm ngồi ghế gấp, đang tán gẫu với một cán bộ ủy ban và một dân thồ hàng là khách quen. Bỗng từ hướng làng Kawa có người đàn ông lê bước tới.

“Xin hỏi đi lối nào thì tới được nhà Ichiyanagi ạ?”

Đang nói dở câu chuyện, nghe hỏi, bà chủ tiệm, viên cán bộ ủy ban và tay dân thồ hàng bèn cùng quan sát trang phục của người đàn ông rồi nhìn nhau. Cả ba đều thấy lạ vì hắn có vẻ ngoài vô cùng nhếch nhác, chẳng ra dáng có quan hệ với gia tộc lớn như Ichiyanagi chút nào. Đầu đội mũ tai bèo nhăn nhúm, mặt đeo khẩu trang to, tóc tai bờm xờm thò ra bên dưới mũ, râu ria lởm chởm từ cằm lên tới má, dáng vẻ cực đáng nghi. Hắn không mặc áo khoác nhưng cổ chiếc áo đang mặc lại cài kín như sợ lạnh. Áo quần đầy bụi bẩn, vị trí khuỷu tay và đầu gối bị mài đến bạc phếch. Đôi giày há mõm, bụi bám trắng bệch. Trông hắn cực kì mệt mỏi, tuổi độ trên dưới ba mươi.

“Nhà Ichiyanagi đằng kia kìa, nhưng cậu tìm nhà ấy có việc gì?”

Trước ánh nhìn chòng chọc của viên cán bộ ủy ban, người đàn ông chớp mắt như bị chói, miệng lẩm bẩm gì đó sau lớp khẩu trang.

Đúng lúc ấy, cũng từ hướng làng Kawa—, một chiếc xe kéo chạy ngang qua. Bà chủ tiệm thấy thế liền bảo, “Này cậu gì ơi, gia chủ nhà Ichiyanagi mà cậu hỏi vừa mới đi qua đấy.”

Ngồi trên xe là một người đàn ông trạc tứ tuần, da ngăm, vẻ mặt nghiêm nghị. Anh ta mặc âu phục đen, ngồi ngay ngắn, mắt nhìn thẳng, không hề ngó ngang liếc dọc. Má hóp, mũi thẳng cao, trông qua có vẻ khó gần.

Đó chính là Kenzo, gia chủ nhà Ichiyanagi. Chiếc xe kéo chở anh ta chạy ngang qua trước mặt mấy người kia rồi mất hút ở ngã rẽ.

“Bà chủ này, nghe nói gia chủ nhà Ichiyanagi sắp lấy vợ. Có thật không?” Không thấy bóng dáng xe kéo đâu nữa, tay dân thồ hàng mới hỏi.

“Thật đấy. Nghe bảo ngày kia là tổ chức đám cưới rồi.”

“Ơ, sao gấp gáp vậy?”

“Cưới vợ phải cười liền tay. Xem ra anh ta định kết hôn bằng mọi giá. Đúng kiểu người một khi đã quyết là làm.”

“Thế mới thành học giả nổi tiếng được chứ. Có điều bà lớn nhà ấy chấp nhận rồi cơ à?” Viên cán bộ uỷ ban góp lời.

“Đương nhiên trong lòng bà ấy nào có chịu, nhưng nghe nói cũng bó tay mặc kệ rồi. Càng phản đối anh ta càng kiên quyết làm theo ý mình thôi.”

“Gia chủ nhà Ichiyanagi bao nhiêu tuổi rồi? Bốn mươi?”

“Vừa đúng bốn mươi. Lại còn kết hôn lần đầu nữa.”

“Tình yêu tuổi trung niên coi bộ còn nồng nhiệt hơn đám thanh niên ấy nhỉ.”

“Nghe đâu cô dâu mới hai lăm, hai sáu gì đó, hình như là con gái ông Rin. Đúng là chuột sa chỉnh gạo, à không, sa mỏ vàng chứ nhở? Cô ấy xinh đẹp thế cơ à?”

“Cũng chưa đến mức sắc nước hương trời. Song vì là giáo viên trường nữ sinh, lại tháo vát giỏi giang, nên mới lọt vào mắt xanh gia chủ nhà Ichiyanagi. Xem ra từ nay về sau con gái mà không có giáo dục là vứt.”

“Bà chủ cũng muốn vào trường nữ sinh để câu được đức lang quân giỏi giang sao?”

“Ôi sao anh biết!” Ba người nhìn nhau, không nhịn được mà cười phá lên. Đúng lúc ấy, người đàn ông ban nãy khúm núm chen lời.

“Bà chủ ơi, cho tôi xin ngụm nước được không? Tôi khát quá…”

Ba người ngạc nhiên ngoái đầu nhìn lại. Họ quên bẵng là người đàn ông vẫn còn ở đây. Bà chủ dò xét, rồi rót cho hắn cốc nước. Hắn liền cảm ơn, đón lấy cốc nước rồi gỡ khẩu trang ra. Lập tức, ba người kia không hẹn mà quay ra nhìn nhau.

Má phải của người đàn ông hằn một vết sẹo rất lớn và sâu, kéo thẳng từ khóe môi lên gò má, như thể miệng hắn từng rách toạc. Xem ra hắn đeo khẩu trang không phải vì ốm hay để chắn bụi, mà nhằm che vết sẹo này. Không những thế, bàn tay phải đang cầm cốc của hắn càng khiến họ dựng tóc gáy. Bàn tay chỉ còn ba ngón, là ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa. Ngón út và áp út đã cụt mất một nửa.

Uống nước xong, người đàn ông ba ngón khách sáo cảm ơn rồi lảo đảo bước về hướng nhà Ichiyanagi, bỏ lại ba người phía sau nhìn nhau thở phào nhẹ nhõm.

“Hắn ta… là ai thế?”

“Tìm nhà Ichiyanagi có việc gì nhỉ?”

“Tên dị hợm! Cải miệng trông thấy mà ghê! Tôi không dùng lại cái cốc này nữa đâu.”

Quả nhiên bà chủ không đụng tới nữa mà nhét cái cốc vào góc tủ. Nhờ vậy, sau này nó trở thành vật chứng quan trọng trong vụ án.

Thưa các bạn độc giả yêu thích truyện trinh thám và có con mắt nhìn thấu chân tướng sự việc qua những trang sách. Đọc đến đây hẳn các bạn đã biết tiếp theo tôi muốn nói gì. Gảy đàn chỉ cần ba ngón tay. Với đàn tranh, chỉ cần ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa là có thể tấu nhạc…

Theo lời bô lão trong làng thì Ichiyanagi là hộ giàu có nhất vùng. Song gia tộc đó vốn không phải gốc ở làng này, nên những người dân quê đầy định kiến chẳng nói được câu nào hay ho khi nhắc đến họ.

Trước đây gia tộc Ichiyanagi sống ở làng Kawa—, xưa kia nằm bên trục đường Chugoku[14] Thời Edo, làng Kawa— từng là một trạm nghỉ trên đường, và Ichiyanagi chính là nhà được chọn làm dịch trạm[15] trong trạm nghỉ. Tuy nhiên, tới thời Minh Trị Duy tân, gia chủ bấy giờ là người biết thời thế, ngay khi Mạc phủ sụp đổ đã lập tức chuyển nhà tới làng Oka—, rồi nhân lúc thời cuộc rối ren lại thu mua ruộng đất với giá chỉ ba cọc ba đồng nên chẳng mấy chốc trở thành đại địa chủ. Cũng vì thế dân làng thường nói xấu sau lưng, gọi gia tộc Ichiyanagi là đám kappa[16] lên hương, ám chỉ việc nhà Ichiyanagi từ làng Kawa lên xóm Yamanotani[17].

Quay lại câu chuyện thì vào khoảng thời gian vụ án kinh hoàng xảy ra, trong cơ ngơi của gia tộc Ichiyanagi có những người sau sinh sống.

Đầu tiên là phu nhân Itoko, hồi đó 57 tuổi, góa phụ của gia chủ đời trước. Bà ta thường búi kiểu tóc trẻ hơn tuổi và luôn ra vẻ tự hào, cố giữ nét đạo mạo của hậu duệ dịch trạm trong mọi trường hợp. “Bà lớn” mà dân làng ám chỉ chính là vị phu nhân này.

Phu nhân Itoko có năm người con, song lúc vụ án xảy ra thì chỉ ba người ở nhà. Con trai cả là Kenzo, tốt nghiệp khoa Triết học của một trường đại học dân lập ở Kyoto. Hồi trẻ từng làm giảng viên cho trường cũ trong hai, ba năm, sau đó vì mắc bệnh hô hấp nên đành hồi hương, rồi chỉ quanh quẩn ở nhà. Anh ta rất ham học, dù sống ở quê vẫn không hề chểnh mảng nghiên cứu, thi thoảng còn viết sách và gửi bài cho tạp chí, là một học giả có tiếng trong ngành. Anh ta đã 40 mà vẫn chưa kết hôn, chủ yếu là bởi mải nghiên cứu, chứ chưa hẳn do sức khỏe không tốt.

Dưới Kenzo lần lượt là em gái tên Taeko và em trai tên Ryuji. Taeko lấy một nhân viên văn phòng và lúc ấy đang cùng chồng ở Thượng Hải nên không liên quan tới vụ án. Còn Ryuji là bác sĩ của một bệnh viện lớn ở Osaka, đêm xảy ra vụ án không có mặt tại dinh thự. Tuy nhiên Ryuji cũng về ngay sau khi vụ việc diễn ra, nên không thể nói là hoàn toàn vô can. Năm đó anh ta 35 tuổi.

Sau khi sinh Ryuji, suốt một thời gian dài phu nhân Itoko không mang thai thêm nữa. Bà cho rằng bản thân sẽ không sinh nở thêm, ấy vậy mà mười năm sau lại hạ sinh đứa con trai thứ ba tên Saburo, tám năm sau đó thì thêm cô út Suzuko. Bấy giờ Saburo 25, còn Suzuko 17.

Saburo là kẻ kém cỏi nhất trong số các anh chị em. Bị đuổi khi đang học trung học, y vào một trường dạy nghề dân lập ở Kobe, song bỏ giữa chừng. Sau chẳng theo nghề ngỗng gì, chỉ lười biếng nằm nhà. Y không phải người tối dạ, chẳng qua làm việc gì cũng thiếu nhẫn nại, lại thêm con người có phần giảo hoạt nên trong làng ai nấy đều coi thường.

Cuối cùng là cô út đáng thương Suzuko. Chắc do chào đời khi cha mẹ tuổi tác đã cao, nên cô bé rất yếu ớt, nhiều bệnh, như hoa mọc nơi thiếu sáng. Trí tuệ hơi chậm phát triển, nhưng xét mặt nào đó, tỉ như diễn tấu đàn tranh thì lại có thiên phú hơn người. Dẫu vậy nhìn chung cô bé còn ngô nghê hơn mấy đứa nhỏ mới lên bảy lên tám.

Vừa rồi là thông tin sơ lược về các thành viên trong gia đình Ichiyanagi. Nhưng trong dinh thự khi đó còn một nhà chi thứ nữa cũng sinh sống. Nhà chi thứ này gồm em họ của Kenzo là Ryosuke, 38 tuổi, cùng vợ là Akiko và ba con. Mấy đứa trẻ nhà ấy đương nhiên không liên quan tới vụ án đáng sợ này, nên ngay từ đầu tôi sẽ không tính tới chúng.

Ryosuke thuộc kiểu người hoàn toàn trái ngược với Kenzo. Chỉ học hết tiểu học nhưng Ryosuke rất giỏi tính toán, lại thức thời nên là nhân vật thích hợp nhất với vị trí quản gia nhà Ichiyanagi. Con trưởng cứng đầu, con trai thứ hai không sống cùng gia đình, con trai thứ ba thì không đáng tin cậy, nên phu nhân Itoko càng dễ mở lòng và thường xuyên tâm sự với Ryosuke. Akiko, vợ Ryosuke, thì là người phụ nữ rất đỗi bình thường, không tốt cũng chẳng xấu, luôn răm rắp nghe lời chồng.

Tính cả chi chính lẫn chi thứ, trong nhà Ichiyanagi khi đó có tổng cộng sáu người là phu nhân Itoko, Kenzo, Saburo, Suzuko, Ryosuke, Akiko. Họ bình lặng sống bên nhau trong bầu không khí đậm chất bảo thủ, phong kiến. Và cuộc hôn nhân của gia chủ Kenzo đột nhiên mang sóng gió tới cho cuộc sống yên ả ấy. Hôn thê của Kenzo là Kubo Katsuko, giáo viên trường nữ sinh ở thành phố Okayama. Gia đình Ichiyanagi phản đối cuộc hôn nhân không phải vì ghét Katsuko, mà bởi họ có thành kiến với xuất thân của cô.

Hiện nay trên thành phố, từ “gia thế” đã thành ra ngôn ngữ chết, nhưng cứ thử về nông thôn mà xem, nó vẫn đầy sức ảnh hưởng, đủ để chi phối mọi việc. Từ sau lần Nhật thua trận vừa rồi[18], xã hội Nhật hỗn loạn hơn, người nông dân không còn cúi đầu trước thân phận, địa vị hay tiền tài như xưa. Những thứ ấy bây giờ đang ào ào sụp đổ. Nhưng gia thế thì khác. Tới nay, niềm kiêu hãnh thế gia, sự tôn kính, ngưỡng mộ dành cho danh gia vọng tộc vẫn có sức ảnh hướng lớn ở thôn quê. Danh gia vọng tộc đối với người dân quê không nhất thiết phải mang dòng máu cao quý theo góc nhìn của thuyết ưu sinh hay di truyền học. Chỉ cần mấy đời làm quan cai hay lý trường dưới thời Mạc phủ là có thể coi như danh gia vọng tộc, dẫu cho gia tộc ấy có bệnh di truyền đi chăng nữa. Đấy, thời đại mới này còn vậy thì nói gì đến hồi năm 1937. Gia tộc Ichiyanagi vốn tự hào hết nấc về dòng máu hậu duệ của gia tộc được chọn làm dịch trạm, sao có thể không coi trọng chuyện gia thế của Katsuko.

Cha của Kubo Katsuko trước kia là tá điền ở làng. Tuy làm tá điền nhung rất có bản lĩnh. Thấy cuộc sống ở làng không có tiền đồ, ông liền cùng em trai qua Mỹ, vừa làm việc tại vườn cây ăn quả vừa tích cóp tiền. Sau khi tiết kiệm được mấy chục nghìn yên[19], hai anh em trở về quê hương, đầu tư một vườn cây ăn quả cách làng khoảng bốn mươi cây số, trồng theo kĩ thuật học được bên Mỹ. Hai người đều kết hôn muộn nên Katsuko vừa chào đời thì người anh, tức cha cô mất. Cha khuất núi, mẹ về ngoại, Katsuko do chú nuôi dạy nên người. Thấy Katsuko bản tính cần cù ham học, người chú cũng không tiếc tiền cho cô học hành. Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm nữ ở Tokyo, Katsuko được nhận vào giảng dạy ở trường nữ sinh của thành phố Okayama, gần quê nhà.

Vườn cây ăn quả do cha và chú của Katsuko gây dựng làm ăn khá thành công, người chú còn cẩn thận để riêng phần tài sản thừa kế cho cô, nên cô làm giáo viên ở trường nữ sinh vì tính tự giác của bản thân chứ không phải để mưu sinh. Cô có tài sản riêng đàng hoàng, nhưng dưới con mắt nhà Ichiyanagi, thì dù gia giáo, thông minh, nhiều tiền đến đâu, con của tá điền vẫn là con của tá điền. Là tầng lớp bần nông, không gia thế. Là con gái của Kubo Rinkichi.

Kenzo quen biết Katsuko qua lần nhận lời đến diễn thuyết tại buổi Tọa đàm tri thức trẻ ở Kurashiki do Katsuko phụ trách. Từ đó về sau, mỗi khi đọc sách vở nước ngoài mà gặp chỗ không hiểu, Katsuko lại tới hỏi Kenzo. Sau khoảng một năm qua lại thì đột nhiên Kenzo tuyên bố muốn kết hôn với cô.

Như đã đề cập ở trước, gia tộc Ichiyanagi ai nấy đều phản đối cuộc hôn nhân này. Cũng dễ dàng đoán ra gay gắt nhất là phu nhân Itoko và Ryosuke. Còn trong số các anh em, cô em Taeko gửi thư cho anh trai, tỏ ý kiên quyết phản đối. Duy chỉ có em trai Ryuji là viết thư thuyết phục mẹ chấp thuận quyết định của Kenzo, bởi hiểu rõ anh trai là người đã nói là làm. Tuy nhiên Ryuji không thư từ trực tiếp với Kenzo về vấn đề này.

Vậy Kenzo phản ứng thế nào trước thái độ của gia đình? Từ đầu đến cuối anh ta chỉ im lặng, hoàn toàn không phản bác. Kết quả, tĩnh khắc chế động, nước dập được lửa. Mọi người phản đối mãi cũng mệt, nói mãi cũng khản cổ, dần dà giã đám, cuối cùng chỉ biết nhún vai cười trừ, chấp nhận thất bại.

Và rồi lễ cưới được tổ chức vào ngày 25 tháng Mười một. Chính đêm hôm đó, vụ án kinh hoàng xảy ra.

Tuy nhiên, trước khi đi sâu vào tấn thảm kịch, tôi muốn kể thêm vài ba câu chuyện nhỏ. Ngẫm lại thì chúng tựa như khúc dạo đầu của vụ án.

Một ngày trước hôm vụ án xảy ra, tức chiều 24 tháng Mười một, phu nhân Itoko và Kenzo ngồi uống trà trong phòng khách. Cả hai trông rất gượng gạo. Bên cạnh là Suzuko đang mặc quần áo cho búp bê. Cô bé luôn yên lặng chơi một mình, hoàn toàn không gây phiền hà tới cuộc trò chuyện.

“Đó là truyền thống bao đời của nhà ta…” Phu nhân Itoko đã thực sự hết cách với con trai, thái độ lúc này có hơi dè dặt.

“Nhưng thưa mẹ, hồi Ryuji lấy vợ có phải lằng nhằng thế đâu.” Kenzo không buồn liếc cái bánh bao kiều mạch mẹ mời, chỉ mặt nặng mày nhẹ hút thuốc.

“Bởi nó là con thứ, không giống con. Con là người kế thừa gia tộc này, và Katsuko là vợ con…”

“Nhưng chắc Katsuko không biết chơi đàn tranh đâu. Dương cầm thì may ra còn biết.”

Vấn đề hai mẹ con đang đề cập là thế này. Gia tộc Ichiyanagi xưa nay có truyền thống vợ của người thừa kế phải tấu một khúc đàn tranh trong lễ cưới, sử dụng cây đàn di vật tổ tiên gia tộc Ichiyanagi truyền lại. Khúc nhạc cần tấu lên và nguồn gốc của truyền thống cũng đều mang câu chuyện lịch sử phức tạp, nhưng tôi sẽ kể sau, hiện tại, chúng ta chỉ cần quan tâm xem rốt cuộc cô dâu Katsuko có biết chơi đàn tranh hay không.

“Mẹ, bây giờ mẹ có bảo cũng vô ích. Mẹ mà nói sớm may ra con còn dặn Katsuko chuẩn bị…”

“Mẹ bảo các con thế không phải để ngăn cản đám cưới. Nếu con cho rằng mẹ muốn khiến Katsuko bẽ mặt thì nhầm rồi. Truyền thống vẫn là truyền thống, cho nên…”

Bầu không khí giữa hai mẹ con càng lúc càng khó xử. Nhưng Suzuko đang ngồi chơi búp bê bên cạnh bỗng đưa ra lời đề nghị rất đáng yêu, đúng là cứu nguy. “Mẹ ơi, hay để con đàn cho?”

Phu nhân Itoko ngạc nhiên nhìn Suzuko, còn Kenzo nở nụ cười thâm trầm. “Hay quá, ta nhờ Suzuko đi. Mẹ, nếu để Suzuko đàn thì chắc chẳng ai phiền lòng đâu nhỉ?”

Phu nhân Itoko hơi dao động, vừa hay người cháu Ryosuke tình cờ xuất hiện.

“Suzuko, em ở đây à? Này, anh làm xong chiếc hộp em cần rồi đấy.” Ryosuke nói rồi chìa ra một chiếc hộp bằng gỗ mộc, to cỡ thùng đựng quýt[20], trông rất đẹp mắt.

“Ryo à, cái gì đây?” Phu nhân Itoko chau mày.

“Quan tài cho Tama đấy ạ. Cháu định lấy thùng các tông, nhưng Suzuko không thích. Em ấy bảo qua loa sơ sài thế thì tội nghiệp Tama lắm và nhất quyết không chịu. Nên cháu làm cho em ấy chiếc hộp này.”

“Tama đáng thương thật mà. Em cảm ơn anh họ.”

Tama là con mèo cưng của Suzuko, hình như bị ngộ độc, nôn ọe suốt hai ba ngày và sáng hôm ấy thì chết.

Phu nhân Itoko nhíu mày nhìn chiếc hộp gỗ rồi chợt lên tiếng như nhớ ra chuyện gì.

“Ryo này, về chuyện chơi đàn ấy mà, ta để Suzuko chơi thay cô dâu được không?”

“Vâng, chắc cũng được thôi ạ.”

Ryosuke thản nhiên trả lời rồi nhét bánh bao kiều mạch vào mồm, nhai nhồm nhoàm. Kenzo nhả khói thuốc, mặt vẫn ngoảnh đi hướng khác. Đúng lúc ấy, Saburo bước vào.

“Ồ, Suzuko, hộp đẹp đấy! Ai cho em thế?”

“Anh Saburo xấu tính, toàn nói dối, không chịu giúp em. Cái này anh họ làm cho em đấy. Em không thèm phiền anh đâu.”

“Ừ rồi, anh có lúc nào đáng tin đâu.”

“Saburo, con cắt tóc đấy à?” Phu nhân Itoko liếc nhìn đầu Saburo.

“Vâng, vừa cắt xong. Mẹ này, ban nãy ở tiệm cắt tóc, con nghe được chuyện kì lạ lắm.” Saburo nói rồi quay sang phía Kenzo, mặc kệ phu nhân Itoko đang im lặng nhìn mình. “Anh, chiều tối qua anh đi ngang qua ủy ban đúng không? Lúc đó anh có thấy người đàn ông kì quái đứng trước tiệm cơm không?”

Kenzo nhíu mày hoài nghi nhìn Saburo, song không đáp lời.

“Người đàn ông kì quái là sao hả cậu Saburo?” Ryosuke vừa nhồm nhoàm nhai bánh vừa hỏi.

“Người đó trông kinh khủng lắm. Mặt có vết sẹo lớn, từ miệng kéo lên tận gò má. Hơn nữa tay phải chỉ có ba ngón. Ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa… Nghe nói còn dò hỏi bà chủ tiệm cơm chuyện nhà chúng ta nữa. Này Suzuko, đêm qua em có thấy ai giống vậy lảng vảng quanh đây không?”

Suzuko ngẩng đầu nhìn Saburo một hồi rồi khẽ lẩm bẩm, “Ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa…” Vừa nói cô bé vừa giơ từng ngón tay lên rồi bắt chước động tác gảy đàn.

Phu nhân Itoko và Saburo lặng lẽ quan sát cô bé. Ryosuke vẫn cắm cúi bóc vỏ bánh bao, còn Kenzo phì phèo nhả khói thuốc.

Dịch trạm là nơi mà các lãnh chúa thời Edo nghỉ chân, trọ lại trên đường đi chầu tướng quân, nói cách khác là trạm nghỉ dành cho việc công, nên từ xưa đã rất câu nệ lễ nghi phép tắc. Tuy nhiên, dù cũng là dịch trạm, nhưng so với dọc tuyến Tokai-do, nơi đây có quy mô nhỏ hơn hẳn do không nhiều lãnh chúa lui tới. Song dù sao dịch trạm cũng vẫn là dịch trạm.

Gia tộc Ichiyanagi cực kì tự hào về thân phận con cháu dịch trạm, nên hôn lễ của gia chủ nhất định phải cử hành thật long trọng. Anh F, người kể lại vụ án này cho tôi có bảo: “Nói đến mấy việc lễ tiết thì người nông thôn luôn thích phô trương hơn người thành phố. Huống hồ là nhà có gia thế như gia tộc Ichiyanagi. Trong lễ cưới của trưởng nam, thì trưởng nam hay chú rễ phải mặc lễ phục võ sĩ[21] làm từ sợi gai, còn cô dâu mặc lễ phục cưới truyền thống màu trắng thuần. Khách khứa tất nhiên phải tầm năm mươi tới một trăm người.”

Nhưng thực tế, hôn lễ của Kenzo chủ yếu toàn người nhà. Khách bên đằng trai, ngoài người trong gia đình, Chỉ có ông trẻ bên làng Kawa— tới dự. Đến cả em trai của Kenzo là Ryuji ở Osaka cũng không về. Còn bên nhà gái thì có mình người chú Kubo Ginzo đến.

Theo đó, phần làm lễ cực kì ít người tham dự, nhưng khoản tiệc chiêu đãi dân làng thì lại khác. Là đại địa chủ trong vùng, nhà Ichiyanagi có rất nhiều mối quan hệ, người làm công và tá điền. Khác với người nhà, bọn họ được mặc sức uống rượu thâu đêm suốt sáng, theo đúng phong tục nơi đây.

Vì thế vào hôm cử hành hôn lễ, tức 25 tháng Mười một, bếp nhà Ichiyanagi rối tình rối mù dù đã gọi thêm người đến giúp. Có điều tầm 6 rưỡi chiều, lúc bếp đang bận rộn nhất, chỗ cửa sau bỗng xuất hiện một người đàn ông.

“Xin lỗi, cho hỏi gia chủ có nhà không? Nếu có, tôi muốn nhờ đưa thứ này cho anh ta…”

Bà Nao đang lúi húi bên bếp lò quay ra nhìn người đàn ông. Hắn đội mũ tai bèo nhăn nhúm che khuất cả mắt, áo sờn rách cài kín cổ như sợ lạnh, khẩu trang to tướng tưởng chừng che kín khuôn mặt. Trông cực kì khả nghi.

“Tìm ông chủ có việc gì?”

“À vâng, phiền bà đưa cái này cho anh ta.”

Tay trái người đàn ông chìa ra một mảnh giấy gấp nhỏ. Sau này bà Nao thuật lại cho cảnh sát: “Kì lạ lắm. Hắn nắm tay trái lại, kẹp mảnh giấy vào giữa ngón trỏ và ngón giữa, cứ như bị bệnh phong… Vâng, tay phải hắn cứ nhét trong túi áo. Tôi thấy lạ quá nên tính lén nhìn mặt, song hắn liền quay đi, cố dúi mảnh giấy cho tôi rồi vội vàng chạy qua cửa sau ra ngoài.”

Bếp lúc đó rất đông, nhưng chẳng ai để ý tới người đàn ông ấy. Họ có nằm mơ cũng không ngờ rằng về sau hắn lại là nhân vật đóng vai trò vô cùng quan trọng trong vụ án sắp xảy ra.

Bà Nao sững sờ nhận lấy mảnh giấy. Đúng lúc ấy, Akiko bên chi thứ gấp gáp chạy vào bếp. “Này, có ai biết chồng tôi đâu không?”

“Cậu nhà cô hình như ra ngoài rồi.”

“Đến chịu mất thôi. Đương lúc bận rộn thế này còn dềnh dàng gì không biết. Nếu gặp, mọi người giục anh ấy mau về thay quần áo nhé.”

Bà Nao nhanh nhảu gọi Akiko lại, kể chuyện vừa xảy ra và đưa mảnh giấy cho chị ta. Mảnh giấy nhỏ như được xé từ sổ bỏ túi.

“Đưa cho anh họ? À, vâng…”

Akiko khẽ nhíu mày, nhưng chẳng để tâm lắm, nhét mảnh giấy vào thắt lưng rồi rời bếp ngó sang phòng khách. Ở đó, phu nhân Itoko đang vừa thay đồ vừa sai bảo hầu gái. Ngồi bên cạnh là Suzuko trong bộ furisodel[22] đang mân mê cây đàn tranh thếp vàng tuyệt đẹp.

“Bác gái ơi, anh họ đâu ạ?”

“Kenzo à? Chắc ở thư phòng. À đợi đã Akiko, con giúp bác thắt đai lưng đi.”

Phu nhân Itoko vừa mặc đồ xong thì Saburo thủng thẳng bước vào, mình khoác áo bông.

“Saburo, sao con vẫn ăn vận thế này… Nãy giờ con ở đâu hả?”

“Thư phòng ạ.”

“Anh lại đọc tiểu thuyết trinh thám đúng không?” Suzuko vừa chỉnh đàn vừa hỏi. Saburo vốn rất mê tiểu thuyết trinh thám.

“Đọc tiểu thuyết trinh thám thì có gì không được? Mà này Suzuko, em làm đám tang cho con mèo chưa thế?”

Suzuko im lặng gảy đàn.

“Nếu chưa thì làm nhanh lên. Xác mèo để lâu sẽ hóa thành ma kêu meo meo đấy.”

“Ai cần anh lo. Anh Saburo thật xấu tính. Sớm nay em làm đám tang cho Tama rồi.”

“Đừng nhắc mấy chuyện xúi quẩy thế nữa. Saburo cũng ăn nói cho cẩn thận đi.” Phu nhân Itoko cau mày quở trách.

“Cậu Saburo, anh họ có trong thư phòng không?”

“Không, chắc anh cả ở bên biệt thất ấy.”

“Akiko, con gặp Kenzo thì bảo nó nhanh chóng chuẩn bị đi. Cô dâu sắp tới rồi.”

Akiko rời phòng khách định sang biệt thất. Mới dợm xỏ guốc, chị ta bỗng thấy chồng là Ryosuke đang từ hướng nhà chi thứ chậm rãi bước tới, vẫn mặc bộ đồ ngày thường.

“Anh còn làm gì đấy? Không mau thay quần áo đi, muộn bây giờ!”

“Nói vớ nói vẩn. Cô dâu 8 giờ mới tới. Việc gì phải gấp gáp. Thế còn em, định đi đâu nữa?”

“Em qua bên biệt thất tìm anh họ…”

Kenzo quả thật đang đứng trên hành lang biệt thất, lơ đễnh nhìn trời. Vừa trông thấy Akiko, anh ta liền gọi.

“Akiko này, xem ra sắp trở trời rồi. Ừ, cái gì, đưa tôi…? Tôi biết rồi…”

Kenzo mở mảnh giấy, đem đọc dưới ánh đèn điện.

“Akiko, ai chuyển cho tôi đây?”

Akiko đang chỉnh lại lọ hoa ở hộc tường[23], nghe giọng điệu Kenzo là lạ bèn quay lại, thì bắt gặp anh ta đang nhìn chị chăm chăm, vẻ mặt cực kì đáng sợ.

“Em không biết… Nghe bảo có một tên trông như ăn mày đưa cho bà Nao. Anh ơi, có vấn đề gì không?”

Kenzo trợn mắt nhìn Akiko, rồi đột nhiên quay đi như vừa phát hiện ra điều gì. Cúi xuống đọc mảnh giấy lần nữa xong, anh ta xé vụn rồi đảo mắt như tìm chỗ vứt, song nghĩ thế nào lại nhét vào ống tay áo.

“À, anh ơi, bác gái dặn anh mau chuẩn bị…”

“Ừ, tôi biết rồi. Akiko này, phiền cô đóng cửa chớp giúp tôi nhé.” Kenzo dặn dò em dâu họ rồi rời biệt thất.

Lúc ấy là tầm 7 giờ hơn. Khoảng một tiếng sau, bà mối dẫn cô dâu đến, hôn lễ bắt đầu được cử hành. Tôi xin phép kể sơ qua tình hình lúc đó.

Như đã nói, người tham dự hôn lễ rất ít. Đằng trai có phu nhân Itoko, Saburo, Suzuko, vợ chồng Ryosuke, ông trẻ Ihee hơn bảy mươi tuổi bên làng Kawa—, còn đằng gái chỉ có người chú Kubo Ginzo đến đại diện. Trưởng làng được nhờ làm chủ hôn cho đúng hình thức.

Sau nghi thức hợp cẩn, cây đàn tranh đen bóng thếp vàng đẹp mê hồn được đem ra, Suzuko bắt đầu diễn tấu. Mọi việc diễn ra đúng như dự định. Snzuko có vài mặt chậm phát triển so với tuổi, nhưng riêng việc tấu đàn thì lại sở hữu tài năng thiên bẩm. Người tấu hòa nhịp với đàn, khiến đám cưới vốn xa hoa lại càng thêm phần mỹ lệ.

Việc chơi đàn trong hôn lễ vốn không phải phong tục của vùng này, hơn nữa đây là lần đầu tiên Katsuko được nghe khúc nhạc mà Suzuko đang gảy, nên không khỏi thắc mắc. Phu nhân Itoko liền giải thích cho con dâu.

Chuyện là mấy đời trước, gia tộc Ichiyanagi có một vị phu nhân chơi đàn tranh rất tài. Lần nọ, có tiểu thư là con của một lãnh chúa kia, trên đường được gả xuống phía Tây đã trọ lại dịch trạm và được thưởng thức bản nhạc “Khúc uyên ương” do chính vị phu nhân sáng tác và biểu diễn. Tiểu thư vô cùng thích thú, hôm sau lập tức sai người đem tặng phu nhân cây đàn tranh “Uyên ương”. Từ đó về sau, trong hôn lễ của người kế thừa gia tộc Ichiyanagi, cô dâu nhất định phải tấu “Khúc uyên ương” bằng cây đàn tranh “Uyên ương”. Nghe xong câu chuyện, cô dâu Katsuko tròn mắt ngạc nhiên.

“Đúng ra là con phải đàn ạ?”

“Phải. Nhưng chúng ta chẳng rõ con có biết đàn không nên chẳng dám ép, đành để Suzuko thay con vậy.”

Katsuko im lặng. Người chú Ginzo bèn lên tiếng thay.

“Giá mà bên nhà mình báo trước thì có thể để Katsuko đàn rồi.”

“Ồ, chị dâu biết đàn ạ?”

“Cô bé à, từ giờ chị dâu có thể làm bạn đàn với cháu đấy. Chị dâu cháu còn đủ khả năng làm giáo viên dạy đàn ấy chứ!”

Phu nhân Itoko và Ryosuke nhìn nhau. Kenzo ngồi cạnh bấy giờ mới lên tiếng. “Vậy thì để Katsuko giữ cây đàn này luôn đi.”

Phu nhân Itoko ngập ngừng không đáp. Mọi người hơi khó xử. Lúc ấy, vị trưởng làng trải đời bèn cất tiếng xoa dịu bầu không khí.

“Giá mà biết trước cô dâu có tài nhường ấy thì tốt quá. Lát nữa vẫn còn lần hợp cẩn bên biệt thất, lúc đó xin nhờ cô dâu đàn một khúc vậy. Không biết phu nhân thấy sao?”

“Ông nói phải. Vậy nhờ con nhé? Suzuko đàn ‘Khúc Uyên ương’ rồi nên lát con tấu khúc nào cũng được. Con cứ tấu khúc sở trường, khúc nào vui vẻ ấy… Dẫu sao thì việc cô dâu chơi đàn trong đêm tân hôn cũng là truyền thống của nhà ta.”

Chính vì thế mà sau đấy Katsuko có tấu một khúc đàn tranh ở biệt thất.

Hôn lễ kết thúc tốt đẹp lúc 9 giờ hơn, nhường chỗ cho tiệc rượu náo nhiệt khắp trên nhà lẫn dưới bếp. Và quả thực trước đêm tân hôn, cô dâu chú rể đã phải đối mặt với thử thách đặc biệt đáng sợ ở nông thôn. Kenzo và Katsuko phải thay phiên nhau tiếp rượu khách khứa ở cả hai nơi đến tận nửa đêm.

Trong bếp, ai nấy chẳng mấy chốc đã say mềm, có người còn hát vang mấy bài tục tĩu. Ngoài nhà thì dù không phóng túng đến vậy, nhưng ông trẻ Ihee cũng bắt đầu say khướt, nói năng huyên thuyên.

Ông trẻ này là em của ông nội Kenzo và Ryosuke, song từ trẻ đã tách ra ở riêng, nên mọi người thường gọi là ông trẻ bên làng Kawa—. Chẳng những lắm lời đúng kiểu người già, ông còn nát rượu có tiếng. Hơn nữa ngay từ đầu đã luôn phản đối đám cưới này, nên sau một tuần rượu, ông lớn tiếng thẳng thừng chê trách cô dâu chú rể và đòi về trong khi đã hơn 12 giờ đêm, mặc cho mọi người khuyên can đêm hôm nguy hiểm.

“Saburo, em đưa ông trẻ về đi.” Từ đầu tới cuối Kenzo chỉ coi mấy câu mắng chửi của ông trẻ Ihee như gió thoảng qua tai. Dẫu vậy, anh ta vẫn dặn dò em trai đưa ông về cẩn thận.

“Muộn quá thì cứ ở lại luôn bên ấy.”

Khi tiễn ông trẻ Ihee ra về, mọi người đều rất ngạc nhiên vì bên ngoài trời đổ tuyết to. Quanh vùng này rất hiếm khi có tuyết, vậy mà tối đó tuyết phủ cao gần mười phân, bảo sao ai nấy đều kinh ngạc. Sau này ngẫm lại mới thấy, trận tuyết ấy đóng vai trò cực kì quan trọng trong tội ác khủng khiếp sắp xảy ra. Tuy nhiên tôi xin phép tạm gác chuyện ấy lại đã.

Lúc cô dâu chú rể sang biệt thất làm lễ hợp cẩn thì đã tầm 1 giờ sáng. Akiko, vợ Ryosuke thuật lại rằng: “Phụ trách chuyển đàn tranh sang biệt thất là tôi và cô hầu gái Kiyo. Còn tham dự lễ hợp cẩn thì ngoài cô dâu chú rể, chỉ có bác gái và vợ chồng tôi. Saburo đưa ông trẻ về, Suzuko thì đi ngủ. Uống rượu giao bôi xong, chị Katsuko đàn khúc “Thiên điểu”. Sau đó, tôi dựng đàn tranh ở hộc tường. Móng gảy đàn thì đặt trong góc hộc. Chà, tôi không dám chắc lúc ấy thanh kiếm có trên kệ tường không nữa.”

Lễ hợp cẩn tại biệt thất kết thúc vào khoảng 2 giờ sáng. Mọi người nhất lượt về phòng riêng, để cô dâu chú rể ở lại. Tuyết vẫn không ngừng rơi.

Hai tiếng sau, người trong dinh thự chợt nghe thấy tiếng kêu gào thảm thiết cùng với tiếng đàn vừa kì quái vừa dữ dội.

Trong căn phòng được người nhà Ichiyanagi sắp xếp cho, Kubo Ginzo vừa ngả lưng xuống đệm liền thấy mệt mỏi vô cùng. Chẳng trách được, ông đã dồn hết sức già cho buổi hôn lễ.

Ginzo hiểu rõ, thậm chí quá rõ tư tưởng, lề thói phong kiến ở nông thôn. Nói thẳng thì ông chẳng tha thiết gì đám cưới này, bởi luôn lo Katsuko sẽ không hạnh phúc khi thành con dâu gia đình từng là địa chủ của nhà mình.

Nhưng Katsuko lại muốn về làm dâu nhà này. Vợ Ginzo cũng khuyên, “Anh cả mà còn sống, nhất định sẽ rất vui mừng. Thật nở mày nở mặt khi con gái thành dâu con nhà Ichiyanagi.” Chính câu nói ấy đã thuyết phục Ginzo.

Ginzo và anh trai là Rinkichi, cha Katsuko, từ trẻ đã bôn ba sang tận Mỹ. Dẫu vậy, đối với những tập tục, quan niệm giai cấp xưa cũ của Nhật Bản, thì càng có tuổi Rinkichi càng câu nệ hơn hẳn người em là Ginzo. Phải rồi, nếu còn sống anh ấy sẽ rất mừng… Cứ nghĩ vậy, Ginzo lại chẳng thể phản đối dù bản thân không mong muốn hôn sự này chút nào.

Và một khi đã quyết thì Ginzo sẽ cứ thế mà làm. Ông nhất định không để Katsuko mất mặt, không để họ hàng nhà Ichiyanagi chỉ trỏ sau lưng. Dĩ nhiên chuyện không thuận lợi như Ginzo mong muốn, nhưng với bản lĩnh được trui rèn qua thời gian ở Mỹ, ông vẫn giải quyết ổn thỏa mọi việc. Ginzo bỏ tiền đặt mua rất nhiều kimono ở các tiệm trang phục truyền thống lớn tại Kyoto và Osaka.

“Ôi, chú tặng con nhiều quà quá, con biết làm sao đây?” Katsuko ngạc nhiên đến không biết nói gì khi nhận quà của chú. Trông cô nước mắt lưng tròng, xem ra Ginzo đã không phí hoài tâm sức.

Nhà trưởng làng được chọn làm nơi nghỉ giữa đường đưa dâu. Khi đến đó, Katsuko thay sang bộ đồ cưới vô cùng lộng lẫy để xuất phát tới dinh thự Ichiyanagi. Trên đường, nhan sắc của cô thu hút bao ánh nhìn. Của hồi môn và đồ đoàn nhà gái mang theo cũng rất hoành tráng, đủ khiến dân làng phải bàn tán suốt thời gian dài. Gia tộc Ichiyanagi vốn cực kì kiêu ngạo cũng phải tròn mắt kinh ngạc. Nhớ lại việc ấy, Ginzo vô cùng đắc ý.

“Hẳn anh mình cũng rất mãn nguyện với việc hôm nay. Chắc anh đang rất vui đúng không?” Ginzo thì thầm. Cảm xúc dâng trào, nước mắt cứ thế lăn dài.

Hội trong bếp hình như vẫn đang uống rượu. Mấy lời ca tục tĩu văng vẳng bên tai làm Ginzo mãi không ngủ được. Tuy nhiên sau nhiều lần trở mình, ông cũng dần chập chờn chìm vào cơn mộng mị. Và không biết bao lâu sau đó, đang mơ màng, Ginzo bỗng choàng tỉnh vì tiếng kêu la thảm thiết.

Ginzo lập tức ngồi dậy. Đây không phải mơ. Tiếng gào thét đáng sợ vang lên, không phân biệt được của nam hay nữ, xé tan màn đêm tĩnh mịch. Một tiếng thét, hai tiếng thét. Rồi tiếng bước chân chạy rầm rập trên sàn.

Biệt thất! Ngay giây phút nhận ra tiếng thét truyền tới từ đâu, Ginzo nhanh chóng xỏ tay vào áo ngủ, khoác thêm áo choàng mỏng rồi bật đèn xem đồng hồ. Đúng 4 giờ 15 phút sáng.

Cùng lúc ấy, tiếng đàn tranh vang lên.

Tang tang tang roẹt! Thanh âm nghe như có người gây loạn 13 dây của đàn tranh. Tiếp đó là tiếng gì từa tựa tiếng cửa trượt đổ sầm. Cuối cùng, tất cả trở về với bầu không khí im lặng chết chóc.

Tiệc rượu trong bếp dường như đã kết thúc.

Ginzo bồn chồn mở cửa chớp. Tuyết đã ngừng rơi. Vầng trăng mảnh tựa dây đàn, lặng lẽ tỏa quầng sáng lạnh lẽo trên nền trời đêm. Sân vườn phủ tuyết, như khoác trên mình chiếc áo bông dày dặn.

Đột nhiên, có bóng người đạp tuyết tiến về phía Ginzo.

“Ai đó?” Ginzo cất giọng hỏi.

“Ơ, ông, ông cũng nghe rồi chứ ạ?”

Đó là Genshichi, một người làm mà lúc này Ginzo chưa biết tên.

“Ừ, tôi nghe thấy rồi. Chuyện gì thế nhỉ? Chờ tôi với, tôi cũng đi.”

Ginzo mặc thêm áo khoác, xỏ guốc rồi bước xuống nền tuyết. Đâu đó vang lên tiếng mở cửa chớp. Phu nhân Itoko ngó ra.

“Genshichi đó à? Ban nãy có tiếng gì vậy?”

“Tiếng đàn đó mẹ.” Suzuko nấp sau tay áo mẹ, lén nhìn ra ngoài.

“Con không biết. Nhưng hình như là tiếng người kêu cứu bà ạ.” Genshichi run rẩy thưa.

Ginzo sấp ngửa chạy về phía cánh cửa tre. Cùng lúc, từ nhà chi thứ ở phía Nam, Ryosuke vừa buộc đai lưng vừa chạy đến chỗ phu nhân Itoko.

“Bác gái, ban nãy có chuyện gì thế ạ?”

“Ôi Ryosuke, cháu qua bên biệt thất xem sao.”

Ginzo lay thử cánh cửa tre. Cửa đã cài then ở phía bên kia, xem ra không dễ gì mở được. Ryosuke cũng thử huých người hai, ba lần, song cánh cửa trông thì mỏng manh mà lại vững chắc không ngờ.

“Genshichi, mang rìu tới đây.”

“Dạ.”

Genshichi vừa quay gót định rời đi, thì từ phía biệt thất lại vang lên tiếng từng từng từng, rồi ngay sau đó là tràng phụt phụt phụt vọng khắp không gian. Hình như là tiếng dây đàn đứt.

“Chuyện gì vậy?”

Trong ánh trăng hắt lên từ nền tuyết trắng, khuôn mặt ai nấy đều tái nhợt.

“Genshichi, còn lề mề gì thế! Không mau mang rìu đến đây đi!”

Chú Thích:

[1] (1902-1947), dịch giả, nhà nghiên cứu văn học Pháp.

[2] John Dickson Carr (1906-1977), nhà văn trinh thám người Mỹ. Có một số bút danh khác là Carter Dickson, Cart Dickson, Roger Fairbairn.

[3] Gaston Louis Alfred Leroux (1868-1927). Nhà báo, nhà văn trinh thám người Pháp. Được biết đến rộng rãi qua tác phẩm Bóng ma trong nhà hát (The Phantom of the Opera).

[4] Maurice Marie Emile Leblanc (1864-1941). Tiểu thuyết gia, nhà văn viết truyện ngắn người Pháp. Cha đẻ của nhân vật hư cấu Arsene Lupin.

[5] Tên tạm dịch từ The Canary Murder Case.

[6] Tên tạm dịch từ The Kennel Murder Case.

[7] S. S. Van Dine (1888-1939). Tên thật là Willard Huntington Wright Nhà văn, nhà phê bình nghệ thuật người Mỹ.

[8] Tên tạm dịch từ The Plague Court Murders.

[9] Tên tạm dịch từ Murder Among the Angells.

[10] Roger Scarlett. Bút danh của nhóm hai nữ nhà văn trinh thám người Mỹ là Drothy Blair (1903-1976) và Evelyn Page (1902-1977).

[11] Yamanotani nghĩa đen là “Thung lũng giữa núi”.

[12] Vật gắn trên cửa, có hình bán cầu trong như bầu ngực, dùng để trang trí.

[13] Phần nền không lát gỗ hay gạch mà bằng đất, nằm trong kết cấu nhà truyền thống Nhật Bản. Thường để đặt bếp lò, hoặc làm nơi bày bán hàng hóa.

[14] Một trong những trục đường chính, kết nối các vùng miền Tây Nhật Bản tới Osaka-Kyoto, rồi từ đó theo đường Tokai-do hoặc Nakasen-do tới Edo.

[15] Tạm dịch từ “honjin”. Nơi nghỉ chân dành cho quý tộc, quan chức, võ sĩ. Phân biệt với các kiểu nhà trọ khác cũng ở trạm nghỉ nhưng dành cho lữ khách, thương nhân, dân thường… Thường thì dinh thự của những gia tộc có thế lực trong vùng sẽ được chọn làm dịch trạm.

[16] Loài thủy quái nổi tiếng trong truyện dân gian Nhật Bản. Hình dạng giống rùa, miệng như mỏ quạ, tay chân có màng. Tương truyền kappa thường hại người qua sông, song vẫn có một số câu chuyện về kappa giúp người. Kappa cũng hay xuất hiện trong các tác phẩm phim truyện và văn học hiện đại.

[17] Kawa nghĩa là sông, còn Yamanotani nghĩa là thung lũng giữa núi. Ám chỉ nhà Ichiyanagi giống loài thủy quái rời sông lên núi chiếm đất.

[18] Tác phẩm viết vào năm 1946, một năm sau khi Nhật đầu hàng trong Thế chiến II. “Lần thua trận vừa rồi” ám chỉ thất bại của Nhật trong cuộc chiến này.

[19] Thời ấy, 1 vạn yên Nhật tương đương khoảng 10 tỉ VNĐ ngày nay.

[20] Thùng cỡ trung bình.

[21] Lễ phục của võ sĩ thời Edo. Phần thân áo ngoài có cầu vai rộng, không tay. Hai bên vai thêu gia huy.

[22] Kimono dành cho thiếu nữ hoặc phụ nữ chưa chồng, có họa tiết, màu sắc rực rỡ, ống tay áo dài hơn so với kimono dành cho phụ nữ đã kết hôn. Thường mặc trong các dịp quan trọng.

[23] Góc toko. Không gian lùi sâu vào so với tường phòng trong nhà Nhật, nơi để bày thư pháp, thư họa, thưởng trà hoặc đặt đồ trang trí.

Danh sách chương


Sách tương tự