Chương 9 GIẢI PHÓNG VĂN HOÁ TRÊN BLOCKCHAIN:
ÂM NHẠC
Đó không phải là một bữa tiệc sinh nhật bình thường như mọi năm. Buổi lễ diễn ra ở tòa nhà Round House, cách trung tâm thành phố London một giờ lái xe. Khu nhà rộng mênh mông được trang hoàng bằng những cây đèn LED cảm ứng âm thanh, nhà phao và một bữa tiệc buffet sang trọng đến mức nó xứng đáng dành cho Hoàng tử Henry VIII. Đám đông đến tham dự cũng gồm đủ mọi thành phần: một nghệ sĩ cầu thủy tinh, chừng 20 đứa bé chập chững biết đi cùng với cha mẹ chúng, hàng xóm, nhạc sĩ, và một vài lập trình viên blockchain. Chúng ta có Vinay Gupta, một kỹ sư người Scotland gốc Ấn được biết đến nhờ sáng lập ra Hexayurt – hệ thống nhà cứu trợ thiên tai. Gupta giờ đây là người phụ trách giải đáp về blockchain cho công chúng. Paul Pacifico, Giám đốc Điều hành của Hiệp hội Nghệ sĩ Sáng giá (FAC), cũng góp mặt trong sự kiện này. Sau một thời gian làm việc tại ngân hàng, Pacifico giờ đây đang đấu tranh cho quyền lợi của các nghệ sĩ. Và, tất nhiên, chủ nhà của chúng ta, Imogen Heap cũng tham dự. Cô là một nhà soạn nhạc kiêm nhạc sĩ tài ba, đã được bình chọn là “Nghệ sĩ truyền cảm hứng của năm” bởi độc giả của Music Week 1 và hiện đang là mẹ của bé Scout một tuổi.
“Tôi mong rằng công việc hiện tại của mình có thể có ý nghĩa gì đó với Scout vào một ngày không xa,” Heap chia sẻ. Cô bày tỏ mối quan tâm sâu sắc của mình đối với ngành công nghiệp âm nhạc. “Ngành âm nhạc hiện nay vẫn còn hoạt động rời rạc, thiếu sự lãnh đạo và vẫn còn đầy rẫy những điều bất cập trong đó,” cô nói. “Mọi thứ đảo lộn hết cả. Giới nghệ sĩ như đang ngoi ngóp ở phía cuối chuỗi thức ăn vậy. Thật quá sức vô lý. Âm nhạc hiện hữu mọi lúc mọi nơi, từ trên điện thoại cho đến taxi. Nhưng những gì giới nghệ sĩ nhận được lại ngày càng bèo bọt.” 2
Đó là một cái vòng luẩn quẩn. Internet là một thế giới kỳ diệu, nó vừa là trung gian sáng tạo vừa là kênh tự do ngôn luận. Không thiếu những ý tưởng mà các nghệ sĩ, nhà thiết kế, lập trình viên tài năng và người hâm mộ trên khắp thế giới có thể làm cùng nhau trên World Wide Web. Cũng không thiếu cách để kiếm tiền từ những sự hợp tác này. Các ngành công nghiệp sáng tạo như phát hành nhạc và thu âm hiện nay đang khai thác những nguồn thu mới như tải nhạc số và nghe nhạc trực tuyến. Vấn đề ở đây là với mỗi đối tác trung gian mới, phần lợi nhuận của các nghệ sĩ lại bị giảm đi và họ hầu như không có tiếng nói trong chuyện này. David Byrne của ban nhạc Talking Heads đã tóm tắt lại tình hình trên chuyên mục ý kiến độc giả: “Tôi thấy mô hình này chẳng hỗ trợ được cho bất cứ ngành nghệ thuật nào, chứ không riêng gì âm nhạc. Và hậu quả nhãn tiền là Internet sẽ hút cạn mọi nội dung sáng tạo trên thế giới, chẳng còn gì sót lại gì nữa.” 3
Ở chương này, chúng ta sẽ cùng nhau nhìn nhận xem blockchain có thể làm được gì để đặt các nghệ sĩ vào trung tâm của mô hình, nghĩa là họ không chỉ đơn giản “nổi tiếng”, tức là được thực hiện quyền tự do ngôn luận, mà giờ họ cũng có thể “có miếng” bằng cách tối đa hóa lợi ích cả về tinh thần lẫn vật chất trong khối tài sản trí tuệ của mình. Nói cách khác, mục đích của blockchain là phục hồi quyền lợi cho giới nghệ sĩ: không còn những tổ chức trung gian luôn rình rập vơ vét, cũng không phải chịu kiểm duyệt từ chính phủ. Ở đây, chúng tôi đưa ra bản khảo sát các ngành văn hóa bao gồm nghệ thuật, báo chí và giáo dục – nơi kế sinh nhai và những quyền cơ bản của con người đạt được sự cân bằng.
THƯƠNG MẠI CÔNG BẰNG TRONG ÂM NHẠC: TỪ ÂM NHẠC TRỰC TUYẾN CHO ĐẾN QUYỀN ĐO LƯỜNG
“Nếu Scout cũng theo nghiệp nhạc sĩ, vậy con bé sẽ kiếm tiền kiểu gì đây? Chắc chắn nó chẳng thể kiếm đủ tiền để sống,” Imogen Heap nói về sự nghiệp âm nhạc của con gái mình, nếu xét theo tình hình ngành công nghiệp âm nhạc hiện nay. “Chúng ta cần thứ gì đó thật đơn giản và mang tính nòng cốt, đáng tin cậy, để cho mọi người thấy họ có thể dùng âm nhạc để kiếm sống.” 4 Paul Pacifico đồng tình: “Chúng tôi muốn một ngành công nghiệp âm nhạc có thể phản ánh các khía cạnh văn hóa, công nghệ, xã hội, và thương mại trong thời đại của chúng ta và có thể đảm bảo chắc chắn về một tương lai cho cả người tiêu dùng lẫn những người tạo lập.” 5 Heap đã hợp tác với Pacifico, Vinay Gupta và nhiều người khác để tạo ra hệ sinh thái âm nhạc mới này.
Nếu có một thị trường dự đoán về sự đổi mới, chúng tôi sẽ đặt cược cho đội của Heap. Năm 2009, cô trở thành người phụ nữ đầu tiên giành được giải Grammy solo vì đã tự thiết kế và thực hiện album Ellipse. Cô đã đưa tất cả những người theo dõi trên Twitter của mình đến lễ trao giải bằng cách diện “bộ đầm Twitter”. Trang phục được thiết kế bởi Moritz Waldemeyer, với điểm nhấn là những dải màn hình LED tường thuật trực tiếp từng dòng tweet của người hâm mộ xung quanh. Vào năm 2013, Heap đã cùng tổ chức phi lợi nhuận Mi.Mu phát minh ra một hệ thống găng tay âm nhạc. Nó kết hợp phần mềm ánh xạ với các cảm biến chuyển động, cho phép người biểu diễn có thể kiểm soát ánh sáng, âm nhạc và các video bằng những cử chỉ do họ tự điều chỉnh.
Sáng chế này đã giành được giải nhất tại lễ trao giải Berlin năm 2015 cho hạng mục Thời trang Công nghệ (WearableIT/FashionTech). Chiếc găng tay nhanh chóng gây được sự chú ý. Ngôi sao nhạc pop Ariana Grande đã đăng thông báo này lên YouTube cùng với video hát lại bản hit “Hide and Seek” của Heap: “Tôi muốn cảm ơn thần tượng của tôi, @imogenheap, đã cho phép tôi sử dụng Găng tay Mi.Mu trong chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới đầu tiên của mình.” 6 Nếu ai vẫn nghi ngờ khả năng của Heap về việc tạo ra một cộng đồng xung quanh công nghệ mới, thì hãy suy xét lại.
“Chúng tôi biết chắc chắn mình thực sự muốn gì,” Heap nói. “Chúng tôi không phải là một đám người rỗng tuếch chỉ biết ngồi trong phòng khách hút cần và sáng tác âm nhạc. Chúng tôi cũng là những doanh nhân chăm chỉ nữa.” 7 Heap coi công nghệ blockchain như một nền tảng mới nơi những người tạo ra tài sản trí tuệ có thể nhận về những giá trị xứng đáng. Các hợp đồng thông minh nói riêng có thể loại bỏ được những vấn đề phức tạp trong ngành đồng thời đơn giản hóa vai trò chủ đạo của các nhãn hiệu âm nhạc trong hệ sinh thái này.
Cỗ máy Rube Goldberg tiếp tục quấy nhiễu: Sự phức tạp trong kinh doanh âm nhạc
Để lý giải về Talking Heads, hãy nhìn lại xem chúng ta đã tới đây bằng cách nào? Chúng ta thực hiện việc này ra sao? 8 Mọi chuyện bắt đầu từ vấn đề cơ bản rằng các nghệ sĩ đã ký vào những hợp đồng được soạn từ thời đĩa nhạc còn làm từ nhựa vinyl, khi ngăn cách giữa các nghệ sĩ ghi âm và khán giả tiềm năng của họ là những khoản phí sản xuất và phân phối lớn tương tự. Heap nói với chúng tôi rằng, “Lần đầu tiên tôi tìm ra một hãng thu âm, tôi nghĩ rằng mình có thể cố gắng để nhận được mức lợi nhuận 15%. Trong hợp đồng ghi âm vài năm trước, tôi thậm chí còn nhận được 19%. Vậy nên nếu may mắn, mọi người có thể nhận được mức lợi nhuận cao hơn bây giờ nhiều.” 9 Một số nghệ sĩ đã chuyển nhượng hoàn toàn bản quyền tác phẩm của họ cho các hãng thu âm. Theo luật liên bang, điều này đồng nghĩa với thời hạn bản quyền kéo dài 95 năm hoặc cả cuộc đời của người nghệ sĩ cộng thêm 70 năm sau đó nữa. Hãy nghĩ về những cải cách không tưởng mà một hợp đồng phải chứa đựng trong đó để bảo đảm công bằng cho các nghệ sĩ và người thừa kế của họ.
Ban đầu, các hãng thu âm vẫn chưa có chỗ đứng, trong khi đó sóng radio vẫn là vua còn cửa hàng đĩa hát là nữ hoàng, các công ty giải trí không chỉ phải tìm kiếm tài năng mới mà còn phải dõi theo sự nghiệp nghệ thuật của họ. Trong 25 năm qua, ngành công nghiệp này đã thực hiện mua bán, sáp nhập từ hàng nghìn hãng đĩa nhỏ lẻ xuống còn ba ông lớn thâu tóm quyền lực giải trí toàn cầu là Sony Music Entertainment, Universal của Vivendi Music, Warner Music Group cùng với vài trăm hãng sản xuất độc lập khác. Ba ông lớn kể trên nắm giữ 15% cổ phần của Spotify, dịch vụ nghe nhạc trực tuyến phổ biến và đem lại nhiều lợi nhuận nhất hiện nay. 10 Bởi vậy, họ sẽ nhận được thêm một khoản tiền tươi nếu Spotify trở thành phương tiện công cộng. Apple đã trở thành nhà bán lẻ âm nhạc lớn nhất thế giới và Live Nation là công ty giải trí trực tuyến hàng đầu toàn cầu.
Có thể thấy, bởi vậy mà bản quyền âm nhạc trên toàn thế giới đang tập trung trong tay chỉ một vài nhà. Các hãng ghi âm và công ty tổ chức tour diễn đã bắt đầu yêu cầu các nghệ sĩ thực hiện giao dịch 360 độ. Điều đó có nghĩa là họ sẽ thu được lợi nhuận từ tất cả những gì mà một nghệ sĩ tạo ra – quyền phát hành tác phẩm, quyền sử dụng bản thu âm, quyền biểu diễn khi nghệ sĩ đi lưu diễn, bao gồm cả các vật phẩm ăn theo và các quyền tài trợ – bất kể họ đầu tư ra sao vào việc duy trì những quyền đó.
Sự hợp nhất đi kèm với việc tích hợp các hệ thống chẳng bao gờ dễ dàng. Mỗi tập đoàn đều có quy trình kế toán riêng, một mẫu hợp đồng và một bản kê khai nhượng quyền riêng, nên việc so sánh đối chiếu là hết sức khó khăn. “Vấn đề nghiêm trọng của ngành giải trí là nó hoạt động quá rời rạc và thiếu nhất quán. Có quá nhiều nền tảng khác nhau và chúng tạo nên một cơn ác mộng thực sự,” Heap nói. 11 Các hệ thống này phải đảm bảo sự đổi mới trong sản xuất, định dạng, phân phối và bối cảnh sử dụng. Nhưng đôi khi một yếu tố lại ngay lập tức trở nên lỗi thời, bởi vậy các bên phải duy trì hai hay nhiều mô hình song song, và các mô hình thường thấy nhất là mô hình thực và mô hình ảo.
Vấn đề còn trở nên phức tạp hơn khi rất nhiều thành phần trong chuỗi cung ứng, không chỉ các nhà phát hành và Các tổ chức tác quyền biểu diễn (PRO) – những tổ chức nắm quyền điều hành các buổi diễn âm nhạc cộng đồng và kiếm tiền hoa hồng biểu diễn như tổ chức phi lợi nhuận Hội các Tác gia và các Nhà xuất bản Mỹ (ASCAP), Công ty Cung ứng Âm nhạc (BMI) và doanh nghiệp tiền thân là Hiệp hội các Nhà soạn nhạc và Soạn lời châu Âu (SESAC) – mà còn cả các nhà sản xuất âm nhạc và các phòng thu, những nơi cung cấp địa điểm biểu diễn, công ty tổ chức và quảng bá hòa nhạc, các nhà bán buôn, các nhà phân phối và các đại lý, mỗi nơi lại có hợp đồng, kế toán và báo cáo riêng. Họ lần lượt đòi phần của mình và những gì còn lại theo điều khoản hợp đồng sẽ dành cho các nghệ sĩ. Đúng vậy – nghệ sĩ là những người cuối cùng được trả công. Có thể mất từ 6 đến 18 tháng để họ nhận được bản kiểm kê tiền tác quyền đầu tiên, tùy thuộc vào thời điểm phát hành và chu kỳ kế toán của hãng phát hành.
Cuối cùng, một đội ngũ trung gian hoàn toàn mới – các công ty công nghệ như YouTube hoặc Spotify – sẽ chen vào giữa chuỗi cung ứng và làm cho miếng bánh của các nghệ sĩ ngày càng nhỏ lại. Hãy nhìn vào dịch vụ âm nhạc trực tuyến. Spotify trả trung bình từ 0,006 đến 0,0084 đô-la mỗi lượt nghe/tải cho chủ sở hữu bản quyền, mà thường là các hãng phát hành. 12 Thoạt nhìn, việc tính toán các khoản thanh toán này có vẻ minh bạch. Spotify tuyên bố đã trả 70٪ lợi nhuận thu được từ quảng cáo và phí sử dụng dịch vụ của mình cho các chủ sở hữu bản quyền. Tuy nhiên, chúng tôi đã xem bản “Thỏa thuận phát hành Audio/Video kỹ thuật số” dày 40 trang của hãng này với Sony USA Inc., rõ ràng các nghệ sĩ thuộc sở hữu của Sony chẳng nhận được một xu lẻ nào trong khoản chi trả 42,5 triệu đô-la đó. Và thực tế, ngay từ những dòng đầu tiên, thỏa thuận này đã yêu cầu được giữ bí mật. Điều đó có nghĩa là cả Spotify lẫn Sony đều không được phép để các nghệ sĩ của Sony biết được những ảnh hưởng của bản thỏa thuận này tới thu nhập của họ. Rich Bengloff – Chủ tịch Hiệp hội Âm nhạc Độc lập Mỹ (A2IM) – cho biết, theo kinh nghiệm của ông, các nhà phát hành thường không chia cho nghệ sĩ phần tiền không gắn trực tiếp với đãi ngộ của họ. 13 Nhà phân tích Mark Mulligan nói, “Các nghệ sĩ sẽ phải chịu thiệt thòi trong 4 đến 5 năm tới, như những gì họ đã phải gánh chịu trong 4 đến 5 năm đầu tiên iTunes ra mắt.” 14
Vậy các hãng thu âm đã làm được những gì? Trước mắt có thể thấy họ đang cố gắng xử lý sự phức tạp của ngành giải trí, kiểm soát vấn đề vi phạm bản quyền và hiệu lực hóa các quyền lợi. Ví dụ: Tập đoàn Universal Music Publishing Group đã dành 1/3 lực lượng lao động của mình để quản lý các vấn đề bản quyền tại các thị trường địa phương trên toàn thế giới. 15 Gần đây, Universal thậm chí đã triển khai cổng thông tin dành cho nghệ sĩ, cho phép các nghệ sĩ biết được số tiền bản quyền của họ và có thể yêu cầu tạm ứng thu nhập trong tương lai mà không phải chịu thêm phí tổn gì. Cổng thông tin này cũng cung cấp thông tin sử dụng trên Spotify: Bài hát này được nghe bao nhiêu lần, những ai đang nghe, trong danh sách nhạc của các khán giả đó còn những gì và những bài hát đặc biệt sẽ gây ấn tượng với họ là gì. Universal đã chỉ định 16 nhân viên chỉ chuyên nâng cấp cổng thông tin và giải thích thông tin cho các nghệ sĩ. 16 Họ cũng sở hữu đội ngũ luật sư và các nhà vận động hành lang đông đảo. Các hãng có thể ra mắt các nghệ sĩ mới chào sân ở khắp nơi trên thế giới, yêu cầu các điều khoản bắt buộc, marketing thông qua các phương tiện truyền thông nước ngoài, phân phối âm nhạc trên thị trường nước ngoài, có quyền cấp phép cho các hãng phát hành nước ngoài, hỗ trợ các chuyến lưu diễn quốc tế và có quyền tổng hợp tất cả doanh thu. Chi phí bảo vệ bản quyền ngày một tăng cùng sự leo thang của các vấn đề phức tạp trong kinh doanh. Nó giống như một loại thuế bắt buộc, ảnh hưởng trực tiếp đến các nghệ sĩ.
Hợp đồng thông minh trên blockchain có thể loại bỏ sự phức tạp đang ngày một tăng và thay thế vai trò thiết yếu của các hãng sản xuất nhạc trong hệ sinh thái này. Theo Imogen Heap, “Nếu bạn là một chương trình máy tính, một phần mềm, cơ sở dữ liệu, v.v... thì những vấn đề này sẽ biến mất, việc xử lý dữ liệu chỉ còn tốn một nửa thời gian. Dữ liệu sẽ lập tức đến tay các nghệ sĩ, tác giả, nhà biểu diễn, v.v… thay vì mất tận 1 hoặc 2 năm như trước, bởi giờ đây nó đã được chứng thực và tự động hóa rồi. Trên hết, các dịch vụ thay đổi văn hóa phân phối âm nhạc mới sẽ giúp thu thập được nhiều dữ liệu hữu ích từ cộng đồng người hâm mộ của các nghệ sĩ. Điều này có thể giúp ích rất nhiều cho cộng đồng nếu bản thân các nghệ sĩ trực tiếp tham gia.” 17 Đó chính là tương lai của ngành âm nhạc trên blockchain.
Sự nổi lên của mô hình kinh doanh âm nhạc mới
Sự kết hợp giữa nền tảng dựa trên blockchain và các hợp đồng thông minh, cùng các tiêu chuẩn trong cộng đồng nghệ thuật bao gồm tính liêm chính và tính minh bạch trong giao dịch, quyền riêng tư, bảo mật, bảo đảm quyền lợi và trao đổi giá trị công bằng – sẽ giúp cho các nghệ sĩ và cộng tác viên của họ cùng nhau tạo nên một hệ sinh thái âm nhạc mới.
“Chẳng phải sẽ rất tuyệt nếu tôi được tự quyết định xem âm nhạc của mình sẽ được chia sẻ và trải nghiệm như thế nào sao?” Heap đặt ra câu hỏi. “Ví dụ, tôi chỉ cần đơn giản đăng một bản nhạc và tất cả các nội dung liên quan đến nó lên một trang web trực tuyến, chỉ bằng một thao tác kích chuột vào đường dẫn để truy xuất nguồn gốc thông tin về quyền sử dụng, quyền sở hữu, giống như tờ ghi chú của album vậy. Rồi còn cả video, tiểu sử mới nhất,” và tất cả các bên – không chỉ các hãng thu âm, hãng phát hành, công ty tổ chức lưu diễn, mà còn cả các tập đoàn đang tìm kiếm nhạc hiệu quảng cáo, nhà sản xuất truyền hình tìm kiếm nhạc phim, các nhà cung cấp dịch vụ di động tìm kiếm nhạc chuông và nhiều người hâm mộ muốn làm các video – có thể quyết định xem họ có đồng ý với các điều khoản sử dụng của Heap hay không. “Thật tuyệt vời khi có thể cảm nhận được sự hiện diện của các nghệ sĩ mỗi khi họ đưa ra quyết định về âm nhạc của mình, nó cho ta cảm giác rất chân thật, rất hiếm khi thấy được phải không?” Cô nói. “Tôi có thể ra quyết định kiểu, ‘Hôm nay là sinh nhật tôi, nên mọi người có thể dùng nhạc miễn phí!’ hoặc ‘Nếu bạn dưới hoặc trên 16 tuổi, bạn sẽ…’ và quyền quyết định thuộc về tôi! Hoặc tôi có thể chuyển toàn bộ số tiền thanh toán của mình cho một quỹ bảo trợ nào đó, chỉ cần thay đổi đôi chút trong hợp đồng thông minh là được.”18
Đó là mục đích của việc thiết kế mô hình lấy nghệ sĩ làm trung tâm trên blockchain, chứ không phải là mô hình xoay quanh các hãng sản xuất nhạc hoặc các nhà phân phối công nghệ. Nghệ sĩ có thể tự sản xuất nhạc và nhận được thù lao xứng đáng với giá trị mà họ tạo ra. Những người yêu nhạc có thể tải nhạc, chia sẻ, remix, và làm nhiều việc khác để tận hưởng sở thích cá nhân trong khi chỉ cần trả một mức giá hợp lý. Mô hình này sẽ không loại bỏ hoàn toàn vai trò của các hãng sản xuất âm nhạc cũng như các nhà phân phối kỹ thuật số, nhưng họ sẽ có vai trò bình đẳng thay vì chi phối toàn bộ hệ sinh thái như trước đây.
Bộ mặt mới của ngành công nghiệp âm nhạc không phải là thứ viển vông. Vào tháng 10 năm 2015, Heap đã thực hiện thử nghiệm đầu tiên bằng cách phát hành ca khúc “Tiny Human” của mình và tất cả dữ liệu liên quan lên Internet – hòa âm phối khí, ảnh bìa album, video nhạc, chú thích về nhạc sĩ, đạo cụ, lời bài hát, bản quyền, lời tựa và các liên kết hữu ích, thậm chí cả câu chuyện hậu trường của mỗi bài hát. 19 Những chi tiết này sẽ làm tăng khả năng tìm thấy cô trên Internet, giúp các cộng tác viên tiềm năng dễ dàng tìm thấy cô hơn.
Heap đã kêu gọi người hâm mộ, các lập trình viên và các công ty dịch vụ đưa bài hát của cô lên các nền tảng khác nhau và chia sẻ tác phẩm của họ. Cô đã cho phép họ được toàn quyền tạo ra hồ sơ nghệ sĩ Imogen Heap, miễn là họ phải cho cô thông tin đăng nhập và quyền truy cập sau khi đưa các tệp tin của Heap lên hệ thống. Nếu có doanh thu từ việc đó, cô có thể yêu cầu họ cung cấp thông tin về mô hình thanh toán, tỷ lệ phần trăm lợi nhuận và số tiền để cô có thể thu thập dữ liệu nhằm phân tích thử nghiệm của mình. Cuối cùng, Heap hoan nghênh việc chuyển tiền tới địa chỉ ví bitcoin của cô và hứa sẽ chia trực tiếp một nửa số tiền thu được cho quỹ từ thiện của mình. Cô đặt tên cho hệ sinh thái mới này là Mycelia. Dữ liệu được sử dụng và hành vi của những người tham gia sẽ cung cấp thông tin cho giai đoạn phát triển tiếp theo trên blockchain.
Nhiều công ty đang triển khai dự án dựa trên thiết kế đó và hợp tác với Heap cùng các nhạc sĩ có tư duy đổi mới khác. Hệ sinh thái mới này có một số tính năng mà ngành công nghiệp hiện tại đang thiếu:
Biểu mẫu giá trị: để thiết lập thỏa thuận trong đó coi nghệ sĩ như những doanh nhân đồng thời là những đối tác bình đẳng trong mọi dự án kinh doanh, là nhân tố không thế thiếu trong việc tạo ra lợi nhuận. Tạm biệt mớ hợp đồng giấy cũ rích luôn đem lại những khởi đầu bất công. “Và tạm biệt luôn cả những khoản phần trăm tiền tác quyền bị thu hồi,” Heap nói.
Toàn bộ tiền bản quyền: doanh thu được chia hợp lý tùy theo mức độ đóng góp của mỗi người vào quá trình sáng tạo, không chỉ có các nhà soạn nhạc và người biểu diễn, mà còn cả các nghệ sĩ và các kỹ sư khác. Mọi người đều có triển vọng tăng lợi nhuận khi đạt được một bản hit nào đó, không riêng gì các hãng sản xuất và các nhà phân phối.
Sổ cái minh bạch: phân phối trên blockchain để mọi người đều có thể thấy được doanh thu từ bài hát, độ lớn và thời gian của các nguồn thu và ai đang nhận được bao nhiêu phần trăm lợi nhuận từ đó. Những thông tin này được phơi bày rõ ràng chứ không còn nấp sau những hệ thống kế toán trên giấy cũ kỹ và lạc hậu nữa. Các dòng lợi nhuận được phân loại theo nguồn gốc, từ công việc được nghiệm thu cho đến tiền tác quyền. Công việc kế toán trở nên dễ dàng, kiểm toán cũng dễ dàng và thanh toán thuế lại càng dễ.
Các chức năng đo lường vi mô, kiếm tiền vi mô để tường thuật trực tiếp trạng thái của dòng tiền chứ không đơn giản chỉ là cung cấp dịch vụ âm nhạc nữa. Nếu người ta đo âm nhạc, người tiêu dùng sẽ thanh toán từng khoản rất nhỏ mỗi khi nghe nhạc, và các nghệ sĩ cũng như cộng tác viên có thể theo dõi trực tiếp các khoản thanh toán này. Họ không còn phải bận tâm việc bị trả lương muộn hay những bản kê khai doanh thu mỗi quý hoặc nửa năm một lần nữa, cũng không còn những hợp đồng tác quyền khó hiểu. Không còn những nghệ sĩ phải chạy ăn từng bữa nữa! Lý luận gia blockchain Andreas Antonopoulos đưa ra ví dụ: “Streamium ở Argentina là một dịch vụ cung cấp video trực tuyến. Nó cho phép các nhà sản xuất video tính phí theo đơn vị một phần nghìn của một xu cho mỗi 200 mili giây của một video trực tuyến được tải xuống. Nó sử dụng công nghệ đa chữ ký, thực hiện giao dịch khóa thời gian, tính nguyên vẹn, và tính liêm chính bao quát để hoạt động. Nhà sản xuất chỉ phân phối khi video đã được trả tiền và người tiêu dùng chỉ trả tiền cho những video mà họ đã sử dụng. Họ tự động đàm phán lại hợp đồng 5 giây mỗi lần. Khi một trong hai bên đơn phương kết thúc giao dịch tại một thời điểm bất kỳ, cùng lúc đó hợp đồng sẽ kết thúc và và họ sẽ đổ tiền vào giao dịch có lợi nhất cho đôi bên.” 20
Cơ sở dữ liệu phong phú có thể giao tiếp với nhau và liên kết các yếu tố bản quyền cốt lõi – lời bài hát, sáng tác và bản ghi âm – với tất cả siêu dữ liệu, các tờ ghi chú, bản thân tác phẩm và hình ảnh, bản nhạc của cá nhân, các quyền mà cả nhạc sĩ lẫn người thể hiện nó đều sẵn sàng cấp phép, các điều khoản bản quyền, thông tin liên lạc, v.v... trên cuốn sổ cái kỹ thuật số để mọi người cùng xem. Không còn những cơ sở dữ liệu về quyền lợi không hoàn chỉnh nữa. Quyền lợi giờ đây đã nằm ngay trong tay bạn! Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy người nắm quyền.
Công cụ phân tích sử dụng dữ liệu cuối cùng cũng nằm trong tay các nghệ sĩ, để thu hút những công ty quảng cáo, các nhà tài trợ, các công ty tổ chức sự kiện, người lên kế hoạch quảng bá và huy động các nguồn lực từ đám đông một cách hợp lý, đồng thời hợp tác sáng tạo trong tương lai với các nghệ sĩ khác. Các mô hình có thể nắm bắt được “rất nhiều dữ liệu bỏ sót trên khắp thế giới, giả sử như người hâm mộ của bạn đang ở đâu, họ bao nhiêu tuổi, họ quan tâm đến điều gì,” Heap nói. “Với những thông tin đó, chúng ta thực sự có thể đo ni đóng giày cho từng chuyến lưu diễn, hợp tác với các hãng sản xuất âm nhạc và những bộ óc sáng tạo có thể tham gia cùng chúng ta, hoặc giúp chúng ta quảng bá cho những nghệ sĩ, sản phẩm hay những tổ chức từ thiện mà chúng ta yêu mến và ủng hộ hết lòng. Tôi không nói đến tên gọi và địa chỉ e-mail, mặc dù đó là loại thông tin vốn hay bị coi nhẹ nhưng chúng vẫn là những dữ liệu rất hữu ích. Chúng ta có thể tham khảo chéo với các nhóm dữ liệu khác để đổi lấy mục đích sử dụng có lợi cho cả người hâm mộ lẫn nghệ sĩ!” 21
Quản lý bản quyền số là một phương tiện quản lý bản quyền kỹ thuật số mới khác xa với phần mềm chống lại người tiêu dùng như DRM, thứ luôn tìm cách hạn chế khả năng sử dụng tài nguyên của mọi người. Chúng ta đang nói về việc triển khai những hợp đồng thông minh thực sự có năng lực quản lý các quyền và tối đa hóa giá trị thu được từ việc phát hành nhạc, ghi âm, biểu diễn, thương mại và nhiều quyền khác nữa. Điều này bao gồm các điều khoản về sự tham gia của bên thứ ba dành cho hãng thu âm và dịch vụ phân phối: Các hãng và nhà phân phối có thể quyết định xem có nên tham gia vào điều khoản sử dụng và kỳ vọng dịch vụ của nghệ sĩ hay không. Giả sử các nghệ sĩ không muốn thông báo quảng cáo làm ảnh hưởng đến trải nghiệm âm nhạc thì họ có thể cấm đăng quảng cáo. Ngược lại, nếu muốn dành hẳn một khoản cho việc quảng cáo thì họ có thể đầu tư vào đó. Họ cũng có thể yêu cầu một trong những công ty lớn xử lý việc xin cấp phép, phân phối và thực thi các chính sách bản quyền trong một số khu vực, như Trung Quốc chẳng hạn. Tự thân các nghệ sĩ có thể đặt ra các chỉ tiêu. Giả sử nếu doanh nghiệp không đem về cho họ một mức lợi nhuận nhất định, hợp đồng có thể lập tức tự động bị huỷ. Các nghệ sĩ cũng cần có công tác quản lý quyền bổ sung tự động ở bất cứ đâu, nơi những người có khả năng được cấp phép sẽ lựa chọn chấp nhận hoặc từ chối các điều khoản sử dụng và thanh toán của nghệ sĩ. Bản thân hợp đồng sẽ tự thi hành các thỏa thuận và có thể thông báo cho nghệ sĩ về bất kỳ vi phạm hay chấm dứt đơn phương nào.
Đấu giá/Cơ chế định giá linh động để thử nghiệm việc quảng bá và đánh giá nội dung của các đợt phát hành, thậm chí là định đoạt phần trăm tiền tác quyền với những bên được cấp phép sử dụng tùy theo nhu cầu sử dụng bài hát. Ví dụ: Nếu lượng người tải bài hát tăng đột biến, sau đó một nhà quảng cáo đã được cấp phép sử dụng bài hát cho mục đích thương mại thì khi hoạt động thương mại được tiến hành, công ty đó sẽ phải tự động trả phí cao hơn.
Hệ thống uy tín sẽ chọn lựa dữ liệu từ lịch sử giao dịch của một địa chỉ bitcoin và các phương tiện truyền thông, sau đó chấm điểm uy tín cho địa chỉ đó. Các nghệ sĩ có thể tạo uy tín cho mình cũng như xem xét uy tín của các đối tác tiềm năng trong việc thiết lập hợp đồng, dù là giữa họ với các cộng tác viên hay giữa nghệ sĩ với người tiêu dùng, hãng sản xuất, thương nhân, công ty quảng cáo, nhà tài trợ, các bên được ủy quyền, v.v... Sử dụng các hợp đồng thông minh đa năng, nghệ sĩ có thể hạn chế việc thực hiện giao dịch với các cá nhân tổ chức không đáp ứng được tiêu chuẩn uy tín hoặc không đủ kinh phí cần thiết.
Điểm mấu chốt của ngành công nghiệp âm nhạc mới này là các nghệ sĩ đang được đứng ở trung tâm của hệ sinh thái dành riêng họ, chứ không phải bên rìa hệ sinh thái của nhiều người khác. “Tôi nhìn thấy một nơi dành cho Spotify và YouTube. Tôi thấy một nơi khác dành cho công tác quản lý và một vị trí riêng dành cho những tác phẩm được tạo ra bởi người dùng,” Heap nói. “Các hãng thu âm vẫn sẽ giữ được chỗ đứng, bởi chúng ta vẫn cần đến những con người có thể sàng lọc hàng trăm triệu giờ nhạc và hàng tỷ bit nhạc cũng như tác phẩm nghệ thuật ra đời mỗi ngày trên khắp thế giới.” 22 Với phần mềm, họ có thể tham gia cộng tác với các dự án sáng tạo, các hãng nhạc lớn, các nhà phân phối uy tín và các nhà trung gian nhỏ mà họ thấy phù hợp với mình trên blockchain.
Nghệ sĩ tự ra mắt: Những dấu hiệu của mô hình âm nhạc mới
Một trong những người bạn của Imogen Heap, Zoë Keating, một nhạc công cello kiêm nhà soạn nhạc sinh ra tại Canada, luôn kiểm soát âm nhạc của chính mình. Cô sở hữu tất cả các quyền xuất bản và giấy tờ liên quan đến các bản thu của mình. Cô hòa âm phối khí cẩn thận, tự mình lên chiến lược tiếp thị, bán hàng, cấp phép và phân phối. Chúng tôi rất ấn tượng khi cô tự mình thực hiện những công đoạn phức tạp kể trên. “Một nghệ sĩ như tôi không thể tồn tại mà không có công nghệ. Tôi chỉ có thể ghi âm trong tầng hầm nhà mình và phát hành trên Internet,” Keating nói với tờ The Guardian. Đối với cô, Internet đã tạo ra sân chơi cho các nghệ sĩ độc lập, nhưng trải nghiệm của cô đối với các nhà phân phối âm nhạc trực tuyến lớn cũng không khác biệt mấy so với Imogen Heap và các hãng âm nhạc truyền thống. “Đây không chỉ là một cái cớ cho ngành dịch vụ để lặp lại bức tranh thanh toán của quá khứ. Đó cũng không phải là lý do để lợi dụng những con người không có quyền lực,” Keating nói. “Các tập đoàn cần phải có trách nhiệm không chỉ với các cổ đông của mình mà còn với cả thế giới và với các nghệ sĩ nữa.” 23
Keating đang ám chỉ bản hợp đồng mới mà YouTube đã gửi cho cô. Và bản hợp đồng lại được yêu cầu phải giữ bí mật. Trong nhiều năm, Keating đã phát hành âm nhạc của mình trên YouTube và các bên thứ ba muốn kiếm tiền từ các sản phẩm âm nhạc của cô đều sử dụng Content ID, một chương trình tự động cảnh báo về quyền sở hữu đối với các trường hợp vi phạm bản quyền tiềm ẩn. Keating không lo về vấn đề vi phạm bản quyền, chia sẻ tệp tin, hoặc tiền bản quyền. Đối với cô, thương mại trực tuyến chỉ là một phương tiện quảng bá, tiếp cận đối tượng khán giả mới và phân tích dữ liệu sử dụng. Những người chuyên tổng hợp âm nhạc và những người chuyên tạo hit là những người kiếm được kha khá tiền nhờ vào việc cung cấp những cuốn catalog hoàn chỉnh thông qua làm dịch vụ theo yêu cầu. Và những người đó không phải là cô. Phần lớn doanh thu của Keating luôn đến từ những người hâm mộ chân chính, những người chấp nhận trả từ 20 cho đến 100 đô-la cho một album mới. Cô sẽ phát hành tác phẩm mới trên Bandcamp trước, sau đó tải lên nó cho iTunes và cuối cùng là các kênh khác như YouTube, Spotify, Pandora. Chiến lược cửa sổ – cài đặt nội dung ở chế độ độc quyền trên một kênh cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định – đã tự chứng minh được rằng nó rất hiệu quả đối với Keating và những người hâm mộ khó tính của cô. Cô biết ơn những người ủng hộ hiện tại của mình và mong muốn trau dồi những mối quan hệ mới.
YouTube đã khởi chạy một dịch vụ đăng ký mới, Music Key, tại đó người dùng sẽ phải trả một khoản phí để không phải xem quảng cáo nữa. Nếu Keating muốn tiếp tục kiếm tiền thông qua YouTube, cô sẽ phải chấp nhận Điều khoản của YouTube: Họ sẽ nắm giữ toàn bộ danh mục tác phẩm của cô và Keating không được phép sử dụng chiến lược cửa sổ ở bất kỳ đâu khác. Đó là một đòn đánh được ăn cả ngã về không. Cô hiểu rằng các hãng độc lập không vui vì các điều khoản cấp phép mới, nhưng thứ khiến họ thực sự khó chịu chính là những ảnh hưởng về mặt tài chính. Keating muốn duy trì sự tự kiểm soát âm nhạc và các điều khoản của mình.
Và rồi cô đã thấy được tiềm năng của blockchain bitcoin, một thứ công nghệ có thể đảm bảo mục tiêu đó cho cô, bắt đầu từ sự minh bạch của nó. “Tôi chỉ tin vào sự minh bạch trong mọi thứ”, cô nói với Forbes. “Làm sao chúng ta có thể xây dựng một hệ sinh thái trong tương lai mà không biết rằng hệ sinh thái hiện nay đang hoạt động ra sao?” 24 Ví dụ trên YouTube, Keating ước tính có khoảng 150.000 video – từ nhảy múa, phim ảnh, chương trình truyền hình, dự án nghệ thuật, clip tường thuật chơi game – sử dụng nhạc của cô để làm nhạc nền mà không được cho phép. Cô có thể tận dụng điều đó cho công việc của mình, nhưng chỉ YouTube mới biết chính xác được âm nhạc của cô phổ biến tới mức nào. Phần mềm SoundScan của Nielsen chỉ có thể xem xét một khía cạnh trong một bức tranh đa chiều.
Giống như Heap, Keating muốn đăng ký bản quyền và đầu tư vào siêu dữ liệu bản quyền trên blockchain. Bằng cách đó, mọi người có thể dễ dàng theo dõi cô với vai trò là người sở hữu bản quyền. Sau đó cô có thể theo dõi các tác phẩm phái sinh thông qua các blockchain. Một sổ cái phi tập trung siêu dữ liệu âm nhạc có thể theo dõi không chỉ những gì người ta tạo ra, mà cả những bên liên quan đến giá trị đó. Cô mường tượng về những giá trị sử dụng và những mối quan hệ, tính toán giá trị của một bài hát với mức giá linh hoạt, và cho phép tiếp tục trả các khoản thanh toán vi mô cho cộng tác viên và nhà đầu tư mà không cần đến những hộp đen của bên thứ ba như ASCAP hay BMI. 25
Chúng tôi phải nhấn mạnh lại rằng, không có chuyện vai trò của các hãng sản xuất nhạc và công ty công nghệ bị loại bỏ hoàn toàn, hay chuyện các nghệ sĩ đã có thể tự mình làm mọi việc trong một hệ sinh thái ngang hàng ủy nhiệm. Chúng tôi đang nói về một hệ sinh thái âm nhạc mới xoay quanh trung tâm là người nghệ sĩ, nơi họ có thể tự kiểm soát số phận của mình và nhận được thù lao xứng đáng cho giá trị mà họ tạo ra. Công nghệ blockchain không tạo ra một tiêu chuẩn mới trong việc trả công cho các nghệ sĩ. Thay vào đó, nó cho họ quyền tự do lựa chọn và điều chỉnh một dãy vô cực với vô số các giải pháp phục vụ cho những nhu cầu và niềm tin của họ. Họ có thể ban phát miễn phí, hoặc thu những khoản tiền vi mô từ chúng tùy theo ý mình thay vì phải răm rắp nghe theo quyết định của công ty quản lý.
Những nhân tố khác tạo nên hệ sinh thái âm nhạc mới
Đăng ký bản quyền cơ bản
Bản quyền âm nhạc chủ yếu gồm hai phương diện. Đầu tiên là bản quyền toàn cầu cho hai yếu tố căn bản – giai điệu và lời bài hát – bất kể ngôn ngữ và dưới mọi hình thức, thường thì các nhạc sĩ và người sáng tác lời cho bản nhạc sẽ nắm giữ bản quyền của hai thứ này. Nhạc và lời có thể được đảm bảo bản quyền một cách riêng biệt. Các nhà soạn nhạc, soạn lời kiếm được tiền bản quyền mỗi khi có người muốn thu âm hoặc biểu diễn bài hát đó. Họ có thể mua bản nhạc rồi điều chỉnh nó thành một thể loại khác (ví dụ: nhạc nền trong thang máy), hoặc dịch lời ca ra tiếng nước ngoài, hay biên soạn nó dưới dạng thơ trong sách. Thứ hai là bản quyền toàn cầu đối với bản ghi âm, hay những buổi diễn được ghi lại và lưu giữ dưới dạng tập tin âm thanh hay video ca nhạc. Bản ghi âm thường do các nghệ sĩ hoặc thành viên trong ban nhạc nắm giữ bản quyền, họ sẽ có thu nhập mỗi khi bản thu đó được phát trên đài phát thanh, truyền hình hoặc Internet; đồng bộ với các chương trình truyền hình, quảng cáo, hoặc trò chơi điện tử; phát sóng trực tiếp, tải xuống hoặc mua dưới dạng bản cứng như đĩa vinyl, CD hoặc DVD.
Mức độ độc lập của Zoë Keating đã thúc đẩy biểu tượng nhạc rock của Toronto, 22 Hertz, chuyển sang hợp tác với blockchain. Tại Canada, đăng ký bản quyền cho một bài hát tốn khoảng 50 loony và trên giấy chứng nhận chỉ có vẻn vẹn tên của tác phẩm. Người lập ra ban nhạc, Ralf Muller, cho rằng tờ giấy đó không có nghĩa lý gì trước tòa trong trường hợp có ai đó sử dụng giai điệu và lời nhạc. Vì vậy, anh quyết định tạo ra lộ trình hàm băm, bằng cách tạo ra mã băm của toàn bộ bài hát, sử dụng thứ được gọi là tính năng OP_RETURN – và mã hóa nó vào blockchain. Nếu thấy ai đó sử dụng lời và nhạc trong bài hát của mình, anh có thể chứng minh quyền sở hữu của mình một cách đơn giản là cho họ thấy các giao dịch trên blockchain, tạo ra một mã băm khác của bài hát, và so sánh mã băm thứ hai với mã băm có sẵn trên blockchain. Tất nhiên, chúng sẽ giống nhau như đúc. “Một khi bạn mã hóa một mã băm trong OP_RETURN và sau đó block này mới được đè lên các block khác, về cơ bản là không thể quay lại và sửa chữa điều gì nữa. Tôi thấy như vậy rất đáng tin cậy.” Khi được hỏi tại sao cửa hàng trực tuyến của ban nhạc chấp nhận bitcoin và có chiết khấu cho người sử dụng bitcoin, Muller trả lời dứt khoát: “Chỉ là tôi không thích công việc kinh doanh thông thường thôi.” 26
Hệ thống quản lý nội dung số
Colu không phải là nền tảng quản lý nội dung số dựa trên công nghệ blockchain bitcoin. Nó cung cấp cho các lập trình viên và các tổ chức những công cụ để truy cập và quản lý các tài sản số bao gồm bản quyền, vé tham dự sự kiện, và thẻ quà tặng – phần lớn những gì mà một ngành công nghiệp âm nhạc phi tập trung thực sự cần. Colu đã hợp tác với nhà tiên phong trong công nghệ âm nhạc Revelator để xây dựng một API chuyên quản lý bản quyền. Mục đích là để thực hiện những gì Imogen Heap và Zoë Keating hằng mơ tưởng – làm sáng tỏ quyền sở hữu bản quyền, phân phối số và ứng dụng vào thực tế. Các API cũng sẽ cung cấp cho người đương nhiệm những công cụ giúp việc hoạt động trở nên minh bạch và hiệu quả. “Chúng tôi rất háo hức cho đến ngày nền tảng của Colu có thể đơn giản hóa việc quản lý bản quyền âm nhạc, bắt đầu từ mối liên quan giữa các nhà soạn nhạc với các sáng tác của họ,” Bruno Guez, nhà sáng lập kiêm Giám đốc Điều hành của Revelator cho biết. “Colu đã khiến cho công nghệ phức tạp của blockchain có thể tích hợp vào nền tảng của chúng tôi và chúng tôi mong rằng mình có thể tìm ra mọi cách để cải thiện dịch vụ khách hàng.” 27
Thế hệ nghệ sĩ mới và những tiết mục mới (A & R)
Cuối cùng, một công việc quan trọng trong bất kỳ ngành công nghiệp sáng tạo nào, đó chính là tìm kiếm những viên ngọc thô và mài giũa chúng. Các nhạc sĩ tham gia tư vấn một cách rất tự nhiên và chơi trò chơi “A & R” trong các cuộc thi như The Voice. Blockchain hỗ trợ cho loại hình A & R này bằng các thuật toán ứng dụng. Như PeerTracks chẳng hạn. Theo như trang mục tiêu của nó quảng cáo thì đây là “nền tảng âm nhạc tuyệt vời nhất” cho cả hai, những người yêu nhạc lẫn các nghệ sĩ. Mỗi bài hát được các nghệ sĩ tải lên sẽ lập tức được PeerTracks gắn cho một bản hợp đồng thông minh, và hợp đồng này sẽ tự động đề ra mức lợi tùy theo thỏa thuận giữa người trình diễn với nhà soạn nhạc, nhà soạn lời và các thành viên khác trong nhóm. Các nghệ sĩ tự tạo ra mã thẻ token cho mình, đề tên mình lên như thể đó là tấm thẻ bóng chày ảo. Chúng ta hoàn toàn có thể tích trữ token. Nghệ sĩ có thể cài đặt một số lượng mã sẵn có nhất định. Và cũng có thể tồn tại cả những phiên bản hạn chế. Phương thức hoạt động rất đơn giản: họ tạo một phương tiện lưu trữ giá trị, giá trị của nó sẽ tương quan với độ nổi tiếng của người nghệ sĩ. 28
Người dùng có thể truy cập vào toàn bộ hoặc một phần theo nhu cầu kho nhạc của PeerTracks mà không mất phí và cũng không bị làm phiền bởi các tin nhắn quảng cáo. Họ có thể lưu bài hát và lập danh sách phát ngoại tuyến hoặc tải bất kỳ bài hát, bất kì album nào có tên trong danh mục của PeerTracks. Không giống như Spotify và iTunes, người dùng có thể chọn mua token của các nghệ sĩ và trao đổi chúng như trao đổi thẻ bóng chày. Khi một nghệ sĩ trở nên nổi tiếng hơn, giá trị thẻ token của người đó cũng sẽ tăng theo, vậy nên người dùng cần nhìn nhận trước được những lợi ích tài chính của việc ủng hộ một nghệ sĩ trước khi họ trở nên nổi tiếng. Việc yêu mến một nghệ sĩ đồng nghĩa với những điều kiện đối đãi VIP, nhiều đặc quyền và đôi khi là quà tặng miễn phí từ các nghệ sĩ. Điều này khuyến khích những người nghe thụ động trên Spotify biến thành những thành viên quảng bá tích cực và xây dựng đội ngũ người hâm mộ lâu dài, tích cực. PeerTracks dự định trả cho các nghệ sĩ nhiều hơn cho việc nghe trực tuyến và tải xuống – lên tới 95% thu nhập – và được lập tức trả cho họ thông qua blockchain. Nghệ sĩ có thể cài đặt mức giá riêng cho việc tải và sử dụng âm nhạc của họ cho mục đích kinh doanh. PeerTracks tuyên bố rằng “rất nhiều giám khảo/huấn luyện viên tài năng hướng lợi nhuận đang tìm kiếm những ngôi sao/mã token mới.” Bạn sẽ nghe được bài hát của các nghệ sĩ mới bởi hệ thống bình chọn của người nghe sẽ đẩy những bài hát đó lên mục gợi ý của PeerTracks. 29
ARTLERY PHẦN MỀM CHO NGƯỜI YÊU NGHỆ THUẬT: KẾT NỐI NGHỆ SĨ VÀ KHÁN GIẢ
Thị trường nghệ thuật truyền thống vốn tai tiếng vì sự độc quyền với nhiều góc khuất. Một số ít các nghệ sĩ và nhà sưu tầm đại diện cho gần như toàn bộ thị trường, quanh đi quẩn lại chỉ có vài người, và rất ít nghệ sĩ trẻ có thể nhanh chóng thành danh trong môi trường đó. Tuy vậy, sự cởi mở và bản chất khó kiểm soát của thị trường nghệ thuật lại rất khuyến khích việc thử nghiệm những hướng đi mới và những phương tiện truyền thông mới. Một mặt, nó góp phần dân chủ hóa thị trường nghệ thuật, mặt khác lại làm dân chủ hóa thị trường vốn đầu tư, và cả hai đều nhờ có sức mạnh biến đổi và sự thúc đẩy mạnh mẽ của blockchain bitcoin.
Artlery tự mô tả bản thân là một mạng lưới nơi các nghệ sĩ chấp nhận chia sẻ một phần thu nhập của mình với các khách quen và những người ngang hàng, những người có mối liên hệ xã hội với công việc của họ. 30 Mục tiêu của Artlery là cho ra đời một đồng tiền được bảo đảm bằng tài sản tương đương với tác phẩm nghệ thuật trên blockchain, bằng cách thu hút những người yêu nghệ thuật làm chủ sở hữu chung hay cổ đông của những tác phẩm mà họ thích. Cách tiếp cận của nó là cung cấp những quyền lợi và ưu đãi về mọi mặt cho mọi người trên thị trường – nghệ sĩ, khán giả, người quản lý và những địa điểm tổ chức sự kiện như phòng trưng bày, viện bảo tàng, xưởng phim, hội chợ – thay vì để một bên hưởng lợi trong khi bên còn lại phải chịu phí tổn. Để tăng cường hỗ trợ và xây dựng danh tiếng cho một nghệ sĩ, ban đầu Artlery sẽ tổ chức IPO cho tác phẩm dạng số của nghệ sĩ đó. Ứng dụng Artlery cho phép các nghệ sĩ như JaZoN Frings, David Perea, Keith Hollander, Benton C Bainbridge và Teens Bazaar sao chép các tác phẩm vật lý của họ sang dạng kỹ thuật số, chia chúng thành nhiều phần như những câu đố ghép hình rồi phân bổ cho các khách hàng dựa trên mức độ thưởng thức của họ đối với tác phẩm trên ứng dụng Artlery. Trong giai đoạn IPO, khách hàng có thể tích lũy lợi tức lên đến một mức phần trăm nhất định trên tác phẩm mà ban đầu nghệ sĩ đã tặng cho cộng đồng. Khi nền tảng này hoàn thiện, Artlery dự định sẽ cho phép trao đổi buôn bán các quyền lợi tích lũy trong từng tác phẩm.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh Stanford Blockchain năm 2015 do Artlery tài trợ, Don quyết định ủng hộ một tác phẩm của Anselm Skogstad, có tiêu đề EUR/USD 3081, tác phẩm nghệ thuật với hình ảnh đồng tiền euro được phóng to và in trên một tấm nhôm Dibond dài khoảng 1m.
Cách thức mua bán tác phẩm nghệ thuật trên blockchain
Để mua tác phẩm đó, Don đã mở ứng dụng ví bitcoin của mình. Ông đã sử dụng ứng dụng để tạo ra một thông báo xác định lượng bitcoin tương đương với giá trị tác phẩm, chỉ định khóa công khai của Artlery là người nhận của số bitcoin đó và sử dụng khóa bí mật của mình để “ký” hoặc chứng thực tin nhắn đó. Don phải kiểm tra cẩn thận những thông tin đã điền bởi trên blockchain không có chuyện tiền được gửi trả lại. Sau đó, Don gửi tin nhắn đi, không phải đến ngân hàng của mình ở Canada, mà là cho toàn bộ mạng lưới máy tính đang chạy hoàn chỉnh công nghệ blockchain bitcoin.
Một số người coi các máy tính này như các nút mạng, một số nút mạng lại đóng góp năng lực xử lý của chúng trong việc giải quyết các bài toán gắn liền với việc tạo ra một block. Như chúng tôi đã giải thích, cộng đồng bitcoin tự gọi mình là các thợ đào và công việc giải các thuật toán của họ cũng giống như khai thác những mỏ vàng. Đó là một sự tương đồng kỳ lạ bởi nó gợi lên hình ảnh các chuyên gia tài năng sẽ có nhiều lợi thế hơn những người mới tham gia. Nhưng không. Mỗi thợ đào đều chạy phần mềm như một chức năng tiện ích trong nền, và phần mềm đó đang xử lý tất cả công việc tính toán. Thợ đào thường nâng cấp cấu hình máy để tối ưu hóa sức mạnh xử lý, giảm thiểu tiêu thụ năng lượng và tận dụng kết nối mạng tốc độ cao. Ngoài ra, việc này thực sự không cần đến bàn tay con người nhúng vào và bản thân con người cũng không được phép tham gia.
Không phải tất cả các nút mạng đều có thể đào bitcoin. Trên thực tế, phần lớn các nút mạng trên mạng lưới bitcoin chỉ đơn giản thực hiện xác minh các quy tắc bitcoin cho các dữ liệu mà nó nhận được, trước khi định tuyến dữ liệu đến các kết nối ngang hàng. Mạng lưới sẽ xác thực hai bit dữ liệu – liệu Don [Tapscott] có kiểm soát lượng bitcoin đã xác định và được phép giao dịch – rồi ghi nhận tin nhắn của Don là một giao dịch. Các thợ đào sau đó sẽ đua nhau chuyển đổi các giao dịch không có thứ tự và không được ghi lại thành các giao dịch có thứ tự và được ghi lại trong một khối dữ liệu. Mỗi khối vừa phải bao gồm bản tóm tắt hoặc hàm băm của khối giao dịch trước đó, vừa bao gồm thêm một con số ngẫu nhiên được gọi là nonce. Để chiến thắng cuộc đua, máy tính phải tạo ra hàm băm của block. Hàm băm này phải có một số lượng các chữ số 0 xác định ngẫu nhiên đứng ở đầu. Không thể đoán trước được số nonce nào sẽ tạo ra một hàm băm với số lượng chính xác của các chữ số 0 đó, do đó các máy tính phải thử các nonce khác nhau cho đến khi chúng tìm ra đúng giá trị. Cái này cũng giống như trúng xổ số vì không có một kỹ năng liên quan nào cả. Tuy nhiên, con người có thể tăng khả năng trúng xổ số của mình lên bằng cách mua một bộ xử lý trong của máy tính loại tiên tiến nhất, bộ xử lý này chuyên giải quyết các vấn đề toán học của bitcoin; hoặc mua nhiều vé số hơn, tức là chạy nhiều nút mạng mạnh hơn; hoặc như người ta thường làm, góp chung nút mạng của mình với các nút mạng khác – chẳng hạn như các đồng nghiệp ở văn phòng – và đồng ý chia số tiền thưởng nếu một trong các nút mạng trúng thưởng. Vậy nên chiến thắng là do may mắn, sức mạnh xử lý và kích thước của mỏ đào.
Tốc độ xử lý hàm băm (hash rate) là thước đo tổng công suất xử lý của mạng lưới bitcoin. Tổng toàn bộ tốc độ xử lý hàm băm của toàn mạng càng cao thì càng khó để tìm số nonce đúng. Khi một thợ đào tìm ra một hàm băm với số lượng chính xác các chữ số 0, người này sẽ chia sẻ bằng chứng xử lý của mình tới tất cả các thợ đào khác trên mạng lưới. Đây là một bước tiến khoa học lớn trong điện toán phi tập trung: sử dụng bằng chứng xử lý để đạt được sự đồng thuận mạng, hay còn được biết tới với tên gọi Bài toán các vị tướng Byzantine. Các thợ đào khác báo hiệu rằng họ chấp nhận block bằng cách tập trung vào việc tạo lập block tiếp theo – block này phải bao gồm hàm băm của block mới được lập. Giống như các khóa công khai và khóa bí mật của Don chỉ dành cho duy nhất ông, hàm băm của mỗi block cũng là duy nhất: Nó hoạt động giống như dấu vân tay mã hóa, khiến cho tất cả các giao dịch trong block có thể kiểm chứng được. Không thể có chuyện hai block có hai dấu vân tay giống nhau. Thợ đào chiến thắng sẽ nhận được một lượng bitcoin mới xem như là phần thưởng – phần mềm sẽ tự tạo và phân bổ tiền mới – và block đã chạy hàm băm được nối vào với chuỗi.
Vậy là, trong vòng 10 phút kể từ khi Don phát đi tin nhắn, ông và Artlery đã nhận được xác nhận rằng giao dịch bitcoin của Don đã tạo ra “đầu ra giao dịch chưa được chi tiêu”, tức là Artlery có thể tiêu nó bằng cách Don đã làm – phát đi một tin nhắn xác định số lượng gửi cũng như địa chỉ của người nhận và cho phép giao dịch với khóa công khai của Artlery. Nếu nghệ sĩ và các khách hàng biết khóa công khai của cả Don và Artlery thì họ có thể biết thỏa thuận đã hoàn thành giữa họ và số tiền giao dịch. Đó là lý do chúng tôi gọi nó là sổ cái công khai – tất cả các giao dịch đều rõ ràng và ẩn danh. Chúng ta có thể thấy địa chỉ của các bên nhưng không thể biết tên của những người đằng sau nó. Mỗi block sau đó được dùng để xác nhận thêm về giao dịch của họ.
Viễn cảnh về các nhà tài trợ lĩnh vực nghệ thuật sau này: Tái định nghĩa tiền tệ
Giờ Don đang nắm quyền nhận được phần trăm lợi nhuận khi nắm giữ bản quyền của tác phẩm có hình đồng euro. Khi tác phẩm ngoài đời thực được bán, thì nghệ sĩ, nơi gặp gỡ các bên, Don và các nhà tài trợ ảo của ông đều nhận được một phần tiền dựa theo mức độ đóng góp của họ. Nói cách khác, sự tham gia của các nhà tài trợ rất quan trọng. Nhà tài trợ sẽ tương tác với nghệ sĩ và tác phẩm, chia sẻ đánh giá của mình lên các trang mạng xã hội, khuyến khích người khác tham gia với nghệ sĩ và nghệ thuật, và chủ yếu là quảng bá cho thương hiệu của nghệ sĩ. Họ nhận được nhiều tiền hơn là những nhà tài trợ thụ động – những người chỉ xem qua một lần trên mạng rồi mua một cổ phần. Chúng tôi không chắc viết về những điều này trong sách có ảnh hưởng trực tiếp đến số điểm tham gia của Don hay không. Artlery muốn có các đánh giá – dưới dạng các nhận xét tích cực dành cho các nghệ sĩ và các tác phẩm của họ – để tương quan với việc đánh giá giá trị của tác phẩm, do đó việc phát hành nền tảng tương lai sẽ lưu tâm tới chúng ta. Ban đầu Artlery sẽ tập trung vào việc gửi tặng phần trăm cho mỗi thứ bán được. Các nền tảng phát hành trong tương lai sẽ cho phép các nhà tài trợ trực tiếp mua quyền sở hữu cổ phần của các tác phẩm nghệ thuật, có thể được chia sẻ một phần doanh từ tiền bán bản quyền hoặc sử dụng bản quyền tác phẩm.
Bằng cách quan hệ trực tiếp với nhiều bên, bao gồm cả các nhà tài trợ và biến họ thành các bên liên quan, Artlery sẽ tập trung hơn vào việc kế toán. Blockchain sẽ đóng vai trò sổ cái công khai phi tập trung, đảm bảo việc xử lý các giao dịch công khai, chính xác và kịp thời. Khi tiền xuất chi vượt quá doanh thu bán lần đầu, lần hai và các quyền khác như in ấn và bán hàng, các nghệ sĩ cá nhân sẽ không bao giờ hoạt động một mình. Họ sẽ có một cộng đồng các nhà tài trợ liên quan đằng sau để đàm phán và thực thi các quyền trong hợp đồng.
Artlery sử dụng blockchain bitcoin theo nhiều cách. Trước tiên, nó sẽ đăng ký xuất xứ của tác phẩm nghệ thuật như một siêu dữ liệu trên blockchain thông qua một hiệp hội và tích hợp API với một doanh nghiệp bitcoin mới khởi nghiệp khác có tên là Ascribe.io, và tải lên bảng tiền xuất chi để tất cả các bên liên quan được thanh toán ngay lập tức dựa trên số cổ phần của họ, nhằm đảm bảo tính minh bạch cho tất cả các bên. Artlery tìm kiếm các kỹ thuật khác nhau để mã hóa thông tin này, chẳng hạn như kịch bản bitcoin trong các giao dịch. Dù thị trường mục tiêu ban đầu của Artlery là mỹ thuật, nhưng nó đã có một sức hút đáng kể trong các ngành công nghiệp bản quyền khác như âm nhạc, sách vở và phim ảnh, những lĩnh vực mà Artlery sẽ nhắm đến thông qua việc phát hành API của riêng mình.
TÍNH RIÊNG TƯ, TỰ DO NGÔN LUẬN VÀ TỰ DO BÁO CHÍ TRÊN BLOCKCHAIN
Sự riêng tư cá nhân, tự do ngôn luận và tự do báo chí là những điều rất cần thiết cho một xã hội cởi mở, tự do và thịnh vượng. Một mặt, người dân phải có khả năng giao tiếp một cách bí mật và ẩn danh. Mặt khác, họ cũng phải có khả năng tự do ngôn luận một cách an toàn mà không cần lo lắng đến hậu quả sau đó. Kiểm duyệt trực tuyến, các tổ chức lớn và xã hội dân sự bị hack, những tiết lộ của Edward Snowden* về chương trình theo dõi người dân và lén thu thập dữ liệu đã khiến người dân ở các quốc gia có nền dân chủ được thiết lập tốt mong muốn có thể tìm được các công nghệ ẩn danh và mã hóa. Những công cụ này sẽ cho phép họ che giấu danh tính của mình, xáo trộn các tin nhắn khi di chuyển và lưu giữ sao cho chỉ có những người được cấp quyền mới có thể truy cập được.
[*]: Snowden (sinh năm 1983), một chuyên gia máy tính người Mỹ, cựu nhân viên của CIA, đã sao chép và phát tán trái phép những thông tin tuyệt mật từ Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (NSA), qua đó để lộ nhiều chương trình giám sát toàn cầu (tức hoạt độ