Chương 8 Án mạng ở quán mèo mun
Kính gửi ông Y.
Đã lâu không viết thư cho ông. Trong một lá thư trước đây, ông từng bảo không được khỏe cho lắm, song sau đó tôi vẫn thấy Đảo Ngục Môn[49] được đăng đều đặn trên tạp chí nên đoán chắc ông cũng đỡ hơn rồi. Hằng tháng tôi vẫn hào hứng theo dõi Đảo Ngục Môn, và tuy thấy vài điểm hơi buồn cười, tôi vẫn biết đó là điều khó tránh khỏi trong tiểu thuyết. Mong rằng trong tương lai ông sẽ cho ra đời thêm nhiều tác phẩm hay (nhưng xin đừng tâng bốc tôi quá nhé).
Lại nói, lần trước tôi tới thăm, ông có bảo nhờ Cung đàn báo oán mà ông đã thỏa nguyện phần nào với đề tài “án mạng trong phòng kín”, nên lần sau muốn thử sức với “tử thi không mặt”. Ông còn muốn tôi cung cấp tài liệu nếu gặp được vụ nào thuộc đề tài đó. Thế rồi ông Y đoán xem, ngay khi về tới Tokyo, vụ án đầu tiên tôi được nhờ giải quyết là gì? Chính là một vụ “tử thi không mặt”, và hay hơn nữa là nó khá khác với những vụ “tử thi không mặt” bình thường.
Ông Y này, tôi vừa bất chợt nhớ tới một câu ngạn ngữ: “Sự thật luôn li kì hơn tiểu thuyết”. Trong đoạn mở đầu truyện Cung đàn báo oán, ông từng viết lời cảm ơn hung thủ đã dựng lên kế hoạch gây án. Chà, vậy thì ông cũng nên gửi lời cảm ơn tới kẻ thủ ác vô nhân tính đã gây ra vụ án đáng sợ “tử thi không mặt” này đi. Tôi thấy trong vụ án này, hung thủ không hề sử dụng những mánh khóe, tiểu xảo ma mị, giết người liên hoàn như trong Cung đàn báo oán hay Đảo Ngục Môn. Nếu chỉ xét riêng trên mặt này thì tôi e ông sẽ không hứng thú. Tuy nhiên, nếu xét về độ thâm hiểm độc ác trong kế hoạch, hay độ dã man liều lĩnh của hung thủ do bị dồn đến đường cùng, thì vụ án này hơn hẳn hai vụ kể trên. Dẫu vậy, tôi không tiện nhiều lời ở đây nên sẽ gửi toàn bộ tài liệu liên quan cho ông, còn lại mọi chuyện sẽ do ông quyết định. Tôi cũng đã đánh số trang đầy đủ cho tài liệu, ông cứ đọc theo thứ tự nhé. Tôi rất hào hứng chờ xem ông sẽ xử lý đề tài và sắp xếp chỗ tài liệu tạp nham lần này ra sao.
Kính thư,
Kindaichi Kosuke
Mùa xuân năm 1947, sau khi sơ tán về một vùng nông thôn thuộc tỉnh Okayama, tôi nhận được lá thư trên của Kindaichi Kosuke.
Đọc xong thư, tôi đã vô cùng phấn khích. Thực tế, bảo tôi rùng mình sợ hãi thì đúng hơn. Kindaichi rất tích cực giới thiệu vụ án kì lạ này cho tôi, chứng tỏ nó đã để lại ấn tượng vô cùng sâu sắc với anh ấy. Đây đúng là vụ án “tử thi không mặt” mà tôi hằng khao khát. Ba ngày sau khi lá thư trên đến tay, tôi nhận được tài liệu liên quan đến vụ án. Bây giờ tôi đang dựa trên chúng để soạn ra một bản ghi chép bao gồm đầy đủ các thông tin về tội ác man rợ kia cùng quá trình suy luận vạch trần nó. Nhưng trước hết, tôi muốn giới thiệu sơ qua quan hệ giữa tôi và Kindaichi Kosuke.
Cuối thu năm 1946, tức năm ngoái, một vị khách không ngờ đã tới vùng quê Okayama để thăm tôi.
Lúc bấy giờ tôi không được khỏe, sớm tối cứ hết dậy lại nằm, nằm lại dậy. Cả ngày hôm ấy tôi cũng nằm dài trên giường, mơ màng ngủ. Mọi người trong nhà đi đào khoai lang ở mảnh ruộng trên núi, nên khi ấy chỉ có mình tôi ở nhà. Và bất chợt có một người đàn ông nhẹ nhàng bước vào.
Ngôi nhà tôi ở có cấu trúc giống đa số nhà ở nông thôn. Chỗ cửa chính không có sảnh vào cầu kì mà thay vào đó là nền đất rộng rãi cùng một cánh cửa trượt kiểu chân cao. Cánh cửa này rất nặng, kéo ra kéo vào khá vất vả nên thường để mở cả ngày. Qua hết chỗ nền đất là đến gian phòng rộng bốn chiếu rưỡi và bên trong là gian nữa rộng sáu chiếu. Tôi thường nằm ở gian sáu chiếu. Vốn bị bệnh hô hấp mạn tính, tôi quen sống trong không gian thoáng đãng nên lúc nào cũng mở toang cửa. Vì vậy, ai đến chỉ cần bước vào phần nền đất là sẽ thấy tôi nằm bên trong.
Đúng hoàng hôn hôm ấy, dường như tôi lại phát sốt, nằm ngủ chập chờn. Song thấy có người thấp thoáng chỗ nền đất, tôi vội vàng trở mình ngồi dậy.
Đó là một người đàn ông thấp bé, tuổi độ ba lăm ba sáu, bận kimono làm từ vải Oshima[50], khoác haori, dưới mặc hakama. Mũ đội lệch ra sau, tay trái ôm áo choàng hai lớp, tay phải cầm ba toong bằng mây. Vẻ ngoài không có gì đặc biệt, hay nói đúng hơn là khắc khổ. Bộ kimono và áo haori khá sờn cũ.
Chúng tôi nhìn nhau giây lát, rồi tôi ngồi trên đệm hỏi với ra rằng “Anh là ai?”. Anh ta nhoẻn miệng cười, đặt áo choàng và ba toong sang một bên rồi cởi mũ, chậm rãi lau mồ hôi trên trán, đồng thời hỏi tôi có phải chủ nhà không. Thấy thái độ bình thản của anh ta, tôi hơi bất an bèn đáp mình là chủ nhà và hỏi lại “Anh là ai?”. Bấy giờ anh ta mới mỉm cười lắp bắp thưa.
“Tôi… Tôi là…”
Anh ta xưng danh là Kindaichi Kosuke.
E sẽ dài dòng nên tôi xin phép không kể ra đây là mình đã bất ngờ và bối rối ra sao. Tuy nhiên tôi vẫn phải nói rõ cái tên “Kindaichi Kosuke” này có ý nghĩa thế nào với mình.
Khoảng thời gian ấy, tôi đang viết dở một tiểu thuyết dựa theo lời kể của dân làng về vụ án mạng xảy ra tại một gia tộc dịch trạm xưa. Chưa hết, lúc đó tiểu thuyết ấy còn đang đăng dài kì trên tạp chí. Và nhân vật chính trong tiểu thuyết chính là… Kindaichi Kosuke. Tôi chưa từng gặp qua Kindaichi, dĩ nhiên viết truyện cũng chưa được sự đồng ý của anh ta. Tôi chỉ dựa trên những gì mọi người kể, cộng thêm trí tưởng tượng của mình. Vậy mà anh ta đột nhiên đến thăm, còn xưng danh tính rõ ràng, bảo sao tôi không ngạc nhiên, bối rối. Tôi hết sức áy náy, toàn thân đổ mồ hôi lạnh. Lúc mời Kindaichi vào phòng ngồi trò chuyện chào hỏi, tôi còn cà lăm hơn anh ta.
Kindaichi thích thú mỉm cười trông bộ dạng lúng túng của tôi rôi cho biết lý do đến thăm.
Kindaichi vừa trở về từ đảo Ngục Môn, một hòn đảo thuộc vùng biển nội địa Seto. Trước lúc ra đảo, anh tiện đường ghé thăm nhà tài trợ Kubo Ginzo. Ở đó Kindaichi nghe tin có người viết tiểu thuyết về mình nên vô cùng kinh ngạc, bản thân cũng tìm đọc tiểu thuyết đó. Và rồi anh viết thư đến nhà xuất bản tạp chí, hỏi xin địa chỉ tác giả rồi mới xuất phát ra đảo Ngục Môn. Từ đảo trở về, vừa hay nhận được thư hồi đáp của nhà xuất bản, anh liền tới đây thăm tôi.
“Tôi đến để bắt vạ đây.”
Kindaichi nói rồi cười to. Nghe tiếng cười của anh, tôi thở phào nhẹ nhõm. Bởi bảo là đến bắt vạ, nhưng giọng điệu anh không hề mang ác ý, ngược lại còn khiến tôi có cảm giác vô cùng thân thiết. Tôi liền mặt dày, hỏi mà như nằn nì anh cho biết cảm nghĩ về tiểu thuyết kia. Kindaichi tươi cười nhận xét, “Vâng, rất ổn ạ.” Cá nhân anh rất vinh dự vì được khắc họa như một thám tử ưu tú. Tuy nhiên, vẫn mong… “Ông miêu tả tôi đẹp trai hơn tí nhé.”
Ha ha ha, Kindaichi cười phá lên, giơ tay vò vò mái đầu bù xù như tổ quạ. Nhờ vậy chúng tôi cởi mở với nhau hơn hẳn.
Kindaichi ở nhà tôi ba ngày. Trong khoảng thời gian ấy, anh kể cho tôi nghe câu chuyện vừa mới trải qua, chính là vụ Đảo Ngục Môn, đồng thời cũng đồng ý để tôi viết lại thành tiểu thuyết. Nói chung, anh chính thức coi tôi như người chấp bút cho những câu chuyện của anh.
Trong ba ngày, tôi và Kindaichi trò chuyện rất nhiều về tiểu thuyết trinh thám. Chính khi ấy, tôi đã nhắc tới đề tài “tử thi không mặt”. Tôi nhớ đã bảo với anh thế này.
Khoảng hai mươi năm trước, trên một tạp chí, tôi từng thử tiến hành phân loại các thủ đoạn gây án trong tiểu thuyết trinh thám. Giờ tôi không có sẵn tạp chí ấy ở đây nên khó trình bày rõ, nhưng đại khái bài viết nêu ra các thủ đoạn xuất hiện nhiều nhất trong tiểu thuyết trinh thám, như “một người hai vai”, “án mạng trong phòng kín”, “tử thi không mặt”… Qua hai mươi năm, tiểu thuyết trinh thám đã phát triển hơn nhiều, song thú vị là ba thủ đoạn gây án, hay nói đúng hơn là ba đề tài tôi vừa nêu ra vẫn chiếm ngôi vương.
Tuy nhiên nếu tìm hiểu chi tiết, ta sẽ thấy giữa ba thủ đoạn gây án này có điểm khác biệt rất lớn. Với “án mạn trong phòng kín” và “tử thi không mặt”, độc giả mở sách ra là dễ dàng biết ngay đề tài: A, đây là “án mạng trong phòng kín”, còn đây là “tử thi không mặt”. Nhưng “một người hai vai” thì không: độc giả phải đọc đến cuối cùng mới nhận ra được. Viết tiểu thuyết mà để độc giả lờ mờ đoán ra đây là “một người hai vai”, thì đồng nghĩa với tác giả đã thất bại. (Dĩ nhiên trong mọi tiểu thuyết trinh thám, hung thủ đều sẽ giả làm người tốt, tức cũng là “một người hai vai”, nhưng đó không phải kiểu “một người hai vai” tôi đang nhắc đến ở đây.)
Xét từ điểm vừa nêu thì hai thủ đoạn “án mạng trong phòng kín” và “tử thi không mặt” vốn rất khác biệt với “một người hai vai”. Mà giữa “án mạng trong phòng kín” và “tử thi không mặt” cũng lại tồn tại khác biệt rất lớn. Với “án mạng trong phòng kín”, cùng một đề tài song cách triển khai vô cùng phong phú. “Xử lý đề tài muôn thuở ấy thế nào?” luôn là câu hỏi hấp dẫn cả tác giả lẫn độc giả.
“Tử thi không mặt” thì khác. Trong tiểu thuyết trinh thám, nếu gặp phải vụ án xác chết không đầu hay mặt biến dạng do bị chém, bị thiêu cháy, thậm chí không tìm thấy thi thể, hẳn độc giả sẽ nghĩ tới khả năng hung thủ và nạn nhân hoán đổi thân phận… Đa phần những suy đoán ấy đều đúng. Nói cách khác, người được coi là nạn nhân A thường chính là hung thủ. Còn B, kẻ được coi là hung thủ đang trốn chạy lại thường là nạn nhân. Dĩ nhiên vẫn có một số ngoại lệ, nhưng đến nay hầu hết tiểu thuyết trinh thám thuộc đề tài này đều triển khai theo hướng đó. Tôi giải thích một hồi với Kindaichi.
“Anh không thấy lạ sao?” Tôi hỏi. “Một trong những điều kiện quan trọng nhất giúp tạo nên sức hấp dẫn cho tiểu thuyết trinh thám chính là đoạn kết phải bất ngờ. Nhưng với “tử thi không mặt, tiểu thuyết của tác giả nào cũng cho hung thủ và nạn nhân tráo đổi thân phận với nhau. Nói cách khác, cứ gặp “tử thi không mặt” là độc giả sẽ nhận ra hung thủ ngay từ giai đoạn đầu của vụ án. Điều này khá bất lợi cho tác giả. Nhưng phần lớn tác giả vẫn hứng thú và muốn thử sức, chứng tỏ đề tài này rất có sức hút.”
“Nói vậy nghĩa là sao?” Kindaichi hào hứng hỏi tôi. “Chỉ cần xuất hiện “tử thi không mặt” thì nghiễm nhiên hung thủ và nạn nhân sẽ tráo đổi thân phận cho nhau ư?”
“Có thể nói vậy. Thi thoảng cũng có ngoại lệ, nhưng công thức hung thủ và nạn nhân tráo đổi thân phận vẫn thú vị hơn.”
“Ồ!” Kindaichi trầm ngâm một hồi rồi lên tiếng. “Nhưng chẳng có gì đảm bảo công thức truyền thống luôn thú vị hơn ngoại lệ. Chỉ là trước giờ đều vậy, chứ cũng có khả năng sau này sẽ xuất hiện tiểu thuyết trinh thám không sử dụng công thức hoán đổi thân phận mà vẫn tạo nên những vụ “tử thi không mặt” hay ho.”
“Nói… Nói… Nói đúng lắm.” Tôi vô thức nhoài người ra trước. “Tôi cũng nghĩ thế. Kindaichi này, trong các vụ án anh từng xử lý, có vụ nào sự thật còn li kì hơn cả tiểu thuyết không? Dẫu sao tôi cũng mang danh nhà văn trinh thám, dĩ nhiên muốn thử sức với đề tài này, thoát khỏi công thức tráo đổi thân phận, tạo ra cái kết đặc sắc khiến độc giả đam mê trinh thám phải trầm trồ.” Tôi hào hứng nói đến văng cả nước bọt.
Kindaichi nghe vậy liền cười bảo, “Đến nay tôi vẫn chưa gặp được vụ nào thế. Song ông đừng vội thất vọng. Trên đời không gì là không thể xảy ra, có vô số người có đầu óc kì quái. Biết đâu sau này tôi sẽ gặp vụ án như ông hi vọng. Tôi cam đoan lúc đó sẽ lập tức thông báo cho ông.”
Kindaichi quả nhiên giữ đúng lời hứa.
Lúc nhận được bưu kiện tôi đã rất vui sướng, nhưng đến khi đọc tài liệu thì vô cùng kinh hãi. Tuy nhiên tôi sẽ chưa vội kể chi tiết hơn. Màn dạo đầu thế này là đã quá dài dòng và nhàm chán, e rằng độc giả chẳng kiên nhẫn được nữa. Có điều, tôi xin phép nói thêm một câu: Y như Kindaichi đã viết trong thư, đống tài liệu quả thực tạp nham. Tôi phiền não vô kể, không biết phải xử lý thế nào. Ban đầu, tôi định liệt kê theo đúng thứ tự như hay thấy ở tiểu thuyết nước ngoài, nhưng lại sợ gây khó hiểu cho người đọc, nên cuối cùng vẫn viết thành dạng tiểu thuyết. Còn về việc tôi có xử lý được một cách trơn tru mạch lạc như Kindaichi nói hay không, thì đành chờ độc giả nhận xét vậy.
Vụ án xảy ra tại thị trấn G, vốn là một khu vực hẻo lánh cách xa tuyến vành đai trung tâm của đường sắt quốc gia. Để đến đây thì sau khi xuống ga Shibuya, bắt buộc phải lên một tuyến tàu tư nhân nữa. Địa hình khá gập ghềnh, đâu đâu cũng là dốc đứng. Bô lão trong thị trấn còn kể nơi đây có những chín mươi chín con dốc. Nói chín mươi chín thì hơi phóng đại, nhưng quả thật dốc nhiều vô kể. Chắc cũng bởi lý do địa hình mà mặc dù mang danh ngoại thành Tokyo, nơi này vẫn phát triển khá chậm. Mười lăm, mười sáu năm trước, dân cư còn thưa thớt, quang cảnh vẫn rất hoang sơ.
Tuy nhiên từ khi chiến tranh Trung-Nhật[51] nổ ra, diện mạo thị trấn G bỗng chốc thay đổi. Người ta cho xây dựng xưởng quân nhu quy mô lớn, kéo theo hàng loạt cơ sở sản xuất thứ cấp mở ra xung quanh. Nhờ vậy thị trấn phát triển nhanh chóng, dân cư dần đông đúc hơn. Chớp mắt, nhà cửa phủ kín chín mươi chín con dốc. Quanh ga G, đường sá được trải nhựa, có cả khu phố mua sắm gọi là “Ginza[52] thị trấn G”. Cùng với đó quán cà phê và quán rượu đèn mờ mọc lên như nấm. Cứ vậy, thị trấn G dần không còn những khung cảnh hoang sơ yên bình trước kia, mà thay vào đó là nét xô bồ, hỗn tạp.
Không rõ thị trấn G thay đổi thế nào trong thời Thế chiến II, song dựa trên những bài báo Kindaichi gửi cho, tôi tưởng tượng ra cảnh nó cũng chịu thiệt hại do chiến tranh nhưng chưa đến mức hoang tàn: ít nhất vẫn còn một đoạn của khu phố Ginza cạnh ga G. Như mọi thị trấn ít chịu thiệt hại khác, sau Thế chiến II, dân số nơi đây tăng mất kiểm soát, khắc họa rõ nét quang cảnh xã hội của một nước Nhật bại trận, vô cùng hỗn loạn, đầy tệ nạn, mất trật tự hơn cả trước chiến tranh, nhưng lại phô ra bộ mặt rất phồn hoa, náo nhiệt.
Theo như tôi được biết thì khu phố Ginza của thị trấn G chính là một con dốc xuống, kéo dài khoảng ba trăm mét về phía Tây tính từ cổng chính của ga. Đây là một trong chín mươi chín con dốc nhắc đến bên trên và từ xưa đã được gọi là Dốc G. Tuy nhiên từ dốc này mà rẽ ngang vào mấy con hẻm thì sẽ lạc tới những chốn cực kì khác biệt.
Những chốn ấy có tên thường gọi là “Mê cung Nhục dục”, rồi “Phố hẻm Địa ngục” của thị trấn G, bao gồm những con hẻm chật hẹp, tối tăm, lòng vòng như mê cung, nhưng cứ tối đến là hai bên chăng đầy đèn lồng đỏ và tím. Nhà nào nhà nấy đều có vài ba cô trang điểm dày cộp đứng cửa, mở máy hát ầm ĩ, hát hò bằng chất giọng lẳng lơ và thay phiên nhau đón khách nam lên tầng hai, cứ thế cho tới tận đêm khuya.
Tuy nhiên điểm thú vị là giữa những mê cung sắc dục thế này mà nhiều nét thôn dã vẫn trơ trơ còn đó. Ví như ngay bên cạnh một quán rượu treo đèn lồng đỏ, lại là một nông hộ với mái tranh xưa; hay đằng sau mấy nhà thổ chăng đèn tím, lại là nghĩa trang và ngôi chùa nhuốm màu rêu phong. Tất cả tạo nên một khung cảnh hỗn tạp kì quái, mà xem chừng cho đến tận bây giờ, tức là sau chiến tranh, cũng không mấy thay đổi. Và vụ án tôi sắp kể dưới đây xảy ra chính ở một góc như thế của thị trấn.
O giờ sáng ngày 2O tháng Ba năm 1947, cảnh sát tuần tra Hasegawa thuộc đồn cảnh sát Dốc G thong dong đi tuần ở khu Mê cung Nhục dục.
Sau chiến tranh, công tác quản lý kinh doanh ở khu vực này vô cùng lỏng lẻo, song do giao thông bất tiện, lại thêm tình hình an ninh trật tự không tốt, nên hàng quán đóng cửa sớm hơn cả thời trước chiến tranh. Ngày trước phải sau 0 giờ cuộc sống nơi đây mới bắt đầu, nhưng mấy năm trở lại đây thì giờ này các hàng quán đều đã đóng cửa.
Đêm đó, Hasegawa chầm chậm bước xuống một con dốc, thường gọi là Dốc Sau, nằm ở phía Bắc của Mê cung Nhục dục. Dốc Sau cực kì ngoằn ngoèo, xung quanh còn lưu giữ nhiều dấu tích xưa như chùa chiền, nghĩa trang. Ngoài ra từ đây mà nhìn về phía Bắc, sẽ thấy khung cảnh rất tiêu điều, đổ nát vì cả một vùng rộng lớn đã bị thiêu rụi. Đang thong thả tuần tra ở con Dốc Sau tối tăm hiu quạnh ấy, Hasegawa bỗng dừng lại, nhìn xuống chân dốc. Từ chỗ anh ta đứng trở đi là một đoạn dốc đứng hơn hẳn, tựa hồ đổ thắng xuống, dài tầm hai mươi mét. Tuy nhiên, đến chỗ thoai thoải trở lại thì con dốc giao ngay với một con đường chạy dọc, và rẽ trái ở nút giao là sẽ ra được khu phố Ginza của thị trấn G. Hasegawa phóng tầm mắt tới sân sau của căn nhà nằm bên trái nút giao, tức ngã tư dưới chân dốc. Không chỉ phát hiện ra ánh đèn thấp thoáng, Hasegawa còn nghe thấy tiếng đào đất lạo xạo ở đó nên khó trách tim anh ta bỗng đập liên hồi.
Là cảnh sát tuần tra, Hasegawa vốn quá rõ khu vực này, cũng chẳng lạ lẫm gì căn nhà đó. Anh ta biết đó là Mèo Mun, một quán rượu cứ đến đêm sẽ chăng đèn lồng tím. Khoảng một tuần trước, chủ quán cũ chuyển đi, nhượng nó cho người khác. Hiện tại, căn nhà đang trong quá trình tu sửa, chủ quán mới chưa dọn vào, nên tới tối sẽ thành ra nhà hoang.
Thấy đáng ngờ, Hasegawa khẽ khàng đi tiếp xuống, tới lưng chừng dốc thì gặp cánh cửa gỗ của sân sau quán Mèo Mun. Anh ta khom lưng (vì cánh cửa gỗ nằm ở chỗ thấp hơn hẳn mặt đường dốc), nhòm qua khe cửa, nhưng càng hồi hộp căng thẳng hơn.
Khoảnh sân Hasegawa nhìn thấy không rộng lắm, diện tích chỉ hơn ba mươi mét vuông. Xin tả rõ thêm rằng phía sau quán Mèo Mun có một ngôi chùa tên là Liên Hoa, thuộc tông Nhật Liên, có lịch sử lâu đời trong vùng. Nền chùa vốn cao hơn hẳn nền quán Mèo Mun, nên ngẫu nhiên tạo ra một vách đất bao quanh khoảnh sân quán. Không những thế, vách đất này còn ăn sâu dần về phía quán, khiến cho khoảnh sân thành ra có hình tam giác vuông méo mó.
Đến khi mắt đã quen với bóng tối, Hasegawa nhận ra ánh sáng kia hắt ra từ chiếc đèn lồng treo trên cành cây cạnh vách đất. Dưới ánh đèn, có người đang hì hục đào đất, lưng quay về phía Hasegawa. Do ngược sáng, Hasegawa không trông rõ mặt y, chỉ thấy vạt áo kimono của y đã được giắt lên thắt lưng cho gọn gàng để làm việc. Y cắm xẻng xuống đất, dùng chân ấn lưỡi xẻng xuống sâu hơn, rồi cố sức xúc đất lên. Không rõ y đào hố làm gì, nhưng có vẻ rất chuyên tâm, không hề nhìn ngang liếc dọc, đến lau mồ hôi cũng rất vội vàng.
Tiếng đào đất lạo xạo vang lên càng khiến màn đêm thêm phần âm u quỷ quái.
“A!”
Người đàn ông trong sân khẽ thốt lên, vứt xẻng đi, nằm bò ra dùng tay bới đất. Tiếng đất bị hất ra xen lẫn tiếng thở gấp gáp. Xem chừng y rất hào hứng.
“ối!”
Người đàn ông đột nhiên hét toáng lên, giật mình nhảy dựng ra sau rồi cứ nhấp nhổm ngó vào trong hố. Dưới cảnh tranh tối tranh sáng, toàn thân y run lên. Thấy vậy Hasegawa lập tức đập cửa.
“Mở cửa ra! Mau mở cửa ra!” Hasegawa lớn tiếng gọi.
Chợt nhận ra rằng nhảy qua tường rào để vào có khi còn nhanh hơn, Hasegawa chạy ngược mấy bước lên dốc lấy đà, vọt lên tường rào. Người đàn ông khom lưng nhìn anh ta, không có vẻ định chạy trốn. Hasegawa nhảy xuống khỏi tường rào.
“Có chuyện gì vậy? Anh làm gì ở đây?”
Hasegawa tiến tới chỗ người đàn ông thì đột nhiên y sợ hãi lùi lại, bước qua hố. Hasegawa rọi đèn pin vào mặt y. Dưới ánh đèn lồng và đèn pin, gương mặt người đàn ông hiện ra. Hasegawa nhận ra y, đó là vị hòa thượng trẻ Nicho của chùa Liên Hoa phía sau quán Mèo Mun.
“Ồ, ra là thầy. Thầy đang làm gì thế?”
Nicho xem chừng cũng muốn trả lời câu hỏi của Hasegawa, song cứ ấp a ấp úng, mãi không thốt nên câu.
“Ð… Đầu…”
Hasegawa định hỏi lại thì chợt nhìn xuống cái hố dưới chân…
”Á!”
Hasegawa la lên và giật nảy mình nhảy lùi về phía sau. Sợ nhìn lầm, anh ta lại rọi đèn pin vào hố, kiểm tra lần nữa. Dưới hố là thi thể một phụ nữ, mới lộ nửa thân trên. Có lẽ Nicho đang đào dở. Hasegawa đoán ngay đây là nữ bởi tử thi không mặc quần áo, lại được đặt nằm ngửa, phần ngực nhô lên cao hơn hẳn ngực đàn ông dù bám đầy đất cát. Hasegawa soi đèn pin vào mặt tử thi…
“…”
Anh ta hét không thành tiếng vì quá sợ hãi, tay nắm chặt đèn pin, tưởng chừng nghiền nát nó đến nơi.
Sau khi hít sâu vài hơi để lấy lại bình tĩnh, theo phản xạ, Hasegawa quay về phía Nicho, liếc nhìn chiếc khăn tay ướt sũng mà vị hòa thượng đang cầm, rồi lại đảo mắt xuống mặt tử thi và vô thức siết chặt đèn pin lần nữa. Hẳn Nicho đã nhúng khăn vào vũng nước trên sân rồi lau mặt cho tử thi. Xem ra y muốn biết xác chết này là ai, nhưng liệu y có thành công?
Không thể nào, bởi tử thi không còn mặt! Nói đúng ra là chỉ còn tàn tích của một gương mặt. Nó đã hoàn toàn phân hủy: vùng miệng khô quắt, lộ xương trắng hếu; mắt mũi biến mất, chỉ còn trơ lại mấy cái hốc trống hoác; quanh mấy cái hốc, những mẩu thịt giắt lại đã xám ngoét, teo tóp. Trên mấy mảng da đầu còn sót lại, vài sợi tóc lơ thơ dính bết vì ướt nước, nhưng chúng ngắn đến mức không thể dùng để phân biệt nam nữ.
Trông vậy thôi là đã ghê lắm rồi, thế mà chưa hết.
Khắp đầu lâu còn nhung nhúc dòi bọ. Đám dòi lúc nhúc nên dưới ánh đèn pin, gương mặt thi thể tưởng chừng đang khẽ co giật…
Hasegawa thấy buôn nôn, vội vàng soi đèn sang Nicho.
“Chuyện… Chuyện… Chuyện gì đã xảy ra? Xác chết này rốt cuộc là ai? Tại sao thầy lại sang đây đào đất?”
Hasegawa dồn dập chất vấn. Nicho mở miệng muốn phân trần song không thể trình bày rõ vì hai hàm răng đánh lập cập vào nhau. Cái đầu vốn bẹt của y méo xẹo, trán tái xanh nổi hai mạch máu như hai con giun đất, trông vô cùng kinh khủng. Không chỉ vậy, cặp mắt y vằn đầy tơ máu, lóe lên vẻ điên cuồng. Bộ dạng lúc ấy của Nicho còn đáng sợ hơn cả thi thể vừa được đào lên. Hasegawa rùng mình, bất giác lảng tránh ánh mắt Nicho.
Như đã đề cập ở trên, tử thi được phát hiện vào 0 giờ sáng ngày 20 tháng Ba năm 1947. Quá trình điều tra đáng lẽ phải bắt đầu luôn từ lúc đó, song do cảnh sát không điều động được đủ lực lượng ngay, nên phải đợi tới tảng sáng mới chính thức khởi động. Trong số các cảnh sát được huy động, có một điều tra viên dày dạn kinh nghiệm họ Murai (từ đây trở đi tôi xin “theo chân” anh ta để kể lại câu chuyện). Vừa tới hiện trường, Murai đã lập tức xem két các đặc điểm địa hình, địa lý trong khu vực. Trong tài liệu Kindaichi Kosuke gửi cho tôi có cả bản vẽ kèm chú thích đầy đủ của Murai. Dựa theo bản vẽ ấy, có thể mô tả đại khái khu vực xung quanh quán Mèo Mun như sau.
Ngôi chùa Liên Hoa mà tôi từng nhắc đến ở trên, xưa kia xem chừng khá rộng lớn, ngay cả ngày nay khuôn viên cũng vẫn trải rộng, kéo từ đường lớn là Dốc G vào đến tận Dốc Sau. Nói cách khác, cổng chính của chùa nằm ở phía khu phố Ginza nhộn nhịp, còn mặt sau giáp với Dốc sau, nơi có quán Mèo Mun. Nửa sau chùa là khu nghĩa trang hoang sơ, được bao quanh bởi rừng tạp. Như từng giới thiệu qua, khu vực này hơi dốc nghiêng về phía Tây, nhưng góc Tây chùa, tức chỗ nằm ngay sau quán Mèo Mun thì dốc đứng hơn hẳn. Hơn nữa, do kéo dài ra tận con đường trước mặt quán Mèo Mun (tức con đường chạy dọc, nối giữa Dốc G và Dốc Sau), mà vách đất (tạo thành do nền cao của chùa) thành ra bao trọn hai mặt Đông và Nam của quán. Điều này đồng nghĩa với việc quán Mèo Mun không giáp với nhà cửa nào. Chưa kể, nếu nhìn từ quán Mèo Mun ra, thì mảnh đất nằm bên kia Dốc Sau (tức mảnh đất ở phía Tây Bắc) còn bị bom đạn san phẳng, nên quán này hoàn toàn tách biệt với xung quanh. Có đặc điểm địa hình thế này, bảo sao đây là nơi lý tưởng để thực hiện những tội ác ghê rợn.
Sau khi nắm được các đặc điểm trên, điều tra viên Murai bước vào sân sau quán Mèo Mun. Lúc này khâu khám nghiệm sơ bộ đã xong, thi thể nạn nhân được đưa đi đợi giải phẫu. Theo chỉ thị của trưởng ban tư pháp, các điều tra viên trẻ đang ra sức đào xới khắp sân. Murai lại sân trưởng ban hỏi han.
“Kết quả khám nghiệm tử thi sao rồi? Tử vong từ bao giờ vậy ạ?”
“Xem ra từ khoảng ba tuần trước. Dĩ nhiên phải đợi có kết quả giải phẫu thì mới khẳng định chắc chắn được.”
“Cách đây ba tuần… Hôm nay là 20, vậy thời gian tử vong rơi vào cuối tháng trước hoặc đầu tháng này.”
“Chắc thế.”
“Nói vậy, tức là cái xác được chôn ở đây suốt mà không ai phát hiện ra. Người dân xung quanh cho biết, một tuần trước chủ quán cũ mới chuyển đi. Ở đây ngoài vợ chồng chủ quán, còn ba nhân viên nữ. Khó có khả năng bọn họ là đồng phạm, vậy thì tại sao không phát hiện ra nhỉ? Đào hố chôn xác đâu phải chuyện đơn giản. Hành sự xong nhất định sẽ để lại vết đào xới.”
“Nhưng hung thủ suy nghĩ chu toàn lắm. Đây, cậu xem. Hắn đã dùng đống lá rụng này để che dấu vết đào đất.”
Ra thế. Murai gật gù rồi ngẩng đầu lên trông mấy tán cây rậm rạp của chùa Liên Hoa đang xòa bóng xuống sân sau quán Mèo Mun.
“Phải rồi, nguyên nhân tử vong là gì? Bị sát hại phải không ạ?”
“Đương nhiên rồi. Chết do bị vật cứng đập vào sau ót. Cậu xem, đây là hung khí, ban nãy được đào lên cùng xác chết.”
Trưởng ban tư pháp chỉ xuống chân. Trên tấm chiếu ban nãy đặt tử thi, giờ là một cây rìu dính đầy bùn đất. Thường thì hộ gia đình nào sống ở ngoại thành cũng sẽ có một cây rìu nhỏ giống vậy, dùng để chẻ củi. Đây quả là hung khí lý tưởng. Murai nhìn lưỡi và chuôi rìu đen bẩn, bất giác cau mày rồi quay sang bên.
“Còn mái tóc này là… Ơ đây là tóc giả mà? Thế này là sao ạ?”
“Nó cũng được tìm thấy dưới hố. Có thể là tóc giả của nạn nhân. Dạo gần đây ngày càng nhiều phụ nữ để tóc ngắn, nên khi nào cần búi tóc họ thường dùng tóc giả.”
“Tức là nạn nhân là một phụ nữ đội tóc giả? Còn manh mối nào khác không ạ? Thứ gì đó chứng minh thân phận nạn nhân chẳng hạn…”
“Không còn gì nữa. Nạn nhân không mặc gì, tuổi khoảng hai lăm đến ba mươi. Mỗi thế thôi. Nhưng thế thì chỉ cần điều tra xem từ cuối tháng trước đến đầu tháng này có cô gái nào mất tích là sẽ lần ra manh mối.”
Trưởng ban tư pháp buông một câu xanh rờn mà mãi đến sau này mới biết việc đó khó ra sao.
“Thế vì sao vị hòa thượng tên Nicho lại biết ở đây có xác chết ạ?”
“À đúng rồi. Y vẫn còn hoảng loạn nên chúng ta chưa thẩm vấn được. Có điều theo như những gì y khai với Hasegawa đêm qua, thì đại khái hai ba hôm trước, khi đi ngang qua phía trên vách đất này, y chợt nghe có tiếng lạo xạo trong sân. Tò mò, y nhìn trộm, thì hóa ra có con chó đang bới đám lá rụng. Bỗng y phát hiện có gì đó như cẳng chân người lộ ra dưới lớp lá. Y không có gan xuống kiểm tra, nhưng từ đó trở đi luôn canh cánh trong lòng, càng muốn quên lại càng nhớ tới, thậm chí gặp ác mộng, Tối qua, cuối cùng y quyết định đến xem thử. Trông kìa, chỗ vách đất đằng kia còn lưu dấu vết y trượt xuống. Xẻng y cũng tự mang tới. Đúng là kẻ kì quặc. Phát hiện sự việc mà không dám báo cảnh sát. Y phân bua rằng không chắc đó là chân người. Nhưng tôi vẫn thấy y rất lạ. Lát nữa cậu đi xem thử coi. Tôi nghi ngờ y có vấn đề về thần kinh. Còn nữa… Ờ, sao thế, cái gì đấy?”
Nãy giờ vẫn đào xới chỗ vách đất, một điều tra viên chợt hét lên. Trưởng ban tư pháp vội vàng chạy tới đó. Murai lững thững theo sau.
“Mèo ạ. Đây, sếp xem. Chỗ này chôn xác một con mèo mun.”
“Mèo mun á?”
Trưởng ban tư pháp và Murai kinh ngạc ngó xuống cái hố cậu điều tra viên vừa đào. Dưới đó là xác một con mèo đen sì, nửa cơ thể vẫn vùi trong đất và lá rụng.
“Chắc con mèo này chết rồi mới bị đem chôn ở đây. Có cần em chôn nó lại không ạ?”
“Không, tiện thể thì đào nó lên luôn đi.”
Cậu điều tra viên nghe lệnh trưởng ban tư pháp, đào tiếp.
“Mèo ấy ạ?” Hasegawa bước qua cánh cửa gỗ bên hông để vào sân, cất tiếng hỏi rồi nhìn xuống hố. “Ồ, Kuro[53] này.”
“Kuro? Cậu biết con mèo này à?”
“Vâng, nó là con mèo ‘đại diện’ ở đây. Quán này tên Mèo Mun, nên chủ quán cũng nuôi một con mèo mun. Nó chết từ bao giờ vậy? Ối!”
Mọi người đang đứng quanh hố đồng thanh thốt lên, mặt biến sắc. Cậu điều tra viên trẻ đào hết đất xung quanh, vừa lấy xẻng xúc xác mèo lên, thì đầu nó bỗng lủng lẳng tưởng chừng sắp lìa khỏi cổ. Thì ra con mèo bị cắt cổ, chỗ cổ chỉ còn chút da giúp nối đầu với thân.
“Kẻ nào tàn nhẫn vậy!”
Ngay đến điều tra viên kì cựu như Murai cũng phải nhăn mặt, dụi dụi mắt.
“Hừm.” Trưởng ban tư pháp cất tiếng. “Tạm giữ xác nó lại. Biết đâu liên quan đến vụ án.”
Dặn dò cấp dưới xong, trưởng ban quay sang hỏi Hasegawa.
“Cậu có biết con mèo này biến mất từ bao giờ không?”
“Chà… Tôi không để ý lắm. Tuy nhiên… A đúng rồi! Cho đến năm, sáu hôm trước tôi vẫn thấy nó. Dù chủ quán cũ đã rời đi, nơi này chẳng khác nào nhà hoang, nhưng tôi vẫn thấy nó lượn lờ quanh đây.”
“Năm, sáu hôm trước?” Trưởng ban tư pháp trợn mắt hgạc nhiên. “Cậu đừng có đùa! Tôi không khẳng định chính xác được, nhưng trông xác thì con mèo này phải chết từ mười, hai mươi ngày trước rồi ấy.”
“Nhưng đúng là tôi đã thấy nó mà, mới gần đây thôi. Kì quái thật. Ừ nhỉ, xác mèo này phân hủy kha khá rồi.”
Hasegawa cởi mũ, gãi đầu băn khoăn. Trưởng ban tư pháp và Murai bất giác liếc nhau. Cảm giác quái đản và rùng rợn dần xâm chiếm họ. Nhất thời không ai lên tiếng.
Chính thời khắc ấy, người đào được xác mèo là cậu điều tra viên trẻ bỗng vứt xẻng đi và nhảy lùi về phía sau.
“S… Sao thế? Xảy ra chuyện gì à?”
“Đ… Ð… Đằng kia có con mèo mun… ”
“Hả?”
Cảm xúc của con người kể ra thật lạ. Làm gì có ai lại đi chết khiếp chỉ vì một con mèo, dù nó có là mèo đen hay mèo trắng. Vậy mà giờ đây, người nào người nấy đều giật mình kinh hãi. Đúng như lời cậu điều tra viên trẻ, trên vách đất tạo thành do nền cao của chùa Liên Hoa, có một con mèo đen tuyền đang lẳng lặng quan sát mọi người bằng cặp mắt sáng quắc. Giữa đám cỏ khô, bộ lông đen mượt của nó óng ánh lạ thường.
“Kuro, Kuro…” Mural gọi thử. “Meo…” Từ đám cỏ khô, con mèo mun dạn dĩ cất tiếng kêu. “Lại đây, lại đây. Kuro! Kuro!” Murai ngọt ngào gọi.
“Meo…”
Con mèo kêu như đang nũng nịu, thong thả nhảy xuống khỏi vách đất, sau đó ngẩng đầu nhìn mọi người như trách cứ rồi cứ thế đi vào nhà qua lối cửa sau.
“Ôi trời! Hóa ra có hai con mèo! Hasegawa, khéo đây con mèo cậu trông thấy mấy hôm trước.”
“Chắc vậy. Nhưng mà chúng giống nhau thật…”
“Ừm, cùng là mèo mun nên khó phân biệt, còn to tương đương nhau nữa… Biết đâu sau khi con mèo trước đây chết, chủ quán đã tìm con khác về thay thế?”
“Có lẽ vậy. Tôi cũng không đi điều tra hộ khẩu của mèo được, nên căn bản chẳng để ý.” Hasegawa không kiêng dè, nói thẳng.
Trưởng ban tư pháp cười trừ. “Đúng rồi, nhân nhắc tới hộ khẩu, cậu có mang sổ quản lý hộ khẩu tới không đấy?”
“Có, tôi mang đến rồi đây. Tiện thể tôi cũng đã qua trụ sở tổ dân phố, tìm hiểu thêm một số thông tin.”
“Thế à. Vậy cậu vào trong kể cho tôi nghe. Murai, cậu điều tra kĩ trong nhà đi. Tôi đoán hung thủ gây án trong căn nhà này, nên kiểu gì cũng tìm thấy dấu vết cho xem.”
Trưởng ban tư pháp cùng Hasegawa qua cửa sau vào nhà.
Quán Mèo Mun có cấu trúc y như mấy hộ kinh doanh cùng ngành nghề. Bước qua cửa sau sẽ tới ngay một lối thông, kéo dài từ sau ra trước. Nằm ngay cạnh cửa sau, bên trái lối thông là một gian phòng sáu chiếu, xem ra là phòng ở của vợ chồng chủ quán. Tầng một chỉ có gian ấy được lát chiếu, còn đâu thì đều là nền đất. Đi tiếp theo lối thông về phía trước thì qua gian ấy sẽ đến bếp, xong lến quầy rượu ở ngoài cùng. Trưởng ban tư pháp và Hasegawa đi qua bếp, đến chỗ quầy rượu nền đất.
Như tôi từng đề cập, chủ mới đang cho tu sửa lại căn nhà. Có điều giờ vẫn còn sớm nên công nhân chưa đến, Trên nền đất dựng đầy ván gỗ đang bào dở, mùn bào vương vãi khắp nơi. Trưởng ban tư pháp kéo ghế ra chỗ cái bàn ở một góc rồi ngồi xuống.
“Cậu ngồi đi.”
Hasegawa vừa ngồi xuống, trưởng ban liền nhìn thẳng vào mắt anh ta như giục giã.
“Được rồi, nói tôi nghe xem nào.”
“Cho đến khoảng một tuần trước, chính xác là đến ngày 14 tháng này, có ba người sinh sống trong căn nhà này, là vợ chồng chủ quán và một cô nhân viên. Quán còn có hai cô nhân viên nữa, nhưng họ không sống ở đây.”
Hasegawa đối chiếu sổ quản lý hộ khẩu và danh sách của tổ dân phố. Theo lời anh ta thì tình hình đại khái như sau.
Theo thông tin trong sổ quản lý hộ khẩu, vợ chồng chủ quán là Itojima Daigo và Shige. Daigo 42 tuổi, Shige 29 tuổi. Họ chỉ mới mua lại quán này vào hè năm ngoái, cụ thể là tháng Bảy năm 1946. Theo đơn đăng kí tạm trú ở tổ dân phố, trước đó vợ chồng họ vốn ở hai vùng khác nhau. Daigo ở Nakano, còn Shige ở Yokohama. Hơn nữa trước kia hai người đều từng sống bên Trung Quốc.
“Ồ, thì ra họ đều là người từ Trung Quốc về à!”
“Hình như vậy. Cô bé Kimi từng sống ở đây khai thế.”
Itojima Daigo chẳng hề giống dân kinh doanh ngành nghề này. Trông hắn khá hiền lành, khuôn mặt đầy đặn hồng hào, luôn cười tươi, tính cách hòa nhã vô tư. Ấy vậy mà hắn là người cáng đáng mọi công việc trong quán, từ mua sắm, sơ chế nguyên liệu, cho đến nấu nướng, pha chế.
Còn bà chủ quán Mèo Mun, tức vợ hắn, theo sổ quản lý hộ khẩu và cả danh sách của tổ dân phố thì tuy 29 tuổi, nhưng bề ngoài hơi già hơn so với tuổi. Chắc một phần là do kiểu tóc của cô ta.
“Tôi sống ở nước ngoài lâu nên mới càng thích mấy kiểu tóc truyền thống.” Shige bảo. Cô ta hay búi tóc kiểu lá bạch quả, mặc kimono trang nhã. Dáng dấp cân đối đúng chuẩn phụ nữ đẹp, khuôn mặt khá nhỏ, mặt mày sắc nét, lại phảng phất nét buồn, song có đôi phần dung tục. Khắp vùng chẳng ai đẹp bì được với cô ta. Khách hàng đến Mèo Mun đa phần đều vì Shige cả.
Nhân viên của Mèo Mun thì ngoài Kimi ban nãy vừa nhắc đến, còn hai cô nữa là Kayoko và Tamae. Kimi năm nay mới 17 tuổi, là gái quê chính hiệu, đến đánh phấn còn chưa biết chứ nói chi đến mấy chuyện quyến rũ, đưa đẩy. Tuy làm ở quán rượu nhưng cô bé không được bà chủ cho tiếp khách, mà chỉ coi như hầu gái, giúp việc.
Kayoko và Tamae thì lần lượt tự nhận là 23 và 22 tuổi, nhưng chẳng biết có thật thế không. Họ trang điểm rất đậm, luôn diện váy áo kiểu Tây như muốn chối bỏ quốc tịch. Tamae có thân hình đầy đặn, tưởng chừng chẳng bao giờ thiếu đói, ngược lại Kayoko thì gầy nhẳng như châu chấu, luôn tự hào về vóc dáng của bản thân.
“Một tuần trước năm người họ vẫn còn ở Mèo Mun.”
“Thế giờ đâu cả rồi?”
“Vâng, chuyện ấy thì dễ tìm hiểu lắm. Nghe nói vợ chồng Itojima và cô bé Kimi đã có giấy xác nhận chuyển nơi cư trú, còn Kayoko và Tamae thì dự định quay lại đây làm việc sau khi quán sửa chữa xong.”
“Hừm, thế thì… liệu thi thể kia có khi nào là một trong bốn người phụ nữ này không nhỉ?”
Hasegawa bất ngờ trợn mắt nhìn trưởng ban tư pháp. Xem chừng anh ta chưa bao giờ nghĩ tới khả năng ấy.
“Xin lỗi, có lẽ do tôi trình bày chưa đủ rõ ràng. Sau khi vợ chồng Itojima chuyển đi, tôi từng gặp cả Kimi, Kayoko và Tamae. Tôi tình cờ gặp Kayoko và Tamae trên đường vào ngày 14, tức hôm quán Mèo Mun đóng cửa. Tôi hỏi họ nghỉ làm rồi à. Họ trả lời vâng, nhưng cũng khoe là chủ mới nài nỉ quá, nên bao giờ quán sửa chữa xong sẽ quay lại làm việc. Chưa hết, một ngày trước khi gặp họ, tôi gặp Kimi ở trụ sở tổ dân phố. Cô bé bảo đến lấy giấy xác nhận chuyển nơi cư trú. Do đang thất nghiệp, Kimi sẽ tới tá túc tại nhà bà thím ở Meguro.”
“Thế còn bà chủ Shige đâu?”
“Bà chủ á? Thưa trưởng ban, thời gian tử vong của nạn nhân là khoảng cuối tháng trước, đầu tháng này cơ mà? Nếu Shige mất tích suốt từ đó đến hôm đóng cửa quán là ngày 14, thì cũng phải có người nhận ra chứ… À, phải rồi. Sau đó tôi từng gặp cô ta. Đúng tối 14 luôn. Ông biết đấy, đồn của tôi nằm ngay đầu khu hẻm. Tối 14, tôi đứng canh ngoài cửa thì bắt gặp hai vợ chồng Itojima Daigo và Shige vội vã đi ngang qua. Tôi đoán họ vừa dọn đồ xong, đang trên đường rời đi, nên chắc chắn đó là tối 14.”
“Tôi hiểu rồi. Nói vậy thì thi thể kia không thể là người của quán Mèo Mun. À mà vợ chồng Itojima chuyển đi đâu đấy?”
“Rất xa… Kobe.”
“Kobe à? Hừm.” Trưởng ban tư pháp trầm tư một hồi rồi nhoài người ra trước hỏi. “Hasegawa, tôi thắc mắc nốt câu cuối, và là câu quan trọng nhất. Tại sao vợ chồng lojima lại nhượng quán cho người khác? Cư dân quanh dây có bàn tán gì về chuyện này không?”
“A, bàn tán hả? Có đó, ai cũng thấy khó hiểu. Kinh doanh nghề này thực ra phụ thuộc rất nhiều vào hàng hóa chợ đen chứ không đơn giản như bề ngoài, nhưng Mèo Mun vẫn được xếp vào dạng ăn nên làm ra. Cho nên vừa nghe nói họ muốn sang nhượng, chẳng riêng gì dân xung quanh, mà cả Kayoko và Tamae cũng ngạc nhiên. Chỉ có Kimi sống chung với vợ chồng chủ quán mới biết sơ qua nội tình. Có lần tôi gặp Kimi ở trụ sở tổ dân phố, cô bé bảo…”
Như từng nói ở trên, vợ chồng Itojima vốn là dân từ Trung Quốc về. Kimi không rõ hồi sống bên đó thì họ ở đâu, nhưng xem ra là một vùng sâu trong Hoa Bắc. Khi chiến tranh kết thúc, toàn bộ người Nhật bị tống về nước và hai vợ chồng phải tới Thiên Tân để từ đó về Nhật, Không hiểu họ lạc nhau trên quãng đường ra Thiên Tân, hay lúc lên tàu thủy để về Nhật thì bị tách ra, mà Shige về nước trước chồng nửa năm.
Shige một thân một mình, tay không cắc bạc về tới Nhật. Sống bên nước ngoài quá lâu nên về đây cô ta chẳng có người quen. Như bao cô gái cùng cảnh ngộ, số phận đưa đẩy cô ta trở thành gái quán rượu. Xinh đẹp lại thông minh, Shige câu được một gã chủ thầu xây dựng giàu có ở Yokohama. Nhờ làm nhân tình của gã, cuộc sống của Shige đỡ cơ cực. Nhưng đúng lúc ấy Itojima Dalgo lại trở về. Sau đó thế nào Kimi không rõ, chỉ biết Shige chia tay nhân tình và nhận được một khoản phí chia tay làm vốn mua Mèo Mun.
“Tuy đã nhận tiền và chia tay song hình như Shige còn giữ liên lạc, đến dạo gần đây vẫn qua lại với nhân tình. Daigo biết nên hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Tuy nhiên, Daigo khá kiêng dè vợ, không dám làm lớn chuyện bởi mới về nước không một xu dính túi, đang phải dựa vào vợ mới sống được qua ngày. Huống chi bản thân hắn cũng có người phụ nữ khác.”
“Ồ! Ả là ai?”
“Một người Nhật trở về từ Trung Quốc. Ban nãy tôi có kể rồi đấy, Daigo về sau vợ nửa năm, hắn quen biết ả đó trên tàu. Trở về Nhật, Daigo sống với ả cho tới khi tìm thấy và quay lại với Shige, nhưng thi thoảng vẫn gặp mặt ả.”
“Chuyện này cũng do Kimi kể à?”
“Vâng.”
“Sao Kimi lại biết rõ mấy chuyện này thế?”
“Cô bé nghe Shige kể. Shige sai Kimi làm gián điệp, có lần cử đi theo dõi Daigo, phát biện hắn và ả kia hẹn gặp nhau.”
“Vậy là Shige cũng biết ả sao? À, cậu kể chi tiết chuyện Kimi theo dõi Daigo được không?”
“Vâng. Lúc ấy Kimi còn đắc ý kể lại, nên tôi nhớ rõ lắm. Đại khái là…”
Dạo gần đây rượu và thực phẩm khan hiếm, quán Mèo Mun thường xuyên phải đóng cửa. Mỗi lần như vậy bà chủ Shige lại ra ngoài một mình. Khỏi nói, chắc chắn là đi gặp nhân tình. Ông chủ Itojima Daigo ở lại trông quán biết rõ mười mươi, luôn hậm hực không vui, nốc rượu rồi lôi Kimi ra xả giận, chẳng giống con người hòa nhã thường ngày. Shige về tới nhà là vợ chồng cãi nhau. Thế nhưng không hiểu vì sao mà về sau Daigo bỗng khác hẳn. Shige vừa ra ngoài, Daigo cũng háo hức đi luôn. Kimi lấy làm lạ bèn báo cáo với Shige. Dường như Shige cũng đã lờ mờ đoán ra nên dặn dò Kimi: lần sau khi chị ra ngoài mà ông chủ cũng đi, thì mày lén theo dõi cho chị.
“Vì thế Kimi bắt đầu theo dõi Itojima Daigo.”
“Cô bé thấy mặt người phụ nữ kia rồi chứ? Ả trông thế nào?”
“Nghe nói ả rất đẹp, khoảng hai tư hai lăm tuổi. Để tóc ngắn, tô son đỏ đậm, thoạt trông y chang gái nhảy hay ca kĩ. Daigo hẹn ả ở ga Shinjuku, rồi cùng tới Inogashira và vào một căn nhà khả nghi. Kimi theo dõi tới đây thì chạy về báo cáo. Shige rất tức tối, luôn bảo rằng biết ả. “Ả tên là Ayuko, trước từng làm ở vũ trường Nhật Hoa, người từ Trung Quốc về cùng Daigo. Khốn kiếp! Chúng nó vẫn liên lạc với nhau à!” Thế là tối đó Daigo và Shiga cãi nhau to. Không, từ đó trở đi không khí trong nhà luôn rất căng thẳng, vợ chồng cãi nhau liên miên. Có điều, sau đó Shige bắt đầu tỉnh ngộ. Dạo này cô ta còn bảo “muốn khép lại quá khứ, cả ngày lải nhải “muốn cùng chồng sống cuộc đời đàng hoàng tử tế, dẫu có nghèo khó”. Shige lo nếu ở lại Tokyo, những ràng buộc quá khứ sẽ ngáng đường cả hai nên muốn chuyển đi thật xa. Một thời gian sau Daigo đột nhiên tuyên bố đóng cửa quán, Kimi nghe chuyện cũng chẳng ngạc nhiên.”
Trưởng ban tư pháp im lặng ngẫm nghĩ, rà lại trong đầu các tình tiết vừa nghe. Câu chuyện này vốn chằng mới mẻ, ngoài xã hội đầy rẫy, nhưng không hiểu sao lại gây cho ông nỗi bất an khó tả. Tựa hồ những việc xảy ra trong câu chuyện của vợ chồng Itojima đang ẩn giấu âm mưu thâm hiểm, tàn độc nào đó.
“Ả nhân tình của Daigo từng làm ở vũ trường Nhật Hoa. Thế còn nhân tình của Shige là ai?”
“Chủ của công ty xây dựng Kazama, tên là Kazama Shunroku.”
Trưởng ban tư pháp ghi cái tên đó vào sổ tay.
“Tôi hiểu sơ qua tình hình nhà này rồi. À, còn về hòa thượng Nicho, rốt cuộc y làm sao vậy? Đầu óc hơi không bình thường thì phải?”
“Không, cũng không hẳn. Y nổi tiếng là kì quặc, song trông vậy thôi chứ biết nghĩ cho vị trụ trì già lắm. Chùa Liên Hoa là hộ giàu có ở vùng này. Đất đai quanh đây, bao gồm cả quán Mèo Mun đều thuộc về chùa Liên Hoa. Ngày trước, tăng lữ trong chùa bị gọi nhập ngũ khá nhiều, cuối cùng họ không chết trận thì cũng chưa phục viên. Đến giờ chỉ còn trụ trì Nissho và hòa thượng Nicho. Nicho khá trẻ, tầm hai sáu tuổi, đương nhiên từng bị gọi nhập ngũ, nhưng do hồi nhỏ mắc bại não, giờ một chân hơi liệt nên trốn được. Trước chiến tranh, trụ trì Nissho bỗng gặp tai biến, đến giờ gần như liệt giường. Thành ra mọi việc trong chùa từ làm lễ đến giặt giũ nấu nướng, và ngay cả việc thu tiền đất cũng đều do Nicho xử lý. Y vốn kiệm lời, chẳng mấy khi mở miệng, thậm chí lúc cần cũng không nói. Cũng tốt, không sợ lỡ mồm lỡ miệng. Khu vực này khá phức tạp, người thuê đa phần là mấy cô mắt xanh mỏ đỏ. Mỗi lần Nicho đi thu tiền đất, bọn họ đều lả lơi ong bướm lôi kéo, trêu chọc, nhưng y chẳng quan tâm. Đấy, nên khắp khu vực này, mọi người đều biết tính tình kì quái của Nicho. Y hơi kì quặc nhưng tôi nghĩ là chẳng đáng bận tâm đâu.”
Vừa hay có tiếng lay cửa ngoài cửa trước. Thợ mộc và thự xây đã tới. Trưởng ban tư pháp đứng dậy bảo họ vòng ra cửa sau, bản thân ông cũng theo lối thông đi về phía cửa sau nốt. Đúng lúc ấy, từ gian phòng sáu chiếu, điều tra viên Murai ló mặt ra.
“A, sếp ơi, đợi tôi chút…”
“Ừ Murai, phát hiện ra gì à?”
Trưởng ban tư pháp tháo giày, bước vào gian phòng, Murai không nói không rằng, lật tấm thảm cói mỏng trải sát tường lên. Bên dưới tấm thảm là tấm chiếu còn in vết máu, trông rõ ràng đã bị cố lau đi. Thấy thế trưởng ban tư pháp bất giác nuốt nước bọt vì kinh hãi.
“Hung thủ gây án trong phòng này sao?”
Murai gật đầu, rồi chỉ vào tấm chiếu nằm trước tủ âm tường ở sát hành lang nhìn ra sân sau.
“Sếp trông, trên tấm chiếu đó còn hằn vết chân của tủ kéo. Tuy nhiên chẳng ai lại để tủ kéo trước tủ âm tường, nên suy ra tấm chiếu đó và tấm chiếu có vết máu này đã được đổi chỗ cho nhau. Tức tấm chiếu có vết máu vốn nằm ở chỗ đó. Tiếp theo mời sếp…”
Có một tờ báo được dán phía dưới cái hõm (để kéo cửa) trên cánh cửa trượt của tủ âm tường.
“Ban nãy tôi đã khá vất vả mới xé được nó ra.”
Murai lật góc dưới của tờ báo lên. Trên cánh cửa tủ là một vết máu lớn. Những tia máu bắn tung tóe như thể cả một bọc máu đã bị ném mạnh vào cửa tủ.
“Tôi đoán hung thủ đã ẩu đả với nạn nhân trong gian phòng này. Nạn nhân muốn trốn ra sân sau nhưng bị hung thủ dùng rìu bổ một nhát từ sau lưng. Nhưng sếp xem tờ báo này đi. Đây là báo ra ngày 27 tháng Hai. Hung thủ sẽ không hớ hênh gây án xong lại để nguyên vết máu trên cửa tủ mãi, nên vụ án hẳn không xảy ra trước ngày 27 tháng Hai. Đồng thời, nhiều khả năng hung thủ tiện tay dùng luôn tờ báo ở gần nhất. Nên thời điểm gây án chỉ có thể rơi vào ngày tờ báo phát hành hoặc sau đó vài ba hôm. Tức là khoảng 27, 28 tháng Hai hoặc muộn lắm là mùng 2, 3 tháng Ba.”
“Hừm. Khá khớp với tình trạng phân hủy của tử thi. Nhưng Murai này, nói vậy thì chẳng lẽ trong những hai tuần sau đó, vợ chồng Itojima vẫn sinh hoạt trong căn nhà dính đầy máu của người phụ nữ bị họ giết à?”
Chú Thích:
[49] Một truyện trong series trinh thám về Kindaichi Kosuke của Yokomizo Seishi. IPM phát hành.
[50] Vải dệt thủ công truyền thống của quần đảo Amami thuộc tỉnh Kagoshima. Vải Oshima thường tối màu, có họa tiết dệt độc đáo và đẹp mắt, là loại vải cao cấp.
[51] Chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945). Năm 1937, căng thẳng giữa Trung Quốc và Đế quốc Nhật Bản leo thang, nhân sự kiện Lư Câu Kiều, Nhật Bản nổ súng, bắt đầu chiến tranh Trung-Nhật. Cuộc chiến kéo dài suốt chín năm. Cho đến năm 1945, Nhật đầu hàng quân Đồng minh, đồng thời rút khỏi Trung Quốc, chiến tranh Trung-Nhật kết thúc.
[52] Khu phố ăn chơi, mua sắm sầm uất nổi tiếng bậc nhất của Tokyo.
[53] Kuro trong tiếng Nhật nghĩa là màu đen.