← Quay lại trang sách

Xã hội

Từ những năm đầu tiên, chủ nghĩa Xion (chủ nghĩa phục quốc Do Thái) đã luôn nỗ lực để gia tăng nhân khẩu. Cụ thể, halutzim (người tiên phong) đến Palestine với số lượng đáng kể sau năm 1904, gắn với ý thức hệ chủ nghĩa Xion do những nhà tư tưởng theo chủ nghĩa dân túy như Ber Borokhov tạo ra. Ông kêu gọi đảo ngược đặc tính kim tự tháp xã hội Do Thái trong cộng đồng người Do Thái. Những người theo chủ nghĩa Xion xem sự phân bổ lao động của người Do Thái thật sự không lành mạnh, (chủ yếu là các thương gia thuộc tầng lớp tiểu tư sản, thợ thủ công, còn một bộ phận nông dân hầu như không tồn tại). Thay vào đó, họ kêu gọi thiết lập tầng lớp lao động người Do Thái mới ở Palestine, trong đó nền tảng là một xã hội nông nghiệp được tổ chức trên những nguyên tắc chung. Người Do Thái sẽ “tự sản xuất” nói cách khác họ sẽ được chuyển đổi gần như từ những nhà tư bản ký sinh thành dân lao động và sản xuất thuần nhất. Ý tưởng về phẩm chất lao động và kêu gọi quay về đất nước phù hợp với tư duy của làn sóng người định cư từ Nga trước đây. Nhiều người trong số họ đã bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa dân túy Nga của thập niên 60 và 70 của thế kỷ XIX. Cả những người theo chủ nghĩa Xion vốn là những nhà xã hội học, hoặc không phải là nhà xã hội học đều lý tưởng hóa xã hội nông thôn và phát minh ra một kiểu anh hùng thần thoại nông dân Hebrew mới. Giải thích tại sao xã hội này phải được nảy sinh ở Palestine chứ không phải là bất kỳ nơi nào khác Borokhov viện đến sự giải thích duy lý méo mó dựa trên ý niệm rằng việc định cư của người Do Thái phải ở đó, chứ không tồn tại ở bất kỳ nơi nào khác là theo kinh tế tự nhiên. Ông tranh luận:

“Dân bản xứ Eretz Yisrad [vùng đất Israel] không có đặc trưng văn hóa hay kinh tế độc lập.... không phải là một quốc gia đơn độc, cũng sẽ không tạo thành một quốc gia đơn độc trong một khoảng thời gian dài... Chính những người nhập cư Do Thái sẽ đảm nhận trách nhiệm sản sinh ra Eretz Yisrad và đồng hoá dân địa phương về mặt kinh tế lẫn văn hóa với người Do Thái”.

Những người theo chủ nghĩa Xion tin vào sự hài hòa tự nhiên, một sự đồng cảm dường như là thần bí giữa halutzim và mảnh đất Israel.

Những mô hình cá nhân và tập thể của chủ nghĩa Xion là lao động nông nghiệp kiểu Do Thái, người Do Thái sinh ra ở Israel (người bản xứ) và kibbut (khu định cư ở Do Thái). Theo sử gia Israel Oz Almog thì người bản xứ “không phải là một hiện tượng sinh học mà là hiện tượng văn hóa, một thành viên kế tiếp, kéo dài từ thập niên 20 đến 50, được nhận diện không phải bởi nguyên quán, mà bởi sự sát nhập vào một thể chế để lại dấu ấn văn hóa đặc biệt”. Xét về phương diện bên ngoài, người bản xứ được quan niệm là người Do Thái bất kỳ được sinh ra ở vùng đất Israel đều có mang những phẩm chất nhất định. Nhưng tất cả điều này không ảnh hưởng tới hệ tư tưởng đối với đại đa số. Thực tế, thế hệ dân bản xứ là một nhóm ưu tú rất hạn chế, có chung cách gọi kiểu Xô Viết hơn là một xã hội thực sự cởi mở.

Giống như “con người mới” Xô Viết và “quái vật màu vàng” Aryan, người bản xứ được chủ nghĩa Xion ca ngợi, tuyên truyền, tôn thêm những giá trị, sự hy vọng, mơ ước. Theo tiểu thuyết gia Haim Guri, người bản xứ “làm giật mình bà đỡ khi thấy họ đang được sinh ra với nỗi đau chia ly và khẩu súng lục trong tay”. Một nhà văn khác đưa ra hình tượng Yitzhak Sadeh (nhà sáng lập Palmach, lực lượng biệt kích ngầm prestate) và Gary Cooper. Người bản xứ khỏe mạnh, trầm tĩnh cả về thể xác lẫn tâm hồn, tương phản với cộng đồng người Do Thái được cho là trí tuệ, theo chủ nghĩa đại đồng, ba hoa, gầy yếu.

Sự thực, dân Do Thái mới nay cũng bị phân hóa mãnh liệt, chẳng hạn Almog hiểu rằng ông không phải là người “gốc Do Thái”, ông ám chỉ điều mà Isaac Deutscher nói: “Người Do Thái nhưng không phải gốc Do Thái”. Giống như Deutscher chống lại người Xion, cho rằng người bản xứ là người thế tục không thuộc cộng đồng giáo sĩ. Người bản xứ được giáo dục xem thường cộng đồng người Do Thái là những người thường xuất hiện trước mặt ông trong hình dạng bài Do Thái.

Mặc dù hầu hết người Do Thái sinh ra ở Israel là người bản xứ nhưng một số thanh niên được sinh ở hải ngoại đã bị xã hội hóa về những vấn đề thời trang, ngôn ngữ. Và khuynh hướng vô thần của người bản xứ cũng ngăn chặn hầu Kết người Do Thái theo tôn giáo.

Đối với cộng đồng người bản xứ, việc giáo dục trong mỗi gia đình của khu định cư người Israel rất nghiêm khắc, đặc biệt cấm kị tội loạn luân.

Cuộc sống xã hội của người bản xứ rất khổ hạnh trong hầu hết mọi khía cạnh. Khiêu vũ không được hoan nghênh, chỉ nhảy múa dân gian có chọn lọc như hora (sự pha trộn giữa điệu nhảy của nông dân Romania và người Hasidic) là được chấp nhận. Nhiều đơn vị quân sự xuất chúng, đặc biệt là Palmach, thì phần lớn thành viên là người bản xứ. Almog gọi họ là “thương hiệu người bản xứ điển hình về ngôn ngữ và cách ăn mặc”. Sau khi thành lập nhà nước, “tầng lớp quý tộc quân đội” của người bản xứ phát triển thành một tầng lớp đặc quyền, cai trị về mặt chính trị dần đần thay thế thế hệ cai trị trước là những người đại diện cuối cùng về quyền lực - Menahem Begin và Yitzhak Shamir.

Sự giáo dục ở nhà trường của người bản xứ là một quá trình tẩy não tập trung. Trong sách giáo khoa về lịch sử của người Xion từ những thập niên 30 trở về sau, không chỉ tất cả những học thuyết thù địch hay trái với chủ nghĩa Xion bị xóa sổ mà theo Almog “Thậm chí những niềm tin và ý thức hệ khác với niềm tin và ý thức hệ của người Xion cũng đều bị xóa sổ”. Mục đích quan trọng hơn cả trong sự nghiệp giáo dục của người Xion là phong trào thanh niên có ảnh hưởng rộng lớn, là hoà nhập học sinh thành Yishuv (cộng đồng Do Thái ở Palestine trước 1948). Một nhà văn viết sách giáo khoa nhận xét “Người Xion không bao giờ cho phép một thành viên trong cộng đồng tách biệt với định mệnh chung của cộng đồng”. Alrivog viết: “Văn hóa Hebrew toả sáng và là trung tâm của văn hóa thế giới; là tiêu chuẩn chống lại tất cả những nền văn hóa khác khi so sánh với nó”. Tính đồng nhất và sự tẩy não của chính nó được liên minh với chủ nghĩa vị chủng. Họ bị uốn nắn về niềm tin và ý thức hệ, mà theo Almog nó “đã hạn chế khả năng quan sát văn hóa “bên ngoài”, họ vứt bỏ di sản văn hóa truyền thống của người Do Thái, có thể gọi họ là những kẻ chống lại trí tuệ ngàn đời. Họ không học đại học, không coi trọng sự phong phú của tinh thần. Thỉnh thoảng họ viết hoặc đọc thơ trữ tình, nhưng chỉ yêu thích những cuộc tranh luận về tư tưởng của thế hệ nhập cư của những người Xion đã được xã hội hóa, hoàn toàn xa lạ với họ.

Một phác thảo cô đọng Wesltunschauung của những người bản xứ khơi dậy quá khứ, thế hệ người Do Thái sinh ở Israel đã hoàn toàn mất, cũng như sự kết hợp những giá trị văn hóa và xã hội. Thậm chí nhiều người than trách khuynh hướng thừa nhận thực tế của nó. Nhà phê bình văn học trứ danh của Israel là Gershon Shaked đã viết năm 1998 như sau:

“Điều gì đã xảy đến với cuộc cách mạng văn hóa Xion? Nó đã đi đâu, về đâu? Tại sao những người tạo ra nó lại hổ thẹn về nó...?... Tại sao quyết tâm của họ bị phai mờ và tại sao họ đang trải qua sự hồi sinh niềm tin tôn giáo và quay lại với nền văn hóa của người Do Thái hoặc di cư sang phương Tây?”.

Shaked rất tiếc cho sự lưu truyền nền văn hóa muôn thuở đặc trưng của Israel. Ông tin rằng việc mất các giá trị chọn lọc của người Xion đã tạo ra một thế hệ theo chủ nghĩa cá nhân vô gia cư. “Người Israel không còn có thể tìm thấy “chất Israel” của họ, vì nó đã biến mất trong khi họ đang cố chạy trốn nó. Cái còn lại chỉ là hình ảnh mờ nhạt của một dân tộc, sống một cuộc sống vất vưởng, day dứt với cảm giác tội lỗi vì mất chất Do Thái cổ (Yiddishkeit) mà không biết cách nào để định dạng lại nó”.

Thế giới văn hóa của người bản xứ đã biến mất vì những điều kiện xã hội tác động đến nó. Thực sự, chúng chưa bao giờ được thành lập trên một nền tảng an toàn. Nhà xã hội học người Xion đến Palestine và đưa ra một xã hội nông thôn không tưởng. Nhưng xã hội mà người Do Thái Palestine duy trì là một xã hội đô thị hóa cao (hình 5). Người ta ước tính trong năm 1880 chỉ 1% người Do Thái làm nghề nông. Với 25.000 người nhập cư trong aliya đầu tiên sau năm 1881, thì đến năm 1900 có khoảng 80% định cư ở thành thị. Tổng cộng năm 1990 không quá 10% dân Do Thái ở Palestine là nông dân. Sau 1908 người Xion nỗ lực tối đa, đầu tư với quy mô lớn để định cư ở những vùng nông thôn. Do đó kết quả không quá bất ngờ, năm 1922, 18% dân Do Thái là nông dân và 1944 con số đó là 25%. Sau khi nhà nước Israel thành lập, tỉ lệ phần trăm dân Do Thái ở nông thôn giảm xuống rất nhiều; năm 2002, tỉ lệ này bằng với năm 1948, nghĩa là không tới 5%.

.

Tuy nhiên, chính sách nông thôn hóa của người Xion đã gặp thất bại, hãy xem đóng góp sản phẩm quốc dân của ngành nông nghiệp sẽ rõ. Năm 1922, nông nghiệp đóng góp 14% tổng sẵn phẩm trong khu vực Palestine của người Do Thái. Năm 1947, phần đóng góp nông nghiệp giảm còn 12%. Năm 2002, mặc dù sản phẩm nông nghiệp đã tăng mạnh, nhưng phần đóng góp của lĩnh vực này trong GDP của người Israel không vượt qua con số 2%. Cụ thể, riêng sản xuất giống cam quít đã tạo ra 74% doanh thu xuất khẩu của Palestine năm 1939 và 63% của Israel năm 1949, đây là một con số đáng thất vọng. Diện tích đất trồng cam quít đã giảm hơn nửa và bằng thập niên 50. Số nhân công làm trong lĩnh vực nông nghiệp giảm đều, từ 91.700 người năm 1969 còn 43.700 người năm 2003.

Về mặt chính trị, những nhà xã hội học Xion thống trị Yushuv từ đầu thập niên 30 cho tới chiến thắng trong bầu cử đầu tiên của Menahem Begin năm 1977. Về mặt xã hội, họ cố duy trì hệ thống giá trị thông qua những phong trào thanh niên, nguồn lao động Hebrew về nước thông qua việc phát giấy chứng nhận nhập cư, kèm một số đặc ân nhưng vẫn nằm dưới sự kiểm soát của chính phủ.

Về mặt kinh tế, sự thống trị của các nhà xã hội học Xion thể hiện thông qua các cơ quan như Liên đoàn lao động Histadrut, kibbutzim, moshavim và các hệ thống tiếp thị hợp tác Hộ cố định rõ nền kinh tế Do Thái đặc trưng bằng cách tâp trung phần lớn sở hữu đất canh tác vào Quỹ Quốc gia Dó Thai, kiểm soát việc xã hội hóa các doanh nghiệp nòng cốt và phong trào “tranh đấu cho lao động Hebrew”. Người Arab nhận lương thấp, nhiều ông chủ không phải là người Do Thái như ở nhà máy lọc dầu Haifa tuyển cả người Arab lẫn người Do Thái và chính phủ thuộc địa cố duy trì diện mạo sắc tộc trong chính sách nhân sự của họ.

Nói theo thuật ngữ kinh tế thuần túy thì vai trò của xã hội trong sự tăng trưởng của nền kinh tế thuộc địa Do Thái đã được phóng đại. Chủ nghĩa xã hội Xion ban đầu đem lại sự nhảy vọt kinh tế công nghiệp cho người Do Thái Palestine hơn là các doanh nghiệp tư nhân đến từ miền trung châu Âu giữa thập niên 20 và từ Đức giữa thập niên 30. Làn sóng từ Đức mang đến kỹ năng kinh doanh, vốn, phát minh kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý ngành công nghiệp hiện đại. Từ năm 1932 - 1940 sản xuất trong khu vực của người Do Thái tăng gần gấp ba lần (hình 6). Trong suốt thời gian chiến tranh gay go ác liệt, nền kinh tế có sự bứt phá nhanh do chiến tranh làm mọi nhu cầu đều gia tăng. Việc điều tra làm tổn hao nhiều thời gian và công sức về chủ đề “nền kinh tế bị chia cắt” của Palestine thuộc địa, Jacob Metzer kết luận rằng phần đóng góp của khu vực quản lý lao động ngoài tư nhân trong nền kinh tế Do Thái thuộc địa có lẽ không vượt quá 20%. Haim Barkai nhận xét điều này vẫn đúng, thậm chí trong những năm đầu nền kinh tế Israel chịu chi phối bởi chủ nghĩa xã hội cực đoan.

.