Chương 4 TÁI CƠ CẤU CÔNG TY:
PHẦN LÕI VÀ PHẦN RÌA
XÂY DỰNG CONSENSYS
Ngày 30 tháng 7 năm 2015 là một ngày trọng đại đối với các lập trình viên, các nhà đầu tư, các doanh nhân và các nhà chiến lược kinh doanh toàn cầu. Họ cho rằng Ethereum chính là sự bùng nổ tiếp nối bitcoin – không chỉ đối với việc kinh doanh mà thậm chí nó còn có thể ảnh hưởng đến nền văn minh nhân loại. Người ta đã mất đến 18 tháng để tạo nên Ethereum dựa trên nền tảng blockchain và cuối cùng nó đã chào đời.
Chúng tôi đã được tận mắt mục sở thị lễ ra mắt Ethereumtại văn phòng Brooklyn của Consensus Systems (ConsenSys) – một trong những công ty đầu tiên phát triển phần mềm Ethereum. Vào khoảng 11 giờ 45 phút sáng, khắp mọi nơi người ta vỗ tay hò reo khi mạng lưới Ethereum cho ra đời “block gốc” của mình. Ngay lập tức, các thợ đào điên cuồng giành giật nhau giải khối ether (đơn vị tiền tệ của Ethereum) đầu tiên. Hôm đó quả là căng thẳng. Một cơn dông bão khi đó đang làm cỏ khu vực sông Đông, hàng loạt cảnh báo khẩn cấp về một trận lũ lụt sẽ tới được gửi đi trên chiếc điện thoại thông minh của mọi người.
Theo thông tin trên trang web, Ethereum là một nền tảng chạy các ứng dụng phi tập trung, còn gọi là các hợp đồng thông minh. Nó được mô tả là “chính xác như đã được lập trình, hoạt động liên tục không có thời gian nghỉ, không kiểm duyệt, không có gian lận và không chịu ảnh hưởng từ bên thứ ba.” Ethereum giống bitcoin ở điểm, ether cũng thúc đẩy một mạng lưới ngang hàng để xác nhận các giao dịch, đảm bảo an ninh cho mạng lưới, và đạt được sự đồng thuận về những sự vật đã tồn tại và những sự kiện đã xảy ra. Nhưng không giống như bitcoin, nó bao gồm một số công cụ mạnh mẽ giúp các lập trình viên có thể tạo ra đủ thứ dịch vụ phần mềm, từ các trò chơi phi tập trung cho đến thị trường chứng khoán.
Ethereum được tạo ra vào năm 2013 bởi Vitalik Buterin, một thanh niên 19 tuổi người Canada gốc Nga. Anh đã tranh cãi kịch liệt với nhóm lập trình viên bitcoin rằng nền tảng này cần một ngôn ngữ lập trình mạnh hơn để có thể phát triển thêm ứng dụng. Bị từ chối, anh đã quyết định sẽ tự tạo ra một nền tảng công nghệ của riêng mình. ConsenSys là công ty đầu tiên tạo ra block, hay nói cách khác, đã cho ra mắt ứng dụng dựa trên nền tảng Ethereum đầu tiên. Vài năm sau, ai cũng có thể nhìn ra được: Vitalik Buterin của Ethereum chính là Linus Torvalds của Linux.
Bàn về sự phát triển của blockchain và công nghệ Ethereum, Joseph Lubin, đồng sáng lập của hệ thống ConsenSys, phát biểu: “Tôi thấy rõ ràng, thay vì mọi người lãng phí thời gian đi xuống phố với áp phích trên tay, chúng ta có thể cùng nhau chung tay tìm ra giải pháp cứu lấy nền kinh tế và xã hội đang dần đổ vỡ này.” 1 Đừng tìm cách chiếm lấy Phố Wall. Hãy tự tạo nên một Phố Wall của riêng mình.
Giống như nhiều doanh nhân khác, Lubin khá táo bạo, ông không chỉ muốn xây dựng một công ty vĩ đại mà còn muốn giải quyết những vấn đề hệ trọng trên thế giới. Ông ngây ngô cho rằng công ty là một “hãng hỗ trợ khởi nghiệp blockchain, xây dựng các ứng dụng phi tập trung, chủ yếu là trên Ethereum.” Nghe rõ là vớ vẩn. Tuy nhiên, nếu được thực hiện, những ứng dụng mà hệ thống ConsenSys đang xây dựng sẽ làm cửa sổ của nơi trú ngự hàng chục ngành công nghiệp phải rung lên và đập liên hồi vào tường. Các dự án đó bao gồm hệ thống kế toán tam phân; một phiên bản phi tập trung của diễn đàn thảo luận rất phổ biến Reddit, phiên bản này đang bị cản trở bởi những tranh cãi xoay quanh vấn đề kiểm soát tập trung của diễn đàn; một hệ thống quản lý và tạo lập tài liệu cho các hợp đồng tự thực hiện (hợp đồng thông minh); thị trường dự đoán trong kinh doanh, thể thao và giải trí; thị trường năng lượng mở; mô hình kho nhạc phi tập trung để cạnh tranh với Apple và Spotify, mặc dù hai công ty này cũng có thể sử dụng nó; 2 và các công cụ kinh doanh phục vụ cho sự hợp tác, sáng tạo trên diện rộng và quản lý trên phạm vi rộng lớn của những công ty phi quản lý.
Câu chuyện của chúng tôi về hệ thống ConsenSys không nhắc nhiều đến tham vọng về những hàng hoá và dịch vụ dựa trên nền tảng blockchain. Đây là câu chuyện về những nỗ lực để xây dựng một công ty của riêng mình, một công ty tiên phong trong lĩnh vực khoa học quản lý mới – quản lý không cần lãnh đạo, một quy trình hợp tác chứ không phải là quy trình phân cấp để xác định và sắp xếp công việc cần phải làm. Lubin nói: “Tôi không muốn chúng ta thực hiện mô hình quản lý này bởi cá nhân tôi thấy nó quá cứng nhắc và máy móc. Chúng tôi đang nỗ lực kết hợp chặt chẽ những triết lý vào tổ chức và quy trình hoạt động.” Tư tưởng bao hàm trong những nguyên lý Holacracy này là “năng động trong vai trò tốt hơn là phân chia công việc theo cách truyền thống”; chúng ta phân chia chứ không phó thác công việc; các quy tắc minh bạch tốt hơn là khuôn phép trong văn phòng; tăng tốc độ xoay vòng công việc thay vì tái cơ cấu”. Tất cả những điều trên đã mô tả chính xác cách thức hoạt động của công nghệ blockchain. Cơ cấu tổ chức của ConsenSys, cách họ tạo ra giá trị, phương pháp quản lý, tất cả đều rất khác biệt, không chỉ so với những tập đoàn công nghiệp mà còn cả với những công ty Internet điển hình.
Joe Lubin không phải là một nhà tư tưởng, và chắc chắn không phải là người có chủ trương vô chính phủ hay tự do như một số người theo phong trào tiền mã hóa. Nhưng ông cho rằng cần phải cải cách chủ nghĩa tư bản nếu chúng ta còn muốn nó tồn tại, đặc biệt cần phải loại bỏ hệ thống chỉ huy và kiểm soát – những thứ không phù hợp với thế giới Internet. Ông nhận định rằng ngày nay, mặc dù các mạng lưới rộng lớn đang dần bao trùm thế giới, giúp chúng ta có thể tương tác với nhau mà không tốn quá nhiều chi phí, không gian tương tác cũng hết sức phong phú và thời gian tương tác gần như là ngay tức thì, nhưng đâu đó vẫn tồn tại hệ thống phân chia cấp bậc. Công nghệ blockchain chính là sự đối trọng.“Ngày nay, xã hội loài người có thể chấp nhận một sự thật và đưa ra quyết định trong vòng 10 phút hay thậm chí chỉ 10 giây. Điều này hiển nhiên đã tạo cơ hội để phát triển một xã hội tự do hơn,” ông nói. Càng có nhiều người tham gia thì sự thịnh vượng càng lớn.
Các nhà quản lý phải ra đi nhưng công việc quản trị sẽ còn lại mãi
Hệ thống ConsenSys hoạt động theo một kế hoạch mà tất cả nhân viên (“thành viên”) đã cùng phát triển, sửa đổi, bỏ phiếu và thông qua. Joe Lubin miêu tả cấu trúc hoạt động của công ty là cấu trúc “trục bánh xe” chứ không phải là một hệ thống phân cấp, và mỗi dự án đều chính là những “nan hoa bánh xe” mà ở đó, những cổ đông chủ chốt đều nắm giữ cổ phần.
Đối với hầu hết các phần công việc, các thành viên của hệ thống ConsenSys tự chọn công việc cho mình thay vì được cấp trên giao cho. Lubin nói, “Chúng tôi chia sẻ mọi thứ có thể, bao gồm cả các phần mềm. Chúng tôi xây dựng các nhóm nhỏ linh hoạt nhưng có sự hợp tác trao đổi khi làm việc, nhờ đó các tương tác mang tính tức thời, trở nên phong phú và mở hơn.” Các thành viên có thể chọn làm từ 2 đến 5 phần việc. Khi nhận thấy một công việc cần gấp rút hoàn thành, họ sẽ tập trung giải quyết nó, đẩy tiến độ công việc lên một chút hoặc giải quyết nó nhanh chóng theo hướng đi tốt nhất, phù hợp với vai trò năng lực của họ. Ông nói, “Chúng tôi trao đổi với nhau rất nhiều, vậy nên mọi người đều nhận thấy được việc gì có thể đẩy lên trước.” Nhưng có rất nhiều điều đang và có thể sẽ liên tục biến đổi. “Trở nên nhanh nhẹn đồng nghĩa với việc các mục tiêu ưu tiên phải linh hoạt.”
Lubin không phải là ông chủ. Công việc chính của ông là đưa ra lời khuyên: “Nhiều khi, có những người hỏi tôi hoặc đồng nghiệp trong công ty là phải giải quyết công việc thế nào cho tốt”, ông nói. Thông qua Slack 3 và GitHub 4 , ông đã đề ra các phương hướng mà họ có thể thực hiện theo “để dựng nên mọi dịch vụ và nền tảng mà chúng ta muốn dựng và nhiều điều chúng ta muốn thực hiện nhưng chưa nghĩ ra phương thức triển khai.”
Quyền sở hữu thành viên rõ ràng đang khuyến khích hành vi này. Mọi người đều sở hữu một phần của dự án theo cách nào đó, trực tiếp hoặc gián tiếp: nền tảng Ethereum phát hành token, các thành viên có thể đổi lấy ether và sau đó có thể chuyển chúng sang bất kỳ dạng tiền tệ nào khác. “Mục tiêu của chúng tôi là đạt được sự cân bằng giữa độc lập và phụ thuộc lẫn nhau,” Lubin nói, “Chúng tôi tự coi mình là một tập thể gồm những nhân viên làm việc như doanh nhân, hợp tác chặt chẽ với nhau. Ở một khía cạnh nào đó, nó có thể chứng minh rằng việc nhìn nhận rõ ràng công việc nào cần được giải quyết là hết sức quan trọng. Để khi không có ai đứng lên xử lý, chúng ta còn biết để thuê thêm người với mục đích ưu tiên thực hiện vai trò đó hoặc tổ chức bàn bạc nội bộ để cùng nhau xử lý công việc.” Nhưng nhìn chung, “tất cả mọi người đều phải tự quản lý chính mình. Tôi đã nói là mọi người tương tác với nhau rất nhiều rồi phải không? Nhưng sau đó chúng tôi đều phải tự đưa ra quyết định của chính mình”.
Khẩu hiệu của công ty là linh hoạt, cởi mở và đồng lòng: Đầu tiên, họ xác định công việc phải làm, phân công khối lượng công việc cho những người nhiệt tình và có năng lực làm việc, đồng thuận về vai trò của nhau, rồi nhận trách nhiệm và bồi thường, các quyền lợi sẽ được soạn thảo một cách “rõ ràng, chi tiết, không mập mờ, tự thực thi các thỏa thuận, như một chất keo kết nối tất cả các mối quan hệ của chúng ta với nhau”, ông nói. Một số người thỏa thuận để được trả lương theo năng lực, một số khác trả lương hằng năm bằng ether, và cũng có những người được “yêu cầu tham gia”, tiền thưởng của họ gắn liền với khối lượng công việc thực hiện, dù chỉ là viết một dòng mã. Nếu dòng mã được chấp nhận, thì phần thưởng sẽ tự động được gửi tới. “Tất cả mọi thứ được hiển thị một cách hợp lý và minh bạch. Mọi hoạt động đều rõ ràng và chi tiết,” ông nói. “Điều đó khiến chúng tôi tự do giao tiếp, sáng tạo và thích ứng dựa trên những mong đợi.”
Liệu chúng ta có dám tạo ra định nghĩa blockcom, một công ty được hình thành và phát huy chức năng của mình dựa trên công nghệ blockchain? Đó chính là mục đích của việc vận hành hệ thống ConsenSys trên Ethereum càng nhiều càng tốt, từ việc quản trị và hoạt động hằng ngày cho đến quản lý dự án, phát triển và thử nghiệm phần mềm, tuyển dụng nội bộ và thuê ngoài, bồi thường và tài trợ. Công nghệ blockchain còn đem đến hệ thống đánh giá uy tín để các thành viên có thể đánh giá kết quả làm việc của một người với vai trò hỗ trợ, từ đó tạo dựng niềm tin trong tập thể. Lubin chia sẻ rằng, “Sự tồn tại của hệ thống danh tính cá nhân và hệ thống đánh giá giúp cho chúng tôi thành thật và đối xử với nhau tốt hơn.”
Điều này đã xóa nhòa các ranh giới của một doanh nghiệp. Không có sự sắp đặt mặc định nào cho sự kết hợp này. Các thành viên của hệ sinh thái ConsenSys có thể cùng nhau tạo nên một trung tâm trong hệ thống bằng cách đạt được sự đồng thuận về chiến lược, cơ cấu, vốn, hiệu suất hoạt động và quản trị. Họ có thể quyết định cho ra mắt một công ty cạnh tranh trong một thị trường đã tồn tại hoặc đóng góp cơ sở hạ tầng cho một thị trường mới. Một khi công ty ra đời, họ có thể điều chỉnh lại những sắp đặt đó.
Phi tập trung hóa doanh nghiệp
Công nghệ blockchain sẽ làm giảm trở ngại giữa các công ty. “Nếu trở ngại giảm bớt thì các chi phí cũng sẽ giảm đi bởi giá của các bên trung gian có giá trị được xác định thông qua cơ chế khám phá giá hiệu quả nhất: thị trường tự do phi tập trung. Lubin cho rằng, “Các nhà đầu cơ không còn có thể lợi dụng những bất công trong pháp lý, quy định, thông tin, và quyền lực sử dụng vai trò trung gian của mình để vơ vét nhiều hơn là đóng góp cho giao dịch được nữa.”
Liệu hệ thống ConsenSys có thể xây dựng một loại tổ chức tự trị phi tập trung thực sự được sở hữu và kiểm soát bởi những nhà tạo lập giá trị không phải con người, được quản lý thông qua các hợp đồng thông minh chứ không phải là cơ quan quản lý do con người tạo ra hay không? “Nó có thể làm mọi thứ!” Lubin nói. “Trí tuệ khổng lồ dựa trên nền tảng máy tính phi tập trung toàn cầu, nó sẽ thay đổi cơ cấu của các doanh nghiệp từ tập hợp các phòng ban chuyên biệt do con người điều hành thành các tác tử phần mềm* có thể hợp tác cùng nhau và cạnh tranh trên thị trường tự do.” Một số tác tử sẽ ghép lại với nhau trong dài hạn để phục vụ những nhu cầu hiện có của khách hàng, chẳng hạn như các tiện ích và bảo trì. Một số khác sẽ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn, rồi sau đó nhanh chóng giải tán sau khi đã hoàn thành sứ mệnh của mình.
[*]: Tác tử phần mềm (software agent): Phần mềm hoạt động độc lập và chủ động đưa ra các quyết định, nó hoạt động với vai trò đại diện cho một người dùng hoặc một phần mềm khác.
Liệu có tồn tại nguy cơ rằng sự phi tập trung và tự động hóa cực đoan có thể loại bỏ chức năng đưa ra quyết định của con người hay không? (như nguy cơ từ các thuật toán lừa đảo). “Tôi không lo lắng về trí tuệ nhân tạo. Chúng ta sẽ phát triển cùng với nó và trong thời gian dài sắp tới, nó sẽ phục vụ hoặc trở thành một khía cạnh trong sự điều khiển của Người tinh khôn (Homo sapiens cybernetica). Có thể một lúc nào đó chúng sẽ vượt qua loài người, nhưng vậy cũng tốt,” Lubin nói. “Nếu vậy, nó sẽ chiếm một vị trí khác trong hệ sinh thái. Nó sẽ hoạt động với một tốc độ và quy mô thời gian khác chúng ta. Trong bối cảnh đó, trí thông minh nhân tạo sẽ không phân biệt con người với đá, hay những quá trình địa chất nữa. Chúng ta đã tiến hóa vượt trên rất nhiều chủng loài, nhưng nhiều loài vẫn đang thực hiện rất tốt chức năng của mình đó thôi (trong hình thái hiện tại).”
“ConsenSys vẫn còn là một công ty nhỏ. Cuộc thử nghiệm của nó có thể sẽ thành công hoặc thất bại. Nhưng câu chuyện đã cho chúng ta thấy cái nhìn tạm thời về những thay đổi cơ bản trong cấu trúc doanh nghiệp, từ đó có thể giúp tạo ra đổi mới và khai thác sức mạnh vốn nhân lực, không chỉ trong việc tạo ra của cải mà còn cả tạo ra thịnh vượng. Công nghệ blockchain đang cho phép các hình thức tổ chức kinh tế mới và các danh mục đầu tư mới trở nên giá trị. Có những mô hình phi tập trung về quyền sở hữu, cơ cấu, hoạt động, phần thưởng, quản trị của doanh nghiệp đang nổi lên – vượt xa việc tăng cường cải tổ, tạo động lực cho nhân viên và hành động tập thể. Đây có thể là điều kiện tiên quyết để làm nên một nền kinh tế thịnh vượng được mong chờ bấy lâu.
Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp sẽ có cơ hội xem lại cách thức họ tổ chức công việc tạo ra giá trị. Họ có thể đàm phán, ký kết các hợp đồng và thực thi các thỏa thuận trên blockchain; giao dịch với các nhà cung cấp, khách hàng, nhân viên, nhà thầu, các tác tử tự trị*; đồng thời duy trì nhóm tác tử này với những mục đích sử dụng khác nhau. Các tác tử này có thể cho thuê hoặc cấp phép sử dụng năng lực sản xuất dư thừa trong chuỗi giá trị của chúng.
[*]: Tác tử tự trị (autonomous agent) là một tác tử mà các hành động của nó được quyết định bởi chính kinh nghiệm của tác tử đó (cùng với khả năng “học” và “thích nghi”).
THAY ĐỔI RANH GIỚI CÁC CÔNG TY
Trong kỷ nguyên đầu của Internet, các nhà tư tưởng quản trị (trong đó có Don Tapscott) đã nâng đỡ cho những doanh nghiệp hoạt động qua mạng, những mô hình tập đoàn phẳng, những cải cách mở và hệ sinh thái công nghệ như những người kế thừa hệ thống cấp bậc của quyền lực công nghiệp. Tuy nhiên, cơ cấu bộ máy của những tập đoàn đầu thế kỷ 20 vẫn được duy trì khá nguyên vẹn. Ngay cả những công ty công nghệ lớn cũng đã áp dụng cơ cấu quản lý cấp bậc với các nhà hoạch định chính sách như Jeff Bezos, Marissa Mayer và Mark Zuckerberg. Vậy tại sao những công ty đã có sự phát triển bền vững – đặc biệt là những công ty kiếm tiền từ dữ liệu của người khác, phần lớn đều vận hành đằng sau những cánh cửa khép kín, và lượng dữ liệu bị rò rỉ của họ luôn ít đến không tưởng – lại muốn sử dụng công nghệ blockchain để tăng cường việc phân bổ quyền hạn, tăng tính minh bạch, tôn trọng sự riêng tư và nhu cầu ẩn danh của người dùng, cho cả những người có khả năng chi trả ít hơn những người đã được phục vụ chứ?
Chi phí giao dịch và cơ cấu công ty
Hãy bắt đầu bằng một góc nhìn kinh tế. Năm 1995, Don [Tapscott] đã sử dụng lý thuyết kinh tế của nhà kinh tế học từng giành giải Nobel, Ronald Coase, để giải thích Internet có ảnh hưởng đến cơ cấu của các doanh nghiệp như thế nào. Trong bài báo năm 1937 của Coase về “Bản chất của doanh nghiệp”, Coase đã phân ra ba loại chi phí trong nền kinh tế: chi phí tìm kiếm (tìm kiếm tất cả các thông tin chính xác, con người, nguồn lực để tạo ra một cái gì đó); chi phí phối hợp (tất cả những người có thể làm việc hiệu quả cùng nhau); và chi phí ký kết hợp đồng (thương lượng chi phí lao động và vật tư cho mọi hoạt động sản xuất, giữ bí mật thương mại, thực thi các chính sách và tuân thủ các thỏa thuận này). Ông khẳng định rằng một công ty chỉ phát triển khi chi phí thực hiện giao dịch nội bộ vượt quá chi phí thực hiện giao dịch bên ngoài. 5
Don đã tranh luận rằng Internet sẽ làm giảm chi phí giao dịch nội bộ của một công ty; nhưng chúng tôi nghĩ rằng, với khả năng tiếp cận toàn cầu, nó sẽ làm giảm toàn bộ các chi phí trong nền kinh tế, dần xóa bỏ hoặc hạ thấp các rào cản để ngày càng có nhiều người có thể tham gia vào nền kinh tế toàn cầu hơn. Phải, nó đã giảm chi phí tìm kiếm, thông qua các trình duyệt và mạng lưới toàn cầu World Wide Web. Internet cũng làm giảm các khoản chi phí kết hợp thông qua email, các ứng dụng xử lý dữ liệu như ERP, mạng xã hội và điện toán đám mây. Nhiều công ty được hưởng lợi từ việc thuê ngoài (outsource) như dịch vụ chăm sóc khách hàng và kế toán. Các nhà marketing có thể trực tiếp thu hút khách hàng, thậm chí có thể biến người tiêu dùng thành nhà sản xuất (người bán hàng). Các nhà hoạch định sản phẩm đã huy động được nhiều sự đổi mới. Các nhà sản xuất thì tận dụng được mạng lưới cung ứng rộng khắp.
Tuy nhiên, thực tế đáng ngạc nhiên là Internet đã có ảnh hưởng ngoại vi đối với cấu trúc doanh nghiệp. Hệ thống phân cấp độ tuổi lao động công nghiệp vẫn còn khá nguyên vẹn như nền tảng của chủ nghĩa tư bản. Chắc chắn rồi, bởi mạng lưới đó đã khuyến khích các công ty thuê ngoài ở những khu vực có giá lao động thấp. Nhưng Internet cũng đồng thời làm sụt giảm chi phí giao dịch nội bộ công ty.
Từ phân cấp đến độc quyền
Các công ty ngày nay vẫn là các hệ thống phân cấp, và hầu hết các hoạt động đều xảy ra trong phạm vi doanh nghiệp. Các nhà quản lý vẫn coi đó là một mô hình tốt trong việc kiểm soát các tài năng và các tài sản vô hình như thương hiệu, sở hữu trí tuệ, kiến thức và văn hóa, cũng như động cơ thúc đẩy con người. Công ty vẫn chi trả các khoản chi phí điều hành cùng tiền lương cho các giám đốc điều hành số tiền vượt xa mức giá trị mà họ tạo ra. Không phải ngẫu nhiên mà các tổ hợp công nghiệp vẫn tiếp tục tạo ra của cải, nhưng không tạo ra sự thịnh vượng. Trên thực tế, như chúng tôi đã chỉ ra, có những bằng chứng mạnh mẽ cho thấy sự gia tăng quyền lực và của cải trong các tập đoàn, thậm chí là sự độc quyền.
Một nhân vật giành giải Nobel khác, Oliver Williamson, đã tiên đoán 6 và chỉ ra những ảnh hưởng tiêu cực của vấn đề này đến năng suất: “Chỉ cần để ý ở đây, việc chuyển từ nguồn cung tự trị (do tập hợp các công ty nhỏ) sang sở hữu hợp nhất (ở một công ty lớn) là không thể tránh khỏi do sự thay đổi cả về cường độ khuyến khích (trong doanh nghiệp liên hợp các biện pháp khuyến khích sẽ yếu hơn) và kiểm soát hành chính (các biện pháp kiểm soát được mở rộng hơn)”. 7 Peter Thiel, đồng sáng lập PayPal, đã viết lời khen ngợi sự độc quyền trong cuốn sách Zero to One (Từ 0 đến 1) của ông và gây ra nhiều tranh cãi. Với tư cách là người ủng hộ Rand Paul, Thiel nói, “Cạnh tranh là dành cho đám thua cuộc.... Độc quyền sáng tạo không chỉ có lợi cho phần còn lại của xã hội; chúng còn là động lực mạnh mẽ để thúc đẩy xã hội trở nên tốt đẹp hơn.” 8
Mặc dù Thiel có thể đúng về việc có những người đang cố gắng thống lĩnh ngành công nghiệp hoặc thị trường, nhưng ông không đưa ra bằng chứng thực sự cho thấy độc quyền có lợi cho người tiêu dùng hoặc xã hội nói chung. Mà thực tế, toàn bộ luật tố cáo cạnh tranh ở hầu hết các quốc gia dân chủ đều xuất phát từ khái niệm ngược lại. Ý tưởng cạnh tranh công bằng bắt đầu từ thời Roman, với án tử hình đối với một số vi phạm. 9 Khi các doanh nghiệp không cạnh tranh thực sự, họ có thể phát triển không hiệu quả như mong muốn, nâng cao giá cả trong và ngoài công ty. Hãy nhìn các chính phủ xem. Ngay cả trong ngành công nghệ, nhiều người cho rằng độc quyền có thể giúp cải tiến trong ngắn hạn nhưng có thể gây hại cho xã hội trong dài hạn. Các công ty có thể tập trung quyền lực độc quyền thông qua các sản phẩm và dịch vụ tốt mà khách hàng yêu thích, nhưng thời kỳ đó rồi sẽ kết thúc. Không có quá nhiều sự đổi mới; đó chính là lúc các công ty bắt đầu trở nên cứng nhắc.
Những nhà tư tưởng kỳ cựu hiểu rằng sự đổi mới thường xuất phát từ phần rìa của các doanh nghiệp, không phải từ phần lõi. Giáo sư luật thuộc trường Đại học Harvard, ông Yochai Benkler, đồng ý rằng: “Độc quyền có thể là có nhiều tiền để đầu tư vào nghiên cứu và phát triển nhưng đó không phải là văn hóa trong sáng và cởi mở cần có cho sự khám phá tạo ra đổi mới. Mạng lưới web không đến từ sự độc quyền; mà nó xuất phát từ phần rìa nào đó. Google không được sinh ra từ Microsoft. Twitter không phải từ AT&T, hay thậm chí là Facebook.” 10 Trong độc quyền, các lớp của hệ thống quan liêu khiến cho các tín hiệu về thị trường và công nghệ đang nổi lên ở phần rìa trở nên xa vời với các nhà quản lý, nơi các công ty thường va phải nhau hay va phải một thị trường khác, các ngành công nghiệp khác, các khu vực địa lý khác, các lĩnh vực trí tuệ khác và các thế hệ khác. Theo John Hagel và John Seely Brown, “Ngày nay, ngoại biên của môi trường kinh doanh toàn cầu là nơi có tiềm năng đổi mới cao nhất. Hãy từ bỏ nếu bạn cảm thấy nguy hiểm.” 11
Các nhà quản lý nên vui mừng về công nghệ blockchain, bởi làn sóng đổi mới đến từ các vùng rìa sẽ trở thành những thứ chưa từng có trước đây. Từ những đồng tiền mã hóa có sức ảnh hưởng lớn như bitcoin, BlackCoin, Dash, Nxt và Ripple cho đến những nền tảng blockchain hùng mạnh như Lighthouse (huy động vốn từ đám đông ngang hàng), Factom (hình thức đăng ký phân phối), Gems (tin nhắn phi tập trung), MaidSafe (các ứng dụng phi tập trung), Storj (điện toán đám mây phi tập trung), và Tezos (bỏ phiếu phi tập trung để bầu ra một vài cái tên). Kỷ nguyên tiếp theo của Internet sẽ sở hữu giá trị và động cơ thực sự để khuyến khích mọi người cùng tham gia. Các nền tảng này hứa hẹn bảo vệ danh tính người dùng, tôn trọng quyền riêng tư và các quyền khác của họ, đảm bảo an ninh mạng và giảm chi phí hoạt động để ngay cả những người không có tài khoản ngân hàng cũng có thể tham gia.
Không giống như các công ty có tên tuổi, chúng không cần một thương hiệu để truyền tải niềm tin trong các giao dịch. Bằng cách chia sẻ mã nguồn miễn phí, chúng chia sẻ năng lượng với tất cả mọi người trên mạng, sử dụng các cơ chế đồng thuận để đảm bảo tính liêm chính, và tiến hành công việc một cách cởi mở trên blockchain, chúng là những thỏi nam châm hy vọng cho nhiều người từng vỡ mộng hay những người không có quyền công dân. Như vậy, công nghệ blockchain sẽ cung cấp phương tiện thanh toán hiệu quả và đáng tin cậy, không chỉ cắt giảm chi phí trung gian, mà còn giảm đáng kể chi phí giao dịch, biến các công ty thành mạng lưới, phân phối sức mạnh kinh tế, tạo ra sự giàu có và tương lai thịnh vượng hơn.
1. Chi phí tìm kiếm – Làm thế nào để tìm ra những tài năng mới và khách hàng mới?
Làm thế nào để chúng ta tìm thấy những con người và thông tin chúng ta quan tâm? Làm thế nào để chúng ta xác định được liệu những dịch vụ, hàng hóa và khả năng tốt nhất mà chúng ta tìm kiếm có mang lại sức sống cho hoạt động nội bộ của chúng ta hay không?
Dù cơ cấu của công ty về cơ bản vẫn còn nguyên vẹn, nhưng kỷ nguyên đầu tiên của Internet đã giảm đáng kể các loại chi phí và tạo ra những thay đổi quan trọng. Việc thuê ngoài thực sự mới chỉ là bước khởi đầu. Khai thác các nguồn tri thức (các thị trường mở dành cho sức mạnh trí tuệ), các công ty như Procter & Gamble (P&G) đang tìm kiếm những lối tư duy độc đáo để đổi mới một sản phẩm hoặc quy trình. Trên thực tế, 60٪ các đổi mới của P&G đến từ các nguồn bên ngoài công ty, bằng cách xây dựng hoặc khai thác các ý tưởng như InnoCentive hoặc inno360. Các công ty khác như Goldcorp đã tạo ra những thách thức toàn cầu trong việc tìm kiếm những bộ óc tài năng nhất để giải quyết những vấn đề khó khăn nhất của họ. Goldcorp, công ty đã công bố dữ liệu địa chất để tìm kiếm khả năng bên ngoài giới hạn của mình, đã phát hiện ra mỏ vàng trị giá 3,4 tỷ đô-la, nhờ đó giá trị thị trường của công ty đã tăng vọt lên cả trăm lần.
Hãy tưởng tượng những cơ hội sẽ xuất hiện khi bạn có thể tra cứu trên Sổ cái Toàn cầu, kho dữ liệu phi tập trung chứa thông tin của cả thế giới. Ai đã bán khám phá nào cho ai? Với mức giá nào? Ai sở hữu tài sản trí tuệ này? Ai đủ khả năng giải quyết vấn đề này? Năng lực y tế trong bệnh viện của chúng ta như thế nào? Công ty này có bao nhiêu tín dụng cacbon? Nhà cung cấp nào có kinh nghiệm ở Trung Quốc? Nhà thầu phụ nào đã bàn giao đúng thời hạn và ngân sách như hợp đồng thông minh đã quy định? Câu trả lời cho những câu hỏi trên sẽ không nằm trong các bản kê khai thành tích, hay quảng cáo; chúng sẽ được ghi nhận vào lịch sử giao dịch, hồ sơ của cá nhân và doanh nghiệp và được xếp hạng theo bằng điểm đánh giá uy tín. Bạn thấy tương lai đó chứ? Vitalik Buterin, người sáng lập ra Ethereum đã nói, “Công nghệ blockchain sẽ giảm chi phí tìm kiếm, khiến thị trường bị phân rã thành những thực thể rõ ràng nằm trong đồ thị hai chiều ngang dọc rõ ràng mà bạn có thể dễ dàng nhận diện. Đây là điều chưa từng có. Trong tương lai, bạn có thể có một công cụ làm tất cả mọi việc cho mình.” 12
Rất nhiều công ty đang nghiên cứu sáng tạo công cụ tìm kiếm trên blockchain, chính nhờ bởi những tiềm năng chúng ta vừa đề cập. Sứ mệnh của Google là hệ thống thông tin của thế giới, nên việc nó được phân công thực hiện công việc tốn kém này cũng là hợp lý.
Có ba điểm khác biệt chính giữa tìm kiếm trên Internet và tìm kiếm trên blockchain. Thứ nhất là sự riêng tư của người dùng. Mặc dù các giao dịch luôn minh bạch, nhưng người dùng vẫn sở hữu dữ liệu cá nhân của mình và có thể quyết định phải làm gì với những dữ liệu đó. Họ có thể tham gia ẩn danh hoặc ít nhất là giả danh (ẩn danh dưới một tên giả) hoặc ẩn danh một phần. Những người có nhu cầu có thể tìm kiếm thông tin mà người dùng công khai. Andreas Antonopoulos nói rằng, “Giao dịch là ẩn nếu bạn muốn chúng ẩn… nhưng với blockchain thì minh bạch dễ dàng hơn ẩn danh rất nhiều.” 13
Nhiều công ty sẽ phải suy xét và thiết kế lại quy trình tuyển dụng. Phòng hành chính nhân sự hay nhân viên tuyển dụng sẽ cần tìm hiểu cách đặt câu hỏi có đáp án có/không trên mạng blockchain: Bạn có phải là con người không? Bạn có bằng tiến sĩ về toán học ứng dụng không? Bạn có thể tạo ra Scrypt, Python, Java, C++ không? Bạn có sẵn sàng làm việc toàn thời gian từ tháng Một đến tháng Sáu năm tới không? Và các yêu cầu bằng cấp khác. Những câu hỏi này sẽ rà soát hộp đen của những cá nhân trên thị trường việc làm và gom về danh sách những người có đủ tiêu chuẩn. Các công ty có thể còn phải trả tiền để các tài năng triển vọng đăng thông tin cá nhân lên blockchain để họ có thể tìm thấy các tài năng đó. Nhân viên nhân sự phải nắm vững cách sử dụng các hệ thống xếp hạng uy tín để chọn ra các ứng viên mà không cần biết những thông tin không liên quan đến công việc như tuổi tác, giới tính, chủng tộc, quốc gia. Họ cũng cần các công cụ tìm kiếm có thể điều chỉnh mức độ công khai, từ bí mật tới thông tin mọi người đều có thể biết. Ưu điểm của các công cụ tìm kiếm trên là chấm dứt những định kiến về hệ thống hay việc đánh giá từ trong tiềm thức và giảm chi phí tuyển dụng. Nhược điểm là các câu hỏi chính xác sẽ cho ra các câu trả lời chính xác. Cơ hội may mắn phát hiện được một ứng viên thiếu bằng cấp nhưng có khả năng học hỏi và tạo ra sáng tạo mà bất cứ công ty nào cũng muốn cũng sẽ thấp hơn nhiều.
Marketing cũng thế. Các công ty sẽ phải trả tiền để đặt câu hỏi sàng lọc từ hộp đen của các khách hàng nhằm đảm bảo họ thuộc nhóm đối tượng khách hàng của công ty. Khách hàng có thể quyết định giấu kín một số dữ liệu nhất định như giới tính trên toàn cầu, bởi dù khách hàng chọn không trả lời thì đó vẫn là một dữ kiện. Nhưng nếu làm như vậy, công ty sẽ không biết gì nhiều về khách hàng ngoài những đáp án có/không đơn giản. Giám đốc marketing và các đại lý marketing trong tương lai ấy cũng cần phải xem xét lại những chiến lược tiếp thị trên email, mạng xã hội và di động: Khi hệ thống đã giảm chi phí truyền thông xuống bằng 0, khách hàng sẽ ra giá cho thời gian họ bỏ ra để đọc thông tin từ các công ty. Nói cách khác, bạn sẽ phải trả tiền cho khách hàng để họ nghe diễn văn chào hàng của bạn, sẽ phải điều chỉnh bảng câu hỏi điều tra để đảm bảo diễn văn chào hàng đến đúng tai người cần nghe mà không xâm phạm quyền riêng tư của họ. Bạn có thể thử nghiệm các nhóm câu hỏi khác nhau để tìm hiểu sự khác biệt cực nhỏ trong mỗi giai đoạn phát triển sản phẩm mới. Hãy gọi đó là tiếp thị hộp đen (black box marketing).
Sự khác biệt thứ hai là sự tìm kiếm tra cứu diễn ra theo nhiều chiều. Khi tìm kiếm trên Word Wide Web, chúng ta sẽ tìm kiếm một tấm hình, một thông tin của những tuần trước. 14 Nhà lý thuyết máy tính Antonopoulos gọi phương thức tìm kiếm đó là tìm kiếm hai chiều: chiều ngang sẽ tìm kiếm rộng khắp web, và chiều dọc sẽ tìm kiếm sâu về một trang web cụ thể. Chiều thứ ba là trình tự, cho chúng ta biết thứ tự thông tin được tải lên theo thời gian. Ông nói: “Công nghệ blockchain có thể bổ sung chiều thời gian.” Cơ hội tìm kiếm một hồ sơ đầy đủ tất cả thông tin xảy ra theo ba chiều sẽ hứa hẹn mang lại nhiều điều. Để nhấn mạnh ý tưởng đó, Antonopoulos đã tra cứu trên chuỗi bitcoin và tìm ra vụ giao dịch đầu tiên vốn rất nổi tiếng, ai đó có tên “Laslo” đã mua 2 chiếc bánh pizza bằng 10.000 bitcoin. “Blockchain là hệ thống lưu trữ cả lịch sử, có thể tìm kiếm cặn kẽ và lưu trữ thông tin vĩnh viễn.” (Để bạn đỡ phải tính, nếu cái bánh pizza đó có giá 5 đô-la vào những ngày 1 đô-la đổi được 2.500 bitcoin, thì vào thời điểm chúng tôi viết cuốn sách này, nó sẽ có giá 3,5 triệu đô-la… nhưng chúng tôi hơi lạc đề rồi.)
Đối với các công ty, điều này đồng nghĩa với việc họ cần phán đoán tốt hơn: Các nhà quản lý cần phải thuê những người có khả năng đánh giá tốt, bởi các quyết định sai lầm sẽ không có cách nào sửa chữa, và không ai có thể xoay chuyển được thứ tự các sự kiện, hay phủ nhận hành vi sai trái của một nhân viên cấp cao. Đối với các quyết định quan trọng, các doanh nghiệp có thể thực hiện cơ chế đồng thuận nội bộ bằng cách để tất cả các bên liên quan cùng bỏ phiếu, giảm thiểu sự thiếu sót hay cản trở thông tin. Công ty cũng sử dụng các thị trường dự đoán để kiểm tra phương thức kinh doanh. Nếu bạn là Giám đốc Điều hành của công ty Enron trong tương lai, thì đừng mong có kẻ sẽ chết thay bạn. Còn nếu bạn là Thống đốc bang New Jersey, Chris Christie, đừng hy vọng bạn có thể chống chế trước tòa rằng mình không biết gì về kế hoạch đóng cầu George Washington.*
[*]: Cầu George Washington là cây cầu treo hai tầng bắc qua sông Hudson giữa vùng lân cận Washington Heights Manhattan ở thành phố New York và Fort Lee, New Jersey. Cây cầu này được biết đến là cây cầu nhộn nhịp nhất thế giới, với hơn 300.000 lượt xe lưu thông qua cầu.
Sự khác biệt thứ ba là giá trị: Thông tin trên Internet ngày càng phong phú, nhưng chúng lại không đáng tin cậy và nhanh chóng biến mất, tuy vậy chúng lại rất khó tìm, bền vững và trường tồn trên blockchain. Với đặc tính cuối cùng này, Antonopoulos bình luận: “Nếu chúng ta có đủ động lực tài chính để bảo tồn blockchain vào tương lai, thì không thể không tính đến khả năng nó sẽ tồn tại hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm.”
Ý tưởng đó thật tuyệt vời. Blockchain sẽ là một phần của lịch sử, giống như những phiến đá ở Lưỡng Hà vậy. Giấy mong manh và chóng hỏng, trong khi đó (trớ trêu thay) dạng thông tin ghi chép lâu đời nhất, đá phiến, lại là loại lưu lại thông tin đến cuối cùng. Những ứng dụng để kiến thiết doanh nghiệp cũng rất đáng để tâm. Bạn hãy nghĩ đến một hồ sơ chứa mọi thông tin lịch sử quan trọng như lịch sử tài chính. Các nhân viên chịu trách nhiệm lập báo cáo tài chính, báo cáo năm, báo cáo cho các chính phủ hoặc nhà tài trợ, tài liệu tiếp thị cho nhân viên, khách hàng và người tiêu dùng – sẽ sử dụng hồ sơ được công khai và xác đáng này để các nhà đầu tư có thể biết chuyện gì sẽ xảy ra khi họ đưa ra một quyết định bất kỳ. Các công ty có thể có các bảng và dấu mốc giao dịch, một số bí mật dành cho việc quản lý nội bộ và một số công khai. Và cứ yên chí rằng: Tất cả các đối thủ cạnh tranh đều sẽ lập bảng thông tin về công ty của bạn bằng chương trình tình báo kinh tế. Vậy thì tại sao bạn không đặt những thông tin đó trên trang web của bạn và thu hút mọi người đến với mình?
Điều này sẽ tạo ra sự khích lệ to lớn để các doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn lực ngoài phạm vi giới hạn của họ, vì họ có nguồn thông tin gần như vô hạn về phẩm chất và năng lực của các cá nhân hoặc công ty khác.
Các công ty như ConsenSys đang phát triển các hệ thống danh tính cho ứng viên hoặc nhà thầu tạo nên hình ảnh đại diện riêng của mình để tiết lộ những thông tin thích hợp cho người sử dụng lao động. Họ không thể bị tấn công như các cơ sở sử dụng dữ liệu tập trung. Người dùng sẽ chủ động đóng góp thông tin vào hình đại diện của họ vì họ tự sở hữu và kiểm soát chúng, sự riêng tư của họ hoàn toàn có thể định hình, và họ có thể kiếm tiền từ dữ liệu của mình. Điều này rất khác so với LinkedIn, một cơ sở dữ liệu tập trung, tốn tiền và chưa được bảo vệ bởi tập đoàn nào.
Liệu Coase và Williamson có thể nghĩ đến một nền tảng giúp giảm chi phí tìm kiếm để các công ty có thể tìm thấy nguồn lực bên ngoài đỡ tốn kém hơn và hoạt động tốt hơn không?
2. Chi phí hợp đồng – Chúng ta đồng ý làm gì cơ chứ?
Làm thế nào để chúng ta thỏa thuận được các điều khoản với các bên hoặc ký kết một thỏa thuận? Có một cách để giảm bớt chi phí tìm kiếm người và tài nguyên cho một công việc nhưng không đủ để thu nhỏ công ty đáng kể. Tất cả các bên phải đồng ý làm việc cùng nhau. Lý do thứ hai của việc tại sao chúng ta cần có các doanh nghiệp chính là chi phí hợp đồng, chẳng hạn như thương lượng giá, xác minh năng lực và ghi rõ các điều kiện của nhà cung cấp hàng hoá dịch vụ; bảo vệ quyền lợi và thực hiện các điều khoản; đề ra biện pháp khắc phục và xử lý nếu các bên không thực hiện đúng theo cam kết.
Chúng ta luôn có những khế ước xã hội, hiểu biết về các mối quan hệ trong chuyên môn hóa vai trò của mỗi người. Giống như từ ngàn xưa, con người đã biết phân chia vai trò cho từng người trong bộ tộc, những người này sẽ phụ trách công việc đi săn và bảo vệ sự an nguy cho bộ tộc, trong khi số khác làm công việc hái lượm và chăm lo cho mọi người. Người ta đã giao dịch bằng vật chất trong thực tế từ thời kỳ sơ khai của văn minh loài người. Hợp đồng là thứ mới sinh ra gần đây, khi chúng ta bắt đầu kinh doanh lời hứa chứ không phải tài sản. Các thỏa thuận miệng đã chứng minh rằng các thao tác có thể bị sai lầm và người làm chứng là không đáng tin cậy. Nghi ngờ và mất lòng tin ngăn cản chúng ta hợp tác với người lạ. Các hợp đồng phải được hoàn thành ngay lập tức, và không có cơ chế đảm bảo việc thực thi các điều khoản nào ngoài những gì bạn bị ép phải làm. Hợp đồng bằng văn bản là một cách để quy định nghĩa vụ, thiết lập niềm tin và đặt kỳ vọng. Các hợp đồng bằng văn bản đưa ra quy định khi một người nào đó không chấm dứt hợp đồng, hoặc có điều bất ngờ đã xảy ra. Nhưng hợp đồng không thể tự nhiên mà có; chúng phải nằm trong một số khuôn khổ pháp lý đã công nhận hợp đồng và thực thi các quyền của mỗi bên.
Hợp đồng ngày nay vẫn được làm từ nguyên tử (giấy), không phải là bit (phần mềm). Như vậy, chúng có những hạn chế rất lớn như chỉ đơn giản cung cấp tài liệu cho một thỏa thuận. Rồi chúng ta sẽ thấy, nếu hợp đồng là một phần mềm thông minh phi tập trung hóa trên blockchain, chúng sẽ mở ra cả một thế giới của những khả năng, hay ít nhất cũng giúp các công ty dễ dàng tiếp cận và phối hợp với những nguồn lực bên ngoài hơn. Và hãy tưởng tượng mà xem, không biết Bộ luật Thương mại Thống nhất sẽ nhìn vào blockchain bằng ánh mắt ra sao nhỉ?
Coase và những người kế nhiệm ông cho rằng chi phí hợp đồng thấp hơn trong phạm vi nội bộ của các doanh nghiệp chứ không phải là bên ngoài thị trường – công ty cơ bản là một phương tiện để tạo ra các hợp đồng dài hạn khi các hợp đồng ngắn hạn tốn quá nhiều nỗ lực.
Williamson đã nâng cao quan điểm bằng cách lập luận rằng các công ty tồn tại là để giải quyết xung đột, chủ yếu là thông qua việc ký kết hợp đồng với nhiều bên trong nội bộ công ty. Trong thị trường mở, cơ chế giải quyết tranh chấp duy nhất là tòa án, trong khi công cụ này thường rất tốn kém, mất thời gian mà kết quả đạt được lại chẳng mấy khi khiến người ta hài lòng. Thêm nữa, ông cho rằng trong một số trường hợp như phát hiện gian lận và các hành vi bất hợp pháp khác, hoặc xảy ra mâu thuẫn lợi ích thì chúng ta sẽ chẳng còn thứ gọi là cơ chế tranh chấp thị trường. “Trong thực tế, luật hợp đồng của tổ chức nội bộ chính là sự chịu đựng, theo đó một công ty sẽ trở thành tòa án cho thỉnh cầu cuối cùng của chính mình. Bởi vậy nên các doanh nghiệp có thể thực hiện những sắc lệnh mà thị trường không làm được.” 15 Williamson đã nhận thức doanh nghiệp như một “cơ cấu quản trị” để sắp xếp các hợp đồng. Ông nói rằng cơ cấu tổ chức rất quan trọng trong việc giảm chi phí quản lý giao dịch và “thông qua lăng kính của hợp đồng, nhưng đối lập với lăng kính của sự chọn lựa, sẽ làm sâu sắc thêm vốn hiểu biết của chúng ta về tổ chức tổ hợp kinh tế.” 16 Đây là một chủ đề được lặp đi lặp lại trong lý thuyết quản trị và có lẽ nó đã được các nhà kinh tế Michael Jensen và William Meckling giải thích thuyết phục nhất. Họ lập luận rằng các thực thể này cũng chỉ là một tập hợp các hợp đồng và mối quan hệ, không hơn. 17
Ngày nay, một số nhà tư tưởng trong lĩnh vực này đã đưa ra quan điểm của mình. Vitalik Buterin, người phát minh Ethereum, cho rằng những thành viên trong các tập đoàn (như giám đốc công ty) chỉ có thể sử dụng tài sản của công ty với những mục đích nhất định dưới sự chấp thuận của ban giám đốc, mà ban giám đốc cũng phải hành động dựa theo sự cho phép của các cổ đông. “Mỗi động thái của một doanh nghiệp đều chịu sự điều khiển và quản lý của hội đồng quản trị. Nếu công ty thuê nhân viên, có nghĩa là những nhân viên đó đã chấp nhận cung cấp dịch vụ cho khách hàng của doanh nghiệp dựa theo một bộ quy tắc cụ thể, đặc biệt là khi liên quan đến thanh toán,” Buterin viết. “Khi một công ty có trách nhiệm hữu hạn, điều đó có nghĩa là có những người đặc biệt đã được hưởng những đặc quyền bổ sung để hành động mà không cần quá lo lắng về việc bị chính phủ truy tố pháp lý – một nhóm người có nhiều quyền lợi hơn những người bình thường. Họ hành động một mình, nhưng thực chất họ vẫn là một tổ hợp nhiều người. Suy cho cùng, việc này cũng chẳng hơn gì việc dồn con người và những bản hợp đồng thành những ưu tiên dưới cùng.” 18
Đó là lý do tại sao công nghệ blockchain, bằng cách giảm chi phí hợp đồng, cho phép các công ty mở rộng và phát triển những mối quan hệ mới bên ngoài phạm vi của họ. Ví dụ, hệ thống ConsenSys có thể thiết kế các mối quan hệ phức tạp với nhiều thành viên khác nhau ở cả trong lẫn ngoài phạm vi doanh nghiệp, vì các hợp đồng thông minh chi phối các mối quan hệ này nhiều hơn là các nhà quản lý truyền thống. Các thành viên sẽ tự gán các dự án, xác định các sản phẩm được thỏa thuận và được thanh toán khi họ giao hàng – tất cả đều được thực hiện trên công nghệ blockchain.
Hợp đồng thông minh
Tốc độ đổi mới ngày càng tăng đã mở lối cho hợp đồng thông minh. Giờ đây nhiều người đã trở nên sành sỏi về máy tính chứ không chỉ đơn giản là biết sử dụng ở mức căn bản nữa. Xét về các giao dịch chứng minh, môi trường số hóa mới này có những đặc điểm khác biệt đáng kể so với các mô hình đã có trước đó. Như nhà mật mã Nick Szabo nhấn mạnh, chúng không chỉ có thể nắm bắt được một mảng thông tin rộng lớn hơn (chẳng hạn như dữ liệu giác quan phi ngôn ngữ) mà còn rất năng động: Chúng có thể truyền tải thông tin và thực hiện một số quyết định nhất định. Theo lời của Szabo, “Phương tiện truyền thông số có thể thực hiện tính toán, vận hành trực tiếp máy móc, và làm việc thông qua một số loại lý lẽ hiệu quả hơn nhiều so với con người.” 19
Mục đích của cuộc thảo luận này nhằm chỉ ra rằng, hợp đồng thông minh là các chương trình máy tính nhằm đảm bảo, thực thi và giải quyết các khoản thanh toán cho những thỏa thuận đã được ghi nhận giữa con người và tổ chức. Do đó, chúng hỗ trợ đàm phán và xác định các thỏa thuận. Szabo đã nghĩ ra cụm từ đó vào năm 1994, cùng năm mà Netscape, trình duyệt web đầu tiên, được tung ra thị trường.
Hợp đồng thông minh là một giao thức giao dịch trên máy tính để thực hiện các điều khoản của một hợp đồng. Các mục tiêu chung của hợp đồng thông minh được thiết kế để đáp ứng các điều kiện của một hợp đồng thông thường (như thời hạn thanh toán, quyền sở hữu, bảo mật, và thậm chí là điều khoản thực thi), giảm thiểu những ngoại lệ nguy hại và xảy ra bất chợt, và bớt phụ thuộc vào những khâu trung gian. Các mục tiêu kinh tế liên quan bao gồm giảm thiệt hại do gian lận, chi phí trọng tài, chi phí thực thi và các chi phí giao dịch khác. 20
Trước đây, hợp đồng thông minh hoàn toàn chỉ là một ý tưởng không đi tới đâu, bởi không có bất cứ thứ công nghệ nào có thể triển khai chúng đúng như Szabo mô tả. Các hệ thống máy tính như trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) có thể đáp ứng các tiêu chuẩn của hợp đồng thông minh về truyền thông dữ liệu theo cấu trúc giữa các máy tính của người mua và người bán, nhưng không có công nghệ nào có thể thực sự kích hoạt thanh toán và tạo ra tiền để trao đổi.
Thế rồi bitcoin và blockchain đã thay đổi tất cả. Bây giờ các bên đã có thể thỏa thuận và tự động trao đổi bitcoin khi họ đáp ứng được các điều khoản đã thỏa thuận. Nói một cách đơn giản nhất, anh rể của bạn không thể trốn tránh trách nhiệm trả tiền trong trò cá cược khúc côn cầu. Nói một cách khác, khi bạn mua một cổ phần, giao dịch sẽ được giải quyết ngay lập tức và cổ phần được chuyển ngay cho bạn. Còn nếu nói một cách phức tạp, khi bên thầu cung cấp mã lệnh phần mềm có thể đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật cần thiết, họ sẽ được trả tiền.
Các điều kiện công nghệ để thực hiện hợp đồng thông minh hữu hạn đã xuất hiện một thời gian. Mỗi hợp đồng là một trao đổi đã được thương lượng và có hiệu lực trước khi trao đổi xảy ra. Andreas Antonopoulos đã giải thích bằngmột ví dụ đơn giản: “Nếu bạn và tôi đồng ý với nhau rằng tôi sẽ trả cho bạn 50 đô-la để lấy cây bút trên bàn làm việc của bạn, thì đó là một hợp đồng hoàn toàn có hiệu lực thi hành. Tôi chỉ cần nói, ‘Tôi hứa sẽ trả cho ông 50 đô-la, ông bán cho tôi cây bút trên bàn kia nhé?’, và bạn trả lời, ‘À, được thôi.’ Điều đó lúc này lại là ‘chấp nhận và cân nhắc’. Chúng ta có một thỏa thuận, và nó có thể được thi hành tại tòa án. Điều đó hoàn toàn không liên quan gì đến các điều kiện công nghệ để thực hiện những lời hứa của chúng tôi.”
Điều khiến cho Andreas cảm thấy hứng thú với blockchain là chúng ta có thể thực hiện nghĩa vụ tài chính trong một môi trường công nghệ phi tập trung cùng một hệ thống thanh toán được xây dựng sẵn. “Thật tuyệt vời,” ông nói, “vì bây giờ tôi có thể thực sự trả tiền cho cái bút, bạn sẽ thấy tiền ngay lập tức, bạn đặt bút vào thư và tôi có thể xác minh điều đó. Điều đó khiến chúng ta dễ dàng làm ăn với nhau hơn.”
Pháp luật đang dần tìm cách tiếp cận với cơ hội mới này. Giống như những người còn đang phân vân, các luật sư sẽ có nguy cơ trở thành đối tượng phi trung gian và thậm chí sẽ cần phải học cách thích ứng. Hiểu biết sâu sắc về hợp đồng thông minh có thể là một cơ hội lớn cho các công ty luật muốn đổi mới trong luật hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật không phải là ngành nghề ưa khám phá những điều mới lạ. Chuyên gia pháp luật Aaron Wright, đồng tác giả của một cuốn sách mới về blockchain, nói với chúng tôi, “Mấy tay luật sư đã lạc hậu cả rồi.”
Hợp đồng đa chữ ký: Hợp đồng tổ hợp thông minh
Bạn cho rằng các hợp đồng thông minh quá phức tạp sẽ gây tốn kém về tiền bạc và việc thương thảo lại rất mất thời gian sao? Câu trả lời vào thời điểm này dường như là không. Nếu các đối tác dành nhiều thời gian hơn để xác định các điều khoản của thỏa thuận, thì các chi phí giám sát, chi phí thực thi và chi phí thanh toán sẽ giảm đáng kể, thậm chí là chẳng tốn đồng nào. Hơn nữa, việc giải quyết có thể xảy ra trong thời gian thực, tùy vào thỏa thuận mà có thể chỉ tốn một phần triệu giây hay mất cả ngày để xử lý. Quan trọng nhất là, bằng cách hợp tác với các tài năng vượt trội, các công ty có thể đạt được sự cải cách tốt hơn và trở nên cạnh tranh hơn.
Hãy xét đến việc sử dụng các nhà thầu độc lập. Trong những ngày đầu của thương mại số, blockchain chỉ chấp nhận các giao dịch đơn giản nhất của hai bên. Ví dụ, nếu Alice cần ai đó để hoàn thành một đoạn mã một cách nhanh chóng, cô ấy sẽ gửi một yêu cầu “cần tìm lập trình viên” ẩn danh lên một bảng thảo luận phù hợp. Bob sẽ nhìn thấy nó. Nếu giá cả và thời gian hợp lý, anh ấy sẽ gửi mã. Nếu mã của anh ấy đáp ứng được nhu cầu của Alice, thì cô sẽ đề nghị hợp tác với Bob. Họ đã đồng ý về các điều khoản: Alice sẽ gửi một nửa khoản phí ngay lập tức và gửi tiếp một nửa nữa sau khi nhận được đoạn mã hoàn chỉnh và thử nghiệm thành công mã.
Hợp đồng của họ rất đơn giản – một đề xuất thuê và chấp nhận công việc, hợp đồng đó không cần phải có văn bản, mặc dù các hành động của họ trên blockchain đã khiến việc thành ra như vậy. Quyền sở hữu của họ đối với các bitcoin được kết hợp với các địa chỉ số (các chuỗi số dài) gồm hai thành phần: một khóa công khai là địa chỉ, và một khóa bí mật để chủ sở hữu của nó có thể truy cập độc quyền vào những đồng xu có liên quan đến địa chỉ đó. Bob đã gửi cho Alice khóa công khai của mình, và Alice sẽ chuyển khoản thanh toán đầu tiên tới đó. Mạng lưới sẽ ghi lại việc chuyển tiền và liên kết các bitcoin với ví tiền khóa công khai của Bob.
Nhưng nếu Bob bỗng dưng đổi ý và không muốn thực hiện giao dịch nữa thì sao? Rõ ràng là với phương pháp giao dịch này, Alice sẽ không nhận được hỗ trợ từ bất kỳ ai. Cô không thể đến công ty thẻ tín dụng của mình để đảo ngược giao dịch, cũng không thể đến tòa án dân sự và kiện Bob vì vi phạm hợp đồng. Ngoài một mã số dạng chữ và số ngẫu nhiên được tạo ra cùng một tin quảng cáo trực tuyến, cô sẽ không có cách nào xác định danh tính của Bob trừ khi anh ta đăng quảng cáo của mình trên một nền tảng trung tâm có thể theo dõi, hoặc họ đã trao đổi email thông qua dịch vụ tập trung. Tuy nhiên, cô có thể chỉ ra rằng khóa công khai của anh ta không đáng tin cậy, từ đó hạ thấp điểm uy tín với vai trò là một lập trình viên của Bob.
Nếu không có sự đảm bảo về uy tín của bên kia trong việc hoàn thành các hành động không được ghi nhận trên blockchain (hay còn gọi là ngoại chuỗi), thỏa thuận đó sẽ rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan: nó vẫn cần đến sự tín nhiệm. Các hệ thống đánh giá uy tín có thể giảm thiểu sự mông lung này đến một mức độ nào đó. Nhưng chúng ta vẫn cần phải đưa lòng tin và sự an toàn vào hệ thống mở ẩn danh này.
Năm 2012, “lập trình viên” Gavin Andresen đã giới thiệu một loại địa chỉ bitcoin mới với các giao thức bitcoin được gọi là “Trả tiền đến mã băm của kịch bản” (P2SH)*. Mục đích của nó là cho phép một bên “được tài trợ bất kỳ giao dịch nào tùy ý, bất kể giao dịch đó phức tạp đến đâu”. Các bên sẽ sử dụng nhiều chữ ký xác thực hoặc nhiều chìa khóa chứ không phải là một chìa khóa riêng để hoàn thành giao dịch. Cộng đồng thường gọi tắt tính năng đa chữ ký này là “đa chữ ký”. Trong một giao dịch đa chữ ký, các bên sẽ thỏa thuận về tổng số các chìa khóa tạo ra (N) và cần bao nhiêu chữ ký để hoàn thành một giao dịch (M). Đây được gọi là lược đồ chữ ký M-trong-N hoặc giao thức bảo mật. Hãy suy nghĩ về một ổ khóa yêu cầu phải nhiều chìa khóa mới mở được. Với tính năng này, Bob và Alice sẽ thoả thuận trước về việc sử dụng một trọng tài trung lập, một bên thứ ba chí công vô tư để giúp họ hoàn thành giao dịch. Mỗi người trong số ba bên sẽ giữ một chìa khóa bí mật riêng, hai bên trong số đó là điều kiện để truy cập vào các quỹ đã chuyển. Alice sẽ gửi bitcoin của cô đến một địa chỉ công khai. Vào thời điểm này, ai cũng có thể xem được những quỹ đó, nhưng không ai truy cập được. Sau khi Bob thấy khoản tiền đã được gửi đến, anh sẽ kết thúc hợp đồng. Nếu, sau khi nhận được hóa đơn dịch vụ của Bob, Alice không hài lòng và cảm thấy có điều gì không ổn, cô ấy có thể từ chối cung cấp cho Bob mã chìa khóa thứ hai. Hai bên sau đó sẽ tìm kiếm trọng tài, người giữ chìa khóa thứ ba, để giúp họ giải quyết sự bất đồng. Sự can th