- 2 -
Tất nhiên, trong thực tế, đặc tính của người theo chủ nghĩa quân bình, chủ nghĩa Xion, chủ nghĩa xã hội loại trừ người Palestine và sau này là người Arab Israel bị phai mờ do sự nhập cư ồ ạt của người Do Thái từ châu Phi và châu Á. Từ thập niên 50 trở đi, sự phân hóa dân tộc xuất hiện trong xã hội Israel, trong khi người Do Thái có nguồn gốc không phải là người châu Âu thường được gợi với cái tên kỳ lạ là edot ha mizrah (cộng đồng phương Đông) mặc dầu thành phần lớn nhất của họ là người Do Thái từ Maghreb sống cuộc sống của một giai cấp dưới. Kiểu phân hóa giai cấp này có lẽ đã giảm bớt theo thời gian. Trong một phân tích về sự biển đổi giai cấp nhanh chóng giai đoạn 1974 - 1991, Meir Yaish lập luận “sự phân hóa sắc tộc/quốc gia ở Israel dường như đóng một vai trò không quan trọng lắm trong việc chỉ ra người Israel thuộc tầng lớp hay giai cấp nào”. Một nghiên cứu khác cho thấy xuất hiện sự suy giảm trong vấn đề nội giao dân tộc. Nói cách khác, so với thập niên 50 và 90, nhiều người Ashkenazim và Sephardim kết hôn với người không cùng sắc tộc với họ. Ngoài ra còn một minh chứng khác đó là nghiên cứu của Barbara Okun:
Mặc dù xảy ra tình trạng suy giảm, nhưng sự giao thoa sắc tộc vẫn duy trì đặc trưng quan trọng của nó cũng như ứng xử trong hôn nhân... Ngụ ý của sự suy giảm này là sự giao thoa sắc tộc là vấn đề quan trọng, như mâu thuẫn sắc tộc và sự không đồng đều về mặt phát triển kinh tế - xã hội. Đây là những vấn đề chính mà hiện nay Israel đang phải đối đầu.
Gershon Shafir và Yoav Peled, đồng tác giả cuốn Being Israeli, đã cung cấp những số liệu nghiên cứu cho rằng tính sắc tộc và giai cấp vẫn khớp nhau. Sự nổi bật chính trị về tính sắc tộc thể hiện rõ trong các cuộc tuyển cử quốc hội năm 1999 bởi sự thành công của các đảng dựa trên sự hỗ trợ của người Đó Thái đến từ Nga và các vùng đất Arab.
Mặc dù sắc tộc trong cộng đồng Do Thái dường như không phải là nét chấm phá chính yếu trong việc phân tầng giai cấp ở Israel, nhưng nhìn chung nền kinh tế Israel phát triển không đồng đều, chỉ phát triển mạnh trong những nằm gần đây. Viện Bảo hiểm Quốc gia Israel xếp Israel đứng thứ hai chỉ sau Mỹ trong phát triển kinh tế không đồng đều, nơi có hố sâu ngăn cách giàu nghèo và thu nhập thuần (thu nhập hộ gia đình sau khi chuyển nhượng và đóng thuế) trong năm 2000 không đồng đều. Ủy ban quốc hội trình bày báo cáo trước chính phủ Israel hồi tháng 12 năm 2002 kết luận rằng Israel chỉ kém Mỹ về khoảng cách thu nhập, sở hữu tài sản, phân phối vốn, giáo dục, tiêu thụ, trong đó người nghèo chiếm số đông.
Ira Sharkansky thuộc trường đại học Jerusalem của người Hebrew đã nhận định stress đồng hành với “khoảng cách xã hội ngày càng tăng vô lý” và “mức độ đồng đều về thu nhập của Israel hầu như phản ánh mức độ phát triển kinh tế”. Những kết luận của Sharkansky được minh họa và hỗ trợ bởi mô hình do Robert Lerman Viện Đô thị ở Washington phát triển. Tranh luận về nhận thức chung đối với việc phát triển không tương đồng đang gia tăng ở Mỹ, ông đề xuất nên học hỏi khuynh hướng cân bằng ở Đức từ năm 1988 đến 1998. Tất nhiên, trong suốt giai đoạn đó Tây Đức thu hút Đông Đức. Hầu hết mọi người sẽ tán thành rằng bất kỳ phân tích nào sử dụng Tây Đức năm 1988 như là cơ sở so sánh với toàn bộ nước Đức năm 1998 sẽ là một sai lầm. Tuy nhiên, Lerman đưa ra ý kiến: Xu hướng mất cân đối ở Mỹ gặp sai lầm tương đối tự do không coi trọng việc nhập cư quy mô lớn. Israel thu hút gần 3 triệu dân nhập cư kể từ năm 1948 và hơn 1 triệu kể từ năm 1988. Tuy vậy, ngày nay Israel thường so sánh với các mục tiêu kinh tế, xã hội của chính Israel cách đây 10 hay 20 năm. Theo phương pháp này, những so sánh về sự không cân đối trong lĩnh vực kinh tế có thể sai, nhất là ở nước nhập cư ồ ạt như Israel. Nhiều người nhập cư là người Nga, trong những năm gần đây khi sát nhập về mặt kinh tế vào xã hội Israel đã gặt hái thành công đáng kể, vậy có thể nói quan điểm của Lerman là một quan điểm thực tế. Tuy nhiên, ngày nay ở Israel có nhiều thay đổi, cụ thể là khu trung tâm quanh Tel Aviv là nơi tiêu thụ rất lớn, nơi mà những kẻ cuồng tin Spartan (khổ hạnh) của aliya (người Do Thái bắt đầu định cư ở Palestine) thứ hai (1904 - 1914) đã xa lánh.
Việc giấc mơ xã hội hóa ruộng đất của người Xion phai mờ là hình ảnh thu nhỏ của khu kibbutz (khu định cư) giảm sút trong những thập niên gần đây. Khu định cư của người Israel khi mới hình thành thuở ban đầu (1909 - 1914) chỉ có một số lượng dân khiêm tốn, nhưng đã phát triển rất nhanh về số lượng và uy tín trong giai đoạn thuộc địa và được công nhận là “ngôi nhà của người Xion ưu tú”. Năm 1948, có 54.208 cư dân ở 159 khu định cư. Mặc dù họ duy trì ảnh hưởng chính trị và vị thế xã hội trong những năm đầu khi nhà nước mới thành lập, nhưng họ chỉ đóng một vai trò thứ yếu trong việc thu hút người nhập cư mới. Cụ thể họ không thu hút người Do Thái đang sông lưu vong ở những vùng đất khác ngoài châu Âu. Hầu hết người tị nạn Do Thái đến từ Bắc Phi và Trung Đông định cư trong các thị trấn hay trong những moshavim (những khu định cư của các tiểu chủ hợp tác). Kết quả những khu kibbutz vẫn duy trì là một phong trào sắc tộc Ashkenazi. Cho tới thập niên 80, số dân định cư tăng tới 127.000. Nhưng kể từ năm 1985, kibbutz phải gánh chịu khủng hoảng với khoản nợ khổng lồ, hậu quả là dân số giảm mạnh mỗi năm. Năm 2002 có 116.000 cư dân ở 268 kibbutz. Số dân định cư giảm dần từ 8%. năm 1948 chỉ còn 2% ngày nay. Tuy vậy đây là tình hình chung, moshavim cũng trải qua tình trạng dân số giảm tương tự, trong một số trường hợp, chúng biến thành những cộng đồng tư hữu hóa.
Những khu khác như Ramat Rahel gần Jerusalem, được phép thuê đất phát triển nhà ở, trung tâm thương mại hoặc khu công nghiệp - Một kế hoạch được tạo điều kiện thuận lợi sau năm 1992 bởi những thay đổi trong khung pháp luật về quyền sở hữu đất, lần đầu tiên trong lịch sử tạo ra một thị trường tự do về bất động sản ở Israel. Một vài kibbutz như Kfar Ruppin biến thành các công ty mẹ, trong đó các thành viên là cổ đông. Những khu khác thì thuê những căn hộ trống ngoài chợ trời.
Nhiều quy phạm xã hội đặc trưng của những năm đầu biến mất hay bị thu hẹp dần: Lao động không có chuyên môn, không tuyển dụng lao động bên ngoài, phòng ăn tập thể, giải trí và nhà trẻ. Trong khi đó đối với lĩnh vực tư hữu hóa, mức lương cũng có sự khác biệt: Có chính sách khích lệ, thưởng theo năng suất, trả lương ngoài giờ, sở hữu xe hơi riêng và dùng hàng chất lượng tốt, thẻ tín dụng, kế hoạch lương hưu và dựa vào lao động bên ngoài (thường là người Arab). Năm 1999, 62% nhân công ở kibbutz là nhân công được thuê mướn. Tinh thần dân chủ được đề cao như hội họp hàng tuần, có hội đồng bầu cử. Ngày nay kibbutz tập trung vào công nghiệp nhiều hơn nông nghiệp. Khoảng 40% thanh niên sinh ra ở khu kibbutz tìm cách thoát ly, họ gia nhập quân đội, hoặc tìm cơ hội hưởng nền giáo dục cao hơn, tìm kiếm việc làm ở thành phố. Kibbutz thoái hóa dần thành khu nhà ổ chuột dành cho người già như Century Village (Làng Thế Kỷ) và khu liên hợp nghỉ hưu ở Florida.
Kibbutz vẫn vận dụng ảnh hưởng chính trị thiếu cân đối; có khoảng 17% thành viên Đảng Lao Động tham gia. Nhưng vai trò lịch sử của họ như là người đi tiên phong về chính trị thì không còn nữa. Một khảo sát năm 1998 cho thấy, chỉ một thiểu số thành viên kibbutz tin rằng họ có tương lai. Thật ngạc nhiên khi một nhà bình luận gần đây, đã kết luận: “Điều kiện ở các kibbutz chỉ xếp hạng chót”. Một quan sát viên đồng cảm hơn thì cho rằng đậy là “Tầm nhìn của con người mới” và “Một xã hội công bằng, một thế giới tốt đẹp hơn, như tuyên bố của các nhà tiên tri Israel đã theo quan điểm duy tâm trước kia. Bản chất con người đã chiến thắng chủ nghĩa lý tưởng hóa; tham vọng chứng tỏ mạnh hơn chủ nghĩa vị tha; tính cách cá nhân chế ngự trách nhiệm chung”.
Thay vì thành lập liên đoàn hợp tác xã nông dân Hebrew, người Xion lại tạo ra một xã hội đô thị hóa và công nghiệp hóa. Điều gì duy trì tham vọng ban đầu của chủ nghĩa Xion? Đó chính là nhà nước Do Thái.
Tất nhiên, xã hội của người Arab Palestine cho thấy những đặc điểm rất khác biệt. Xã hội thời kỳ thuộc địa và đế chế Ottoman là một xã hội nông thôn. Năm 1880, khoảng 79% dân số Arab là người nông thôn và tỉ lệ này còn cao hơn nếu chỉ xem xét người Arab Hồi giáo. Năm 1937, 70% dân số Arab vẫn làm nông và 57% lực lượng lao động hoạt động liên quan đến nông nghiệp. Qua giai đoạn này, quá trình đô thị hóa vẫn diễn ra không ngừng, nhưng đến năm 1946, thậm chí 64% người Arab Palestine vẫn sống ở nông thôn, hầu hết họ đều là nông dân. Tuy vậy nền kinh tế Arab Palestine vẫn tồn tại với một khu vực công nghiệp nhỏ trong thời kỳ thuộc địa, nhưng nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ lớn cho đến năm 1946, sự đóng góp của nó vào tổng sản phẩm trong khu vực người Arab gấp gần 4 lần ngành sản xuất công nghiệp.
Ngành nông nghiệp của nông dân Arab Palestine trong suốt giai đoạn này phải chịu áp lực căng thẳng do kết quả của sự gia tăng dân số nhanh, kèm theo đó là những đòi hỏi tất yếu như nhu cầu về nguồn vốn lớn, cây trồng để thu hoa lợi. Sự mắc nợ (nhất là người lĩnh canh) tăng tới mức năm 1931, các khoản tiền nợ của một người Palestine trung bình bằng với thu nhập hàng năm. Một loạt thiên tai trong thập niên 20 và 30 càng làm tăng thêm sự khó khăn cho ngành nông nghiệp: Nạn châu chấu, chuột đồng, bệnh dịch và hạn hán kéo dài suốt mấy năm. Chính vì vậy người Arab đã bỏ làng, đi tìm kế sinh nhai ở các khu vực đồi núi, vùng đồng bằng duyên hải, làm công nhân trong các thành thị hay đồn điền trồng cam quít, đôi khi kết hợp cả hai. Sự thành thị hoá của người Arab được thúc đẩy bởi việc mua đất của người Do Thái và những ảnh hưởng phụ do nền kinh tế Do Thái tăng trưởng. Đó mới là nguyên nhân chính của hiện tượng rời bỏ làng quê lên thành thị, đặc biệt khi tỷ lệ tăng trưởng dân số Palestine cao, nhất là ở nông dân Hồi giáo. Ở vùng Trung Đông cũng xảy ra một phong trào như vậy, nó cũng tạo thành một hiện tượng.
Mặc dù diện tích đất được chuyển sang chủ sở hữu người Do Thái từ năm 1881 tới 1948 ít hơn so với tổng diện tích đất của người Palestine (không quá 6% của cả nước), nhưng đó là phần đất màu mỡ phì nhiêu (bản đồ 1 và 2). Việc mua đất là một trong những điểm nút liên kết hơn là tách rời giữa nền kinh tế Do Thái và Arab, tạo ra sự cạnh tranh phân chia.
.
.
Về vấn đề đất đai ở Palestine từ năm 1917 và 1939, Keneth Stein cho rằng không phải do sự cổ vũ của chủ nghĩa dân tộc Arab, cũng không phải do sự can thiệp của Anh làm ngưng quá trình chuyển nhượng đất của người Arab, mà chính là do người Palestine. Ông kết luận hạn chế duy nhất của người Xion khi mua đất là số tiền mà họ chuẩn bị cho việc giao dịch mua bán. Có một logic kinh tế chắc chắn trong điều này là việc kinh doanh đất có khuynh hướng lên giá do mâu thuẫn chính trị tồn tại quá lâu. Stein đã cho thấy, những người bán đất gồm phần lớn các thành viên lãnh đạo phong trào chủ nghĩa dân tộc người Arab Palestine.
Còn về người Anh, họ giống những người tiền nhiệm chế độ Ottoman, nhưng không gặt hái được thành công gì hơn, họ cố hạn chế việc người Do Thái mua đất bằng việc ban hành “sắc lệnh bảo vệ nông dân”. Nhưng thực tiễn cho thấy, những sắc lệnh như vậy chỉ phản tác dụng, thậm chí theo Stein chúng còn kích thích việc kinh doanh hơn nữa. Người nông dân kỳ vọng đất đai một khi đã được bán cho người Do Thái sẽ thuộc quyền kiểm soát của chính phủ. Đã có nhiều sắc lệnh được ban hành, nhưng chúng không có hiệu lực bởi sự thông đồng giữa người bán và người mua, người bán thì sẵn lòng bán còn người mua thì vui vẻ mua. Các quan chức Anh nổi giận bởi họ thất bại trong việc ngăn chặn những chủ sở hữu đất, nông dân buộc phải bán đất cho người Do Thái để trừ vào các khoản nợ, thường thì giao dịch này được tiến hanh thông qua trung gian.
Từ đó mà có cuộc điều tra “Người Arab không tấc đất cắm dùi”. Đây là một trong những loạt điều tra do chính phủ phát động, sau các cuộc bạo loạn chống người Do Thái trong năm 1929. Uỷ ban Shaw Commission được chỉ định giải quyết vấn đề đất đai ở Palestine. Ngài Hope Simpson phát biểu: “Nếu tất cả đất đai canh tác ở Palestine bị chia cắt, thì mỗi gia đình sẽ không đủ việc làm”. Ông nói thêm “Không có đủ chỗ cho người định cư nếu tiêu chuẩn cuộc sống vẫn duy trì như hiện tại”. Ông thừa nhận nếu chính phủ theo đuổi một chính sách năng động phát triển nông nghiệp thì có thể tạo ra công ăn việc làm cho thêm 20.000 gia đình đến định cư nữa.
Báo cáo của Hope Simpson khiến người Xion cảm thấy bị xúc phạm, vì họ bị thành kiến và những giả định thống kê của Hope Simpson là chưa chính xác. Cụ thể việc ước lượng diện tích đất canh tác tối thiểu cho cho một gia đình nông dân không hợp lý. Trong khi Hope Simpson ước tính tổng diện tích đất canh tác của Palestine là 6,5 triệu mét dunams(1) thì cơ quan Jewish Agency tranh luận rằng diện tích đất canh tác thực sự gần gấp đôi con số đó. Người Xion giữ ý kiến cho rằng định nghĩa của chính phủ về “đất canh tác” và “lao động và tài nguyên trung bình của nông dân Palestine” là quá hạn chế. Thay vào đó họ thúc giục việc định rõ đất đai dựa trên năng suất “và hướng dẫn... chính phủ và việc thực dân hóa của người Do Thái”.
Thậm chí trong giai đoạn này, do có sự đầu tư về vốn, nên năng suất nông nghiệp của người Do Thái cao hơn người Arab nhiều lần. Theo một báo cáo của chính phủ năm 1930 cho thấy: Sản lượng nông nghiệp trung bình của người Arab là 70kg mỗi dunams bột mì và 59kg mỗi dunams lúa mạch; trong khi sản lượng đó của người Do Thái là 111 kg bột mì và 153 - 177 kg lúa mạch. Nói chung, năng suất của nông dân Do Thái cao gấp hai lần so với người Arab.
Trong cuộc điều tra dân số năm 1931, thì vấn đề không có đất ở nông thôn là vấn đề nổi bật. Do đó Giám đốc Phát triển mới được chính phủ chỉ định là Lewis French đã mở cuộc điều tra cho người Arab không có đất đăng ký. Có khoảng 4.500 khiếu kiện trong vòng một vài tháng, nhưng kết quả này đã làm cho chính phủ bối rối. Cuối cùng, vào tháng 4/1932 chỉ có 72 vụ kiện được đưa ra xét xử. French mệt mỏi báo cáo: “Đây là một cuộc điều tra chậm trễ và tẻ nhạt, chỉ có 664 vụ kiện được duyệt năm 1936. Chính phủ phải chịu trách nhiệm giải quyết cho các nguyên đơn, nhưng mãi tới năm 1939, khi khép lại cuộc điều tra chỉ có 74 gia đình được giải quyết trong số 899 người cuối cùng bị xếp là không có ruộng đất”.
Một lý do nữa của sự thất bại là do Uỷ viên ban chấp hành người Arab Palestine đứng đầu cơ quan “chủ nghĩa dân tộc” từ chối các kế hoạch, đó được xem như một sự xác nhận ngầm của chính sách ủng hộ người Xion. Ngoài ra còn một nguyên nhân khác là sự giải thích chính thức khái niệm thu hẹp vấn đề không có ruộng đất. Chính phủ định nghĩa “người Arab không ruộng đất” là những người “bị đẩy ra khỏi đất đai mà họ cư ngụ do rơi vào tay người Do Thái”. Vì hầu hết những nông dân này không chết đói mà họ tìm ra kế sinh nhai khác, đó là chuyển tới các thành phố sinh sống, họ không có đủ tư cách đăng ký làm người không ruộng đất”. French thừa nhận mình bất lực vì vấn đề người Do Thái định cư đang dẫn tới việc thay thế nông dân Arab trên diện rộng. Ông tranh luận “Nếu người Arab sở hữu đất... thì họ cũng phải rời đi, vì người Do Thái đến để thay thế chỗ của họ”. Ông kết luận theo sách Khải huyền rằng “Nếu quá trình mất quyền sở hữu đất tiếp diễn, thì trong vòng 3 hay 4 thập kỷ tới nông dân Arab sẽ trở thành tuyệt chủng”. French thúc giục pháp luật tăng cường bảo vệ họ. Nhiều biện pháp được áp dụng nhưng tỏ ra không hiệu quả. Thậm chí sau năm 1940, khi chính phủ đưa ra những quy định hà khắc về chuyển nhượng đất đai nhằm hạn chế việc chuyển nhượng đất, hạn chế người Do Thái chỉ được sở hữu 5% diện tích đất trong cả nước, thì việc giành đất của người Do Thái vẫn tiếp diễn trên quy mô lớn.
Metzer cũng tin rằng con số thực người nông dân bị mất đất chắc chắn lớn hơn con số đăng ký và cố ước lượng con số thực trên cơ sở dữ liệu được thừa nhận là chưa đầy đủ. Ông ước tính: Việc thay thế chủ đất từ những giao dịch về đất đai có thể giải thích là do sự suy giảm một nửa số lao động Arab trong lĩnh vực nông nghiệp từ 1921 - 1945, hay chuyển từ nông nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp khác (kể cả nông dân Do Thái).
Metzer cho biết có một sự thay đổi kết cấu lớn trong xã hội do dân nhập cư từ nông thôn vào thành thị, nhất là tới các vùng duyên hải.
Việc tìm kiếm người Arab không đất cũng vô ích như việc tìm kiếm người Do Thái nay đây mai đó. Theo kinh nghiệm của người Palestine, chúng ta có thể kết luận rằng các báo cáo của cả Hope Simpson và French đều mất hiệu lực do quan điểm cố định về xã hội nông nghiệp Palestine.
Trong một báo cáo khác của chính phủ năm 1930 đã thừa nhận: “Nhu cầu cấp thiết nhất của ngành nông nghiệp (Arab) là sự hợp lý hóa”. Nhưng mọi việc vẫn tiếp tục theo hướng “Cư dân nông thôn tạo thành một khối dân cư bản địa, không thể dễ dàng bị công nghiệp hóa, thậm chí nếu có nhiều ngành công nghiệp thu hút nó. Do đó cần đảm bảo nơi ăn chốn ở cho họ, ít nhất là kế sinh nhai”. Ủy ban “phản đối kịch liệt bất cứ nỗ lực nào nhằm xúi giục nông dân ra khỏi mảnh đất của họ và biến họ thành nhân viên văn phòng”.
Dù đó là sự nhận thức muộn màng, nhưng cũng đáng hoan nghênh. Đất canh tác nông nghiệp và năng suất qua các thập kỷ liên tiếp tăng chúng tỏ nhận thức đó là đúng. Nhiều nhà quan sát người Anh cũng hiểu được quan điểm đó. Chẳng hạn Eric Mills, năm 1931 đã viết: “Việc ứng dụng kỹ thuật của con người ngày càng tiên tiến và kinh nghiệm về nông nghiệp dồi dào trong một nước nhiều đồi núi như thế là có tính khả thi và tất yếu tiêu chuẩn của cuộc sống ngày càng được cải thiện”. Mặc dù năng suất nông nghiệp của người Arab vẫn liên tục giảm so với người Do Thái nhưng nó cũng chứng tỏ: Từ 1922 - 1945 việc sản xuất nông nghiệp của người Arab tăng trung bình 6%/năm và sản phẩm nông nghiệp tính trung bình mỗi công nhân đạt 4,1%/năm.
Các phương pháp đòi hỏi vốn lớn đặc biệt được áp dụng trong các đồn điền trồng cam quít, vốn chỉ chiếm 2% diện tích đất canh tác của người Arab, nhưng cần đến 20% lao động nông nghiệp và tạo ra 28% tổng sản phẩm nông nghiệp cho người Arab. Cho tới năm 1936 đã có nhiều người Arab làm việc trong các đồn điền trồng cam quít của người Do Thái. Sau đó, kết quả là cuộc nổi loạn của người Arab và áp lực đè nặng trên đôi vai của liên đoàn lao động Do Thái, dẫn tới khu vực then chốt của nền kinh tế Do Thái đã tăng cường sử dụng lao động Do Thái.
Việc người Do Thái mua đất đã góp phần vào trào lưu “vô sản hoá” nông dân Arab. Nhưng đây chỉ là một phần biến chuyển chung trong xã hội Palestine phát sinh việc di cư từ vùng đồi núi xuống vùng đồng bằng, từ nông thôn ra thành thị và ngày càng có đông người dân biết đọc chữ dưới sự cai trị của người Anh.
Cảnh sống lưu vong năm 1948 khiến xã hội Palestine tan rã thực sự. Sự phân chia giữa dân du cư và định cư, giữa tầng lớp quý tộc và nông dân, giữa người Hồi giáo và Thiên Chúa giáo trở nên ít quan trọng hơn. Điều họ quan tâm bây giờ là sự phân chia giữa người tị nạn và người không tị nạn, giữa người Arab Israel và những người trong các nước Arab láng giềng.
Giai đoạn 1949 - 1967 đánh dấu nỗ lực của chủ nghĩa Xion trong việc tạo ra một nền kinh tế và xã hội kín ở Palestine. Trong khi đó, ở Israel do làn sóng nhập cư khổng lồ dẫn đến nhu cầu cần lao động, giúp nước này đạt được tỉ lệ phát triển kinh tế nhanh. Đầu thập niên 60, người Arab Israel, chủ yếu là nông dân, bắt đầu gia nhập thị trường lao động mở rộng của Israel. Nhiều người đến Hebrew, một số khác thì gia nhập vào giới thành thị.
Sự chiếm đóng của người Israel ở Bờ Tây và dải Gaza năm 1967 gây chia rẽ nội bộ đối với xã hội Palestine, giữa công dân của các lãnh thổ do người Israel chiếm đóng và các lãnh thổ còn lại. Tuy nhiên, chiến tranh năm 1967 đã đánh dấu giai đoạn quan trọng trong việc khôi phục cộng đồng Arab Palestine. Sau sự phân chia trong những năm 1949 - 1967 và sự phần biệt chủng tộc triền miên chống lại người Arab ở Israel, cuối cùng giữa họ cũng nối lại mối quan hệ hữu nghị giữa người Palestine ở Bờ Tây và dải Gaza với người Arab Israel. Chính sách Những cây cầu mở băng qua Jordan được Bộ trưởng Bộ quốc phòng Israel khi đó là Moshe Dayan tán thành, duy trì sự liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa giữa chính quyền Palestine ở các lãnh thổ bị chiếm đóng và những lãnh thổ ở các nước xung quanh, nhất là Jordan. Đến năm 1994 Palestine phát triển nhưng chưa hoàn thiện.
Một dấu chỉ của việc chưa hoàn thiện là con số các cuộc hôn nhân giữa những người Palestine tị nạn và người Palestine không tị nạn còn thấp. Ví dụ, theo các hồ sơ chính thức, ở dải Gaza năm 1995, có 45% các cuộc hôn nhân là giữa những người tị nạn, chỉ 9% giữa người tị nạn với người không tị nạn. Trong khi đó tỉ lệ giữa người tị nạn và người không tị nạn là 7/3.
Ngày nay xã hội Palestine đã dần được khôi phục ở Bờ Tây và dải Gaza. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề cần được giải quyết như tỷ lệ thất nghiệp cao, tỷ lệ nữ tham gia lao động còn thấp, mỗi công nhân phải nuôi nhiều người thân trong gia đình. Trong quý II năm 2002 số người sống lệ thuộc vào người khác ở Bờ Tây và dải Gaza là 7,6 triệu người. Ngoài ra, hơn 40% dân số vẫn được liệt vào danh sách người tị nạn, phụ thuộc vào sự hỗ trợ của UNRWA (Cơ quan Việc làm và Cứu trợ Liên hiệp quốc cho người tị nạn ở vùng Trung Đông, thành lập tháng 12 1949), các cơ quan phúc lợi tư nhân và quốc tế khác. Nhà cầm quyền Palestine không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình, nếu không có sự giúp đỡ từ các nhà bảo trợ trên thế giới. Theo một báo cáo của Ngân hàng thế giới, gần đây mức hỗ trợ là $195/người/năm dành cho những người tới Bờ Tây và dải Gaza, là một trong những sự hỗ trợ phát triển cao nhất tính trên đầu người so với bất cứ nơi nào trên thế giới. Nhưng sự phụ thuộc quan trọng nhất là ở Israel, mối quan hệ quân sự/chính trị không cân đối cũng khiến cho nền kinh tế đôi khi không được đánh giá đầy đủ.
Hai xã hội Israel và Palestine cùng chung sống nên ở một mức độ nào đó nền kinh tế của hai xã hội này cũng hòa quyện, đan chéo nhau. Trước hết Israel không còn là một vùng quê thanh bình nói tiếng Hebrew nữa, mà là một xã hội công nghiệp khá tiến bộ, một nền kinh tế hậu công nghiệp dịch vụ kỹ thuật với GDP hơn 100 tỷ USD và thu nhập bình quân đầu người là 16.000 USD, tiến đến ngang bằng với khối Liên minh châu Âu. Thứ hai, Palestine, vùng đất Bờ Tây và dải Gaza nằm dưới sự cai trị của nhà cầm quyền Palestine có GDP cao nhất là 4 tỷ USD năm 2003, thu nhập bình quân đầu người thấp hơn Israel 1/10. Mặc dù 46% dân số vẫn được xếp là lao động ở nông thôn, nhưng chỉ khoảng 13% phụ thuộc vào nông nghiệp. Ngày nay nông nghiệp chỉ chiếm 8% GDP của Palestine (dù Ngân hàng Thế giới có thể ước tính sai giá trị của nông nghiệp). Một nguyên nhân GDP nông nghiệp giảm là Israel hạn chế Palestine tiến đến Bờ Tây (bác bỏ đơn xin phép đào giếng) nhưng nguyên nhân chính là xu hướng đô thị hóa. Rõ ràng Israel cũng phụ thuộc vào Palestine. Từ năm 1967, hai nền kinh tế này đã tiến đến gần nhau qua hiện tượng cụ thể: Lao động Arab. Một phần vì sự phát triển dân số, phần khác vì các ông chủ Israel có thể tận dụng nguồn lao động rẻ, ngoài ra còn vì sự đầu tư tập trung vào khu vực tư nhân và khu vực quốc doanh còn thấp tại các lãnh thổ bị chiếm đóng (ngoại trừ các vùng định cư Israel mới và các dự án cơ sở hạ tầng gắn liền), tỷ lệ lao động Palestine tăng chưa từng làm việc trong phạm vi “đường biên giới xanh” (đường biên giới của Israel trước năm 1967). Đến trước năm 1983 hơn 1/3 lực lượng lao động của Bờ Tây và dải Gaza (74.000 trong số 215.000) đang làm việc ở Israel. Họ chính là lực lượng lao động tiềm ẩn được mở rộng. Có hơn 10.000 lao động Palestine như thế, họ chấp nhận mức lương và điều kiện lao động mà người Israel chê. Đối với người Palestine, thị trường lao động Israel là thỏi nam châm thu hút không thể cưỡng lại, vì họ nhận thấy khó kiếm được tiền như vậy ở quê hương. Theo ước tính của một chuyên gia kinh tế của Ngân hàng thế giới “Người Israel đòi hỏi thêm 91% tiền lương nếu làm việc ở Bờ Tây và dải Gaza”.
Bản đồ về Bờ Tây và dải Gaza đã minh họa tầm quan trọng sống còn của việc làm ở Israel đối với nền kinh tế Palestine: Một khu vực càng cách xa thị trường lao động Israel thì mức độ nghèo càng lớn hơn (bản đồ 3). Điều này phản ánh phạm vi ảnh hưởng của sự đói nghèo ở Israel, nó được tập trung vào “những thành thị phát triển” ở các khu vực phụ cận - Những nơi tận cùng như Yeruham ở Negev hay Kiryat Shemona ở Etzba.
.