- 3 -
Lao động Arab ở Israel sau năm 1967 tập trung vào một số khu vực của nền kinh tế, trong đó người Arab là nhân công chủ yếu trong ngành công nghiệp xây dựng. Các vùng định cư Do Thái trong các lãnh thổ bị chiếm đóng được xây dựng phần lớn bởi người Arab Palestine. Như đã nói khu định cư thuê với số lượng lao động người Arab ngày càng tăng ở cả lĩnh vực nông nghiệp và các nhà máy công nghiệp. Vì vậy nhiều khu định cư Do Thái ở các lãnh thổ bị chiếm đóng tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp. Ngành du lịch Israel thu lợi nhuận cao nên tuyển dụng một lượng lớn người Palestine. Trong khi đó, hàng rào an ninh do Israel dựng lên trong suốt chiến tranh Intifada thứ hai được người Arab và những lao động là người nước ngoài xây dựng.
Thái độ phản ứng của Israel đối với việc phụ thuộc ngày càng lớn vào lao động Arab khá nước đôi. Họ cũng phàn nàn tại sao không sử dụng lao động Hebrew. Có lẽ do chính phủ Israel đã dựa vào lao động Palestine từ giữa thập niên 80 tới năm 1994. Nhưng tình trạng thất nghiệp cao làm trầm trọng thêm sự căng thẳng chính trị ở các lãnh thổ bị chiếm đóng, dẫn đến cuộc chiến Intifada thứ nhất (1987 - 1993). Nền kinh tế phát triển của Israel trong thập niên 90 đã chứng minh cho tham vọng đối với lao động nhập khẩu và sau thỏa thuận Oslo, số người Palestine làm việc tại Israel bắt đầu tăng vọt lần nữa. Tuy nhiên, sau năm 1993, lao động Palestine buộc phải xuất trình giấy tờ tuỳ thân và giấy tờ cho phép đặc biệt tại các trạm kiểm soát thường trực được thiết lập lần đầu tiên kể từ những ngày đầu Israel chiếm đóng, nếu họ muốn vào hoặc đến gần “đường biên giới xanh”. Tuy chính phủ Israel kiểm soát có phần gắt gao hơn bằng chính sách “khép kín” sau các vụ khủng bố, nhưng hàng chục ngàn người vẫn lén lút theo đường bộ phía sau và làm việc bất hợp pháp cho các nhà thầu người Israel, do đó họ tránh không phải trả phí bảo hiểm y tế hoặc thuế cho công nhân. Sự thông đồng giữa hai bên chủ - thợ cũng ngấm ngầm như trong trường hợp kinh doanh đất đai của các thế hệ trước.
Israel không thể phát triển dễ dàng nếu không có lực lượng lao động người Palestine. Palestine cũng không thể phát triển nếu không tiến vào thị trường Israel. Một trong những nguyên do chính đối với việc GDP của Palestine giảm trong suốt cuộc chiến Intifada thứ hai là chính sách đối phó “khép kín” của Israel, người Palestine tiến vào thị trường lao động ở Israel để mưu sinh bằng cách không đi qua những trạm kiểm soát (hình 7). Trước khi xảy ra Intifada thứ hai, có 130.000 người Palestine làm việc tại Israel (khoảng một nửa trong số đó là lao động bất hợp pháp). Theo ước đoán của Ngân hàng Thế giới, GDP của Palestine khoảng 5 tỉ USD hơn trước Intifada 1 tỉ USD. Sự khác biệt này chủ yếu là do lao động Palestine đang làm việc cho Israel. Nói cách khác, gần 1/5 tổng thu nhập quốc dân Palestine có được từ nguồn lao động ở Israel. Những nỗ lực này thậm chí còn đi xa hơn. Tháng 6 năm 2001 Ngân hàng Thế giới ước tính rằng chính sách “khép kín” của thị trường lao động Israel chống lại Palestine sẽ “ngụ ý giảm bớt hoạt động kinh tế trong phạm vi Bờ Tây và dải Gaza khoảng 50%”. Sau vài tuần đầu tiên của chiến tranh Intifada và cho tới các sự kiện tháng 3 năm 2002, trên thực tế khoảng 50.000 công nhân có thể quay lại công việc ở Israel và các vùng định cư, mặc dù biên giới băng qua các trạm kiểm soát này bị đóng kín và mở lại vào nhiều dịp.
.
Tuy nhiên, Intifada thứ hai gây ra tác hại rất lớn tới nền kinh tế Palestine, như trong một báo cáo từ Ngân hàng Thế giới vào tháng 3 năm 2002 đã ước tính thu nhập thực tính trên đầu người của Palestine giảm 12% trong năm 2000, 19% trong năm 2001, còn thu nhập bình quân đầu người ở Bờ Tây và dải Gaza khi đó thấp hơn mức lúc ký bản thỏa thuận “Gaza - Jericho” năm 1994 là 30%. Sau khi công bố bản báo cáo này tình hình còn tệ hại hơn nữa. Tổng GDP của Palestine, từng trên 5 tỉ USD năm 1999 đã giảm xuống dưới 5 tỉ USD năm 2002.
Giữa năm 2002, có 45% lực lượng lao động thất nghiệp. Một điều đáng tiếc nữa là ở các khu vực lãnh thổ Palestine cũng như Israel, ngành du lịch giảm xuống, ở Palestine, với lực lượng lao động dồi dào khoảng 122.000 người (chưa kể công nhân địa phương), nhà cầm quyền đã phá sản và không thể trả lương nhân viên một cách đều đặn. Nền kinh tế Palestine hầu như bị tê liệt bởi những hạn chế về hàng hóa và bị Israel từ chối sau tháng 12 năm 2000 để chuyển đổi quỹ PA do nhà quản lý thuế của Israel kiểm soát (chủ yếu là thuế giá trị gia tăng, thuế mua hàng hóa và thuế nhập khẩu) mà theo các thỏa thuận Oslo, dồn về PA. Những quỹ không chuyển nhượng này bao gồm 75% thuế thu nhập và 100% phí y tế do lao động Palestine trả ở Israel, nhưng chỉ các lao động hợp pháp mới phải trả. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất của sự khủng hoảng kinh tế ở Palestine chính là sự tụt dốc thảm hại trong việc người Palestine sang làm việc ở Israel. Cuối năm 2002, hầu hết dân Palestine sống trong cảnh cơ hàn, bên rìa của sự tồn vong, họ không làm nghề nông, thay vào đó là làm những công việc lặt vặt, bán rong, đau lòng hơn là làm gái.
Nền kinh tế Israel cũng chịu cảnh tương tự. Israel bị giáng đòn mạnh mẽ sau tháng 9 năm 2000 bởi việc đi xuống của ngành du lịch, công nghệ và bởi tình trạng suy thoái trong ngành công nghiệp kim cương, đó là ba ngành thu nhiều ngoại tệ nhất của Israel. Hai năm tiếp sau đó, đất nước này phải chịu đựng một trong những tình trạng suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử. Đầu tư nước ngoài suy giảm; giá trị đồng shekel (đơn vị tiền tệ của Israel) giảm; nạn thất nghiệp trong quý “ISRAEL năm 2002” đạt tới con số 11,2%, nhưng con số này có lẽ chưa thể hiện đầy đủ số người thất nghiệp trong thực tế.
Tại thời điểm tình trạng thất nghiệp cao đó, vậy tại sao nền kinh tế Israel vẫn duy trì sự phụ thuộc đáng kể vào lực lượng lao động đến từ các quốc gia khác? Lý do ở đây là do yếu tố kinh tế. Nói theo văn phong xã hội học, hay những mục tiêu xã hội của người Xion thì Israel dễ bị tổn thương trước những hệ quả của nạn suy thoái kinh tế, vì số lượng người nhập cư giảm dẫn tới cuộc di cư của lao động Do Thái có kỹ năng cao. Do đó những nhà hoạch định chính sách của Israel phải đương dầu với một tình huống tiến thoái lưỡng nan. Nhưng nếu Israel phục hồi nền kinh tế thì cũng giống như Mỹ, châu Âu và các nền kinh tế khác, họ cũng cần lao động nhập khẩu vì đại đa số người Do Thái trong nước chê mức lương cũng như công việc.
Một số ông chủ Israel bắt đầu tiến hành thành lập những doanh nghiệp ở ngay trên lãnh thổ Palestine, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực xây dựng, nông nghiệp và du lịch. Người Palestine đã chiếm rất nhiều việc làm của người Israel nhờ bãi bỏ chính sách “khép kín”, góp phần phục hồi nền kinh tế Palestine.
Từ thập niên 90 Israel đã ký kết các hợp đồng ngắn hạn với công nhân nước ngoài nhập khẩu, đặc biệt là người Palestine. Lực lượng lao động này thực sự hấp dẫn các ông chủ Israel, vì họ chấp nhận mức lương và phúc lợi xã hội thấp. Theo ngân hàng Israel, chi phí cho việc thuê mướn lao động nước ngoài cho lĩnh vực nông nghiệp và xây dựng thấp hơn thuê mướn người Israel khoảng 40%. Chỉ riêng các nước Romania, Thái Lan, CIS, Thổ Nhĩ Kỳ, Ghana, Mauritius, Philippin, thậm chí cả Trung Quốc trong năm 2001 đã có 11.600 lao động sang Israel. Về mặt lý thuyết, lao động từ 11 nước sẽ đến Israel mỗi năm hoặc hơn, nhưng trên thực tế Israel giống như nhiều quốc gia khác, những lao động khách mời ngắn hạn này tham gia thị trường lao động như các công dân dài hạn. Nhiều người bất chấp tình trạng sống bất hợp pháp vẫn mong muốn được tiếp tục ở lại làm việc. Một số người khác tìm cách ở lại hợp pháp, chẳng hạn như kết hôn với người Do Thái hay người Arab ở Israel để lập gia đình và ở lại đó. Một số khu vực miền nam Tel Aviv như các quận Neve Sha”anan, Hatikva và Carmel Marker hiện đã biến đổi nhiều bởi bao quanh nó là vùng đất sinh sống của lao động nhập cư với quốc tịch, văn hóa, phong tục tập quán và thể chế riêng biệt, đa dạng như nhà thờ và các tổ chức dịch vụ xã hội, thậm chí cả nhà cho thanh niên độc thân. Các viên chức cho biết có 95.000 lao động người nước ngoài ở Israel cuối năm 2001. Ngoài ra, ước tính có khoảng 141.000 người ở quá thời hạn cho phép tính đến tháng 10 năm 2001.
Vào tháng 12 năm 2001 Bộ Lao động Thương binh Xã hội cấm các lao động nước ngoài vào Israel sống tạm thời. Nhưng việc nhập cư bất hợp pháp vẫn tiếp diễn, hầu hết họ viện cớ đi du lịch. Theo một báo cáo đầu năm 2002 có 40% người nước ngoài “sống hợp pháp” ở Israel từ 6 năm trở lên. Trong tháng 5, cảnh sát Israel công bố có 300 người Trung Quốc dính líu vào các vụ trộm cắp. Tháng 8, chính phủ công bố sẽ trục xuất 50.000 người nước ngoài sống bất hợp pháp. Nhưng thay vì những nỗ lực chính thức để diệt trừ tận gốc, những dòng người lao động nước ngoài vẫn đổ vào không hề thuyên giảm. Tháng 11 năm 2002 ngân hàng Israel ước tính con số hiện tại có 262.000 người lao động nước ngoài ở đây, trong đó 2/3 không có giấy phép lao động.
Sự mờ nhạt ngày càng tăng của giới tuyến quốc gia ở Israel được minh họa bởi sự xuất hiện của nhóm người mới, không phải là người Do Thái cũng không phải người Arab. Theo Luật hồi hương, có nhiều người tự nhận mình là người Do Thái nhập cư, có thể họ phần nào mang dòng dõi gốc Do Thái hay có các thành viên gia đình là người Do Thái. Những năm gần đây, đại đa số dân nhập cư tới Israel theo Luật hồi hương, một phần từ CIS và Ethiopia, không phải là người Do Thái. Do đó luật ban hành bảo vệ người Do Thái bị ngược đãi và việc củng cố đặc trưng Do Thái của Israel đã mở đường cho sự nhập cư của những người không phải là người Do Thái tới Israel. Sự phát triển này đã buộc Cục thống kê trung ương Israel và các bộ khác trong chính phủ sửa đổi việc phân chia dân số. Chẳng hạn Bộ nội vụ, năm 1999 nhận định có 108.000 người là “vô thần”. CBS (hệ thống phát thanh Columbia) cuối năm 2002 báo cáo có 265.000 công dân không phải là người Do Thái (sống một bên Arab và Druzes). Họ là nhóm phát triển nhanh nhất ở Israel ngày nay và cùng với những lao động nước ngoài được cho là tạm thời, có lẽ con số ít nhất là nửa triệu.
Thực tế đã có nhiều dân nhập cư từ CIS và Ethiopia, chẳng hạn như Falash Mura - Một nhóm người có gốc từ Falashas (người Do Thái gốc Ethiopia) chuyển sang theo đạo Do Thái.
Cho tới thập niêu 70 sự chuyển đổi sang đạo Do Thái ở Israel khá hiếm hoi và khó khăn do các giáo sĩ Do Thái chính thống duy trì việc kiểm soát độc quyền. Cộng đồng người Do Thái gây nhiều khó khăn cho những người muốn xin chuyển đổi. Việc bắt đầu nhập cư vào Isarel với quy mô lớn từ Liên Xô năm 1971 đã mở đầu phong trào thay đổi từ từ. Trong nhiều trường hợp dân nhập cư thu xếp “chuyển đổi nhanh” để chính thức trở thành thành viên của gia đình người Do Thái. Mặc dù các giáo sĩ không phê duyệt việc này, nhưng các toà án làm ngơ vì cho rằng họ không phê chuẩn thì những phe phái khác, cụ thể là đạo Do Thái bảo thủ có thể lợi dụng vấn đề này làm tấm bình phong phê phán rằng nhà nước Israel là nhà nước độc quyền. Làn sóng nhập cư ồ ạt từ Liên Xô từ năm 1988 về sau trở thành vấn đề được nói đến hàng đầu. Dưới áp lực từ các phe tôn giáo chính thống, liên minh cầm quyền thúc đẩy ngành tư pháp việc phủ nhận sự chuyển đổi thành dân Do Thái không chính thông đó. Trước tình hình rối ren như vậy, năm 1997 chính phủ Netanyahu thiết lập một Ủy ban hướng dẫn đối với những chuyển đổi không chính thống, ủy ban này đề xuất xây dựng “thể chế chuyển đổi”, chuẩn bị cho người nộp đơn xin chuyển đổi và sẽ hoạt động theo kiểu làm thỏa mãn những chuyển đổi không được công nhận bởi các nhóm chính thống cực đoan. Tuy nhiên, con số chuyển đổi thành người Do Thái vẫn tăng nhanh từ 1.531 (1996) lên 4.130 (1999).
Sự phát triển của một yếu tố thứ ba đã khuấy động mối quan tâm của những nhà lãnh đạo Israel, lớn hơn cả vấn đề phụ thuộc vào lao động Arab, đó là người Do Thái chính thống phản đối việc chuyển đổi thành người Do Thái. Năm 1998 Bộ nội vụ ra lệnh dân nhập cư Nga có tổ tiên người Do Thái nằm trong diện nghi vấn phải lấy mẫu DNA để xác nhận nguồn gốc Do Thái của họ. Năm 1999 Bộ trưởng Michael Melchior, gọi hiện tượng này là “quả bom hẹn giờ”. Ông là một “người chủ trương hòa bình” nhưng những nhà lãnh đạo Israel khác thì không như vậy, họ xem lao động người Palestine và lao động nước ngoài là mối nguy hiểm như cuộc hành trình của Ulysses (vua đảo Itaco - Thần thoại Hy Lạp) giữa Scylla và Charybdis. Tuy vậy dù trải qua lộ trình nào, thì điểm đến không phải là đồng nhất hoặc tách rời xã hội Israel Do Thái, mà là một xã hội đa nguyên trong mối quan hệ tương đối mở với môi trường xung quanh và thế giới. Điều này thể hiện cho một cuộc cách mạng và có lẽ là một sự chuyển đổi trong hệ thống giá trị xã hội, nhưng như vậy là đi ngược lại với lý tưởng cơ bản của người sáng lập chủ nghĩa Xion
Chú thích:
(1) Dunara, số đo diện tích của người Thổ nhĩ kỳ vẫn còn được sử dụng ở Israel/Palestine. 1 met dunam = 0,25 ha hoặc tương đương 1.000m2