Môi trường
Tất cả các phong trào khẳng định mối quan hệ đặc biệt đối với vùng đất mà họ chiếm đóng. Chủ nghĩa Xion vì không chiếm đất nên đi xa hơn: Dự định “khiếu kiện” đất để phục hồi sử dụng, họ viện cớ rằng vấn đề này đã bị lãng quên hàng thế kỷ. 100 năm phát triển nhanh chóng đã thực sự làm biến đổi vùng đất Palestine. Bùng nổ dân số, thâm canh, quy hoạch đô thị, mở rộng đường sá trên phạm vi rộng và phát triển nền kinh tế công nghiệp, tất cả những việc này đã tàn phá môi trường sinh thái của Palestine. Nhiều loài động vật có vú, bò sát và chim di trú đã biến mất khỏi nước này. Những giống khác đang nằm trong danh sách tuyệt chủng. Hầu hết các dòng sông (vốn đã ít) của Israel bị ô nhiễm, đến nỗi cá cũng không thể sống nổi. Con người cũng không thoát khỏi bàn tay của tử thần: Năm 1997 bốn vận động viên người Úc tham dự vòng thi đấu các môn thể thao quốc tế Maccabiya bị chết khi đang đi qua một cái cầu bắc ngang sông Yarkon ở Tel Aviv. Cầu sập, làm hai người chết vì chấn thương; còn hai người kia là nạn nhân thảm thương của chất độc chứa trong nước sông.
Không quốc gia nào có thể làm ngơ, chịu đựng tình trạng môi trường bị nguy hại về lâu dài. Các nước vùng Trung Đông nói chung đã coi thường hậu quả của sự khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sổ sách ghi chép của Israel cũng chẳng hơn gì các nước láng giềng, nhưng tiềm năng khai thác của Israel bị hạn chế nhiều hơn hầu hết các nước khác trong vùng. Palestine không có toàn quyền đối với môi trường của họ và tốc độ phát triển kinh tế của họ chậm hơn Israel. Tuy nhiên ở các lãnh thổ Palestine, áp lực tăng dân số đã đạt tới điểm khủng hoảng.
Khi dân số tăng kéo theo mật độ dân số cũng sẽ tăng. Năm 1922, mật độ dân số chỉ có 30 người/km2. Năm 2002, là 299 người/km2 trong phạm vi “đường biên giới xanh”. Có thể nói Palestine là một trong những quốc gia có mật độ dân số dày đặc nhất thế giới. Ở Bờ Tây, năm 2002, mật độ là 382 người/km2. So sánh với các nước khác, ta thấy Libăng có mật độ là 364 người/km2, trong khi Netherlands có diện tích sa mạc rộng lớn. Miền Nam của Israel có sa mạc Negev (tương tự một số thành phố như Beershabe), có mật độ 67 người/km2. Ngược lại, dải Gaza là 3.541 người/km2 và vùng Tel Aviv là 6.790 người/km2. Vùng đồng bằng duyên hải chiếm gần 2/3 dân số (bản đồ 4). Các đô thị quanh Tel Aviv, người Israel gọi là “Los Angelization” của vùng.
.
Việc tái trồng rừng trên những sườn đồi trọc của Palestine luôn nằm trong kế hoạch của người Xion. Năm 1905 tổ chức Xion quyết định tưởng niệm nhà sáng lập bị mắc bệnh lúc đó là Theodor Herzl bằng cách tiến hành một kế hoạch trồng rừng lấy tên của ông. Kết thúc chiến dịch này “Quỹ trồng rừng ôliu” được thành lập, phát sinh ra một trong những chiến dịch gây quỹ thành công và phổ biến nhất của phong trào xion. Thông qua cộng đồng Do Thái, quà hiến tặng cho việc trồng rừng được thu thập vào “những cái hộp xanh” có mặt khắp nơi của “Quỹ Quốc gia Do Thái” (JNF), nhất là trong dịp “Năm mới của cây cối”, một ngày lễ truyền thông mang đậm màu sắc hoạt động của người theo chủ nghĩa quốc gia mới. Từng cây mang dấu ân cá nhân lấy tên của trẻ em, những khu rừng nhỏ chứng tỏ sự tôn trọng giá trị cộng đồng và những tặng vật của toàn bộ khu rừng được ghi trong một “Cuốn sổ vàng”. Theo tường thuật của những người theo chủ nghĩa Xion, sự quan tâm đến cây cối của người Do Thái, kể cả trước, đây lẫn bây giờ, trái với thái độ “kẻ chinh phục Arab”, là những kẻ đã tàn phá rừng. Quá trình tàn phá không thương tiếc ấy xảy ra vào thời kỳ cuối đế chế Ottoman, nhất là trong suốt chiến tranh thế giới thứ nhất. Tới năm 1936, chính quyền thuộc địa thậm chí vẫn chưa thành lập Bộ phụ trách rừng. Trong những năm sau của chế độ thuộc địa, chính phủ trồng khoảng 800.000 cây/năm và các cơ quan tư nhân, đáng kể là JNF, trồng thêm 600.000 cây nữa. Giữa những năm 1960 - 2001 tổng diện tích tái trồng rừng (không tính rừng tự nhiên) ở Israel đã tăng lên gấp ba. Bước sang thế kỷ 21, JNF tuyên bố đã trồng được 220 triệu cây.
Tuy nhiên viễn cảnh đối với Israel là một Levantine Norway (Nauy Cận Đông) không được thực hiện. Và tiếc thay Israel vẫn chỉ là một trong những quốc gia “trồng cây gây rừng” ít nhất ở vùng ven biển Địa Trung Hải. Năm 2002, rừng ở Israel chỉ chiếm 4,2% so với Li băng là 7%, Morocco 8%. Hơn nữa, một số giống cây nhập khẩu, với mục đích châu Âu hóa cảnh quan, rất dễ bị hại cao trước sâu bệnh và hỏa hoạn.
Ở Palestine cũng vậy, cây cối chiếm một vị trí đáng kể trong cuộc sống của người dân. Người ta nói một số cây, đặc biệt là hạt carob và cây vả, bị quỷ ám. Những cây khác như xoài, thông dầu, oliu theo truyền thống được xem là nơi cư trú của các vị thánh Hồi giáo. Trong nhiều trường hợp, người ta trồng “cây thánh” để chứng tỏ “sự vinh quang của núi rừng” trước đây của người Palestine. Họ tin rằng cây thánh có thể chống chọi lại sự phá phách của lũ châu chấu. Một vài cây có tầm quan trọng mang tính quốc gia, chẳng hạn như Sittnah alGharah - “Người đàn bà vinh hiển”, mọc ở phía đông của Beit Nuba, gần Latrun. Theo truyền thuyết “Người đàn bà vinh hiển” xuất hiện trong suốt cuộc tấn công của Anh quốc (năm 1917), bà đứng trên ngọn cây, trong trang phục xanh màu lá, khăn choàng đầu màu sáng, với thanh gươm đẫm máu trong tay. Mỗi lần lính Anh tiến lên bà lại đẩy lùi chúng”. Một số người Arab theo Cơ đốc giáo cũng cho rằng cây cối mang tính thần thánh, ví dụ cây ôliu trong vườn Gethsemane thành Jerusalem và ở “cánh đồng cừu” gần Bethlehem. Sau năm 1948 văn học viết về sự lưu vong của người Arab Palestine, cây cối, nhất là cây ôliu và cây chanh, thường được xem là biểu tượng quan trọng, chứng nhân nhắc nhở chốn quê nhà - Miền cực lạc đã rơi vào tay giặc.
Ở Bờ Tây các sườn đồi nhìn chung vẫn là đồi trọc. Dưới chế độ Jordan, việc trồng lại rừng nhỏ được thực hiện, cứu nguy cho vùng Jenin. Trong khi nhiều khu vực rừng tự nhiên bị nông dân đốt lấy nhiên liệu, làm giảm số cây rừng và hủy hoại khí hậu. Năm 1997, người ta ước tính các vùng rừng ở Bờ Tây không vượt quá 0,89% tổng diện tích. Người Palestine phàn nàn rằng nhiều khu vực, thậm chí những nơi có các nguồn tài nguyên hạn chế, cây cối đang bị bứng đi để làm khu định cư cho người Do Thái.
Căn cứ theo xu hướng trồng rừng trong hệ tư tưởng Xion và văn hóa dân gian Palestine thì không có gì ngạc nhiên khi chúng trở thành mục tiêu mâu thuẫn. Ở Palestine, hay các quốc gia quanh Địa Trung Hải (nhất là Hy Lạp và Algeria) trong thế kỷ XX; việc đốt cây đã trở thành một hình thức phản đối chính trị phổ biến. Từ thập niên 20 trở đi, người ta có thể nghe thấy các cáo buộc người Arab đang phạm tội cố ý đốt phá rừng do người Do Thái trồng. Trong suốt những năm đầu chiến tranh Intifada thứ nhất, người ta ước lượng có 1/3 vụ cháy rừng là do cố ý chứ không phải vì rủi ro trên những vùng đất của người theo chủ nghĩa dân tộc. Việc này được xem là do người Palestine chiến đấu với “Intifada môi trường”. Dân định cư Do Thái đã tấn công vào các khu rừng nhỏ trồng ôliu của người Arab ở Bờ Tây, phá hủy cây trồng và chống lại chủ sở hữu đất không cho thu lượm trái cây. Còn quân đội Israel sẵn sàng san bằng những vườn trái cây, cụ thể là ở dải Gaza để tạo thành vùng “phòng hoả hoạn”.
Một vấn đề hết sức nóng bỏng chính là nguồn nước. Nước giữ một vai trò quan trọng trong sự mâu thuẫn giữa Arab và Israel từ thuở sơ khai. Trong và sau Hội nghị hoà bình Paris năm 1919, người Xion nhấn mạnh khó mà đảm bảo các nguồn nước của Jordan sẽ rơi vào vùng thuộc địa của Anh hơn là của Pháp. Họ hỗ trợ mạnh mẽ việc ứng dụng Pinhas Rutenberg, một cuộc cách mạng ga để tận dụng nước của Jordan trong sản xuất điện. Nếu hiệu quả, nó sẽ góp phần điện hóa đất nước.
Trong suốt thời kỳ thuộc địa, sự lớn mạnh nhanh chóng của người Xion dẫn đến việc thường xuyên đào giếng trái phép, cũng như những nỗ lực phản tác dụng của Anh trong việc hạn chế mua đất đai của người Do Thái, ủy ban nước của chính phủ đã bất lực và lưu ý năm 1977 trong một bản ghi nhớ về việc bơm nước quá nhiều ở vùng Haifa: “Chúng tôi không có quyền cho phép hay cấm đoán việc đào giếng để khai thác các mạch nước ngầm cho tới khi chúng tôi có quyền đó. Các công ty tư nhân và những chủ sở hữu sẽ tiếp tục đào giếng bất chấp mối nguy hiểm của việc phá hủy và làm hư các hồ chứa ngầm đầy giá trị và bất chấp cả quyền được sử dụng của người khác”. Mặc dù các quy định bảo vệ có từ thời chiến cho phép các cơ quan chức năng can thiệp, nhưng trong thực tế họ tự thấy không thể quản lý việc đào giếng mới. Năm 1946, ủy ban nước bày tỏ nỗi thất vọng về tình trạng bơm nước ở vùng Haifa: “Bây giờ tình hình còn tồi tệ hơn và thảm họa nằm ngay trước mắt”.
Trong cuộc chiến năm 1948, quân Iraq khống chế nguồn nước Jerusalem tại Ras al - Ain cho tới khi bị lực lượng Israel đánh đuổi. Nước trở thành một vấn đề chiến lược ngoại giao đe dọa đối với các nước lân bang. Chẳng hạn, năm 1967, mâu thuẫn về nguồn nước của Jordan đóng một phần quan trọng trong cuộc đột kích chiến tranh và năm 2002 xảy ra mâu thuẫn với người Libăng.
Quan niệm của chủ nghĩa Xion đặc biệt ảnh hưởng tới các nguồn nước của Palestine. Palestine chỉ nắm giữ ba phần nước trong vùng nội địa là Biển Chết, hồ Huleh và biển Galilee (hồ Tiberias). Trường hợp nghiêm trọng nhất là Biển Chết, hiện tiếp giáp với Israel và Jordan, là nơi thấp nhất trên bề mặt trái đất và là một trong những kỳ quan của thế giới. Môi trường của hồ muối này đã bị suy thoái trầm trọng trong các thập kỷ qua. Mực nước sông Jordan suy giảm và sự khai thác chất khoáng quá mức của ngành công nghiệp phôtphat Israel và Jordan là nguyên nhân làm mực nước thấp dần, từ khoảng 1.280 bộ thấp hơn mực nước biển trong năm 1930, tới 1.360 bộ thấp hơn mực nước biển năm 2002. Trong cùng thời kỳ đó, mực nước giáp bờ rút khoảng 46m. Một ủy viên thuộc Ủy ban nước Israel khi được chất vấn năm 1999 về hệ quả của hồ này đã nói: “Thay vì nuôi Biển Chết chúng ta hãy làm hồi sinh hoang mạc chết”. Người ta đầu tư vào mé Bờ Tây của biển để nâng cấp ngành du lịch. Nhưng vài năm nay khi du khách đến thưởng ngoạn Biển Chết, họ phải chứng kiến cảnh một đường đất đắp cao do hậu quả của việc giảm mực nước biển để lại. Ngày nay toàn bộ phần cuối phía Nam của biển đã thực sự cạn khô. Chiều dài biển từ mũi Bắc tới mũi Nam đã co lại từ 75km còn 55km, mực nước giảm khoảng 3 bộ/năm. Nếu cứ theo đà đó nước biển có thể cạn vào năm 2050, phá hủy hệ sinh thái vốn rất dễ bị tổn thương quanh bờ biển.
Một số đề nghị đã được đưa ra nhằm làm đầy nước trở lại cho Biển Chết. Năm 1890 một kỹ sư người Thuỵ Sĩ tên Max Bourcart đề nghị xây dựng một con kênh bắt nguồn từ Địa Trung Hải. Ý tưởng này một lần nữa được nhà nông học người Mỹ Walter Lowdermilk đề cập vào thập niên 40 và 50 bởi ông lập ra kế hoạch vĩ mô cho kênh “Med - Dead” làm đầy biển bằng nước muối, đồng thời tạo ra thủy điện). Kế hoạch tuyệt vời đó nhận được sự phê chuẩn từ chính phủ Israel trong thập niên 80, nhưng đáng tiếc nó không bao giờ được thực hiện. Gần đây, tại cuộc họp thượng đỉnh về môi trường thế giới ở Johannesburg diễn ra trong năm 2002, Bộ trưởng Bộ môi trường của Israel và Jordan đã ký một thỏa thuận về việc cùng nhau xây dựng một đường ống dẫn để mang nước từ Biển Đỏ vào Biển Chết. Hiệp ước không đề cập nguồn quỹ cho dự án mà theo ước tính phải tiêu tốn đến một tỷ đôla. Nhưng nếu được thực thi thì “Red - Dead” giống như “Med - Dead” đe dọa tàn phá môi trường nghiêm trọng. Trong trường hợp này cần cân bằng sinh thái tự nhiên ở sa mạc Arava phía nam Biển Chết, lòng biển cũng như xung quanh biển.
Trường hợp phục hồi hồ Huleh chứng minh các kết quả phản tác dụng tiềm tàng của các chính sách phát triển bừa bãi, khi thực hiện người ta đã không cân nhắc cẩn trọng các hậu quả để lại cho môi trường. Cuối thế kỷ XIX hồ Huleh ở sông Jordan, phía Bắc biển Galilee (bản đồ 5), có diện tích khoảng 12 - 14 km2 và được bao bọc bởi 48 km2 đầm lầy. Đức cha George Adam Smith, tác giả cuốn Địa lý lịch sử vùng đất thánh (một ấn bản uyên bác có sức thuyết phục trong tôn giáo thế kỷ XIX), viết: “Có lẽ đây từng là một cái hồ. Ngày nay nó thu hẹp lại, thấp hơn gọi là hồ Huleh, phần còn lại là đầm lầy và đồng cỏ bằng phẳng, một vài đồi núi nhỏ và cây cối bao phủ. Có thể dễ dàng tháo nước cũng như mở rộng”. Đầu thế kỷ XX cái hồ này là một niềm kiêu hãnh “Sự phong phú bậc nhất của khu sinh vật sống dưới nước ở Levant... bao gồm 260 loài côn trùng, 95 loài giáp xác, 30 loài ốc và con trai, 21 loài cá, 7 loài lưỡng cư và bò sát, 131 loài chim và 3 loài động vật có vú”. Nhưng vùng này đã bị phá hoại bởi muỗi gây bệnh sốt rét, gây khó khăn cho đời sống con người.
.
Năm 1860, trong một chuyến viếng thăm vùng này, Scotsman đã lập ra kế hoạch phục hồi đầu tiên. Trước khi thế chiến thứ nhất bùng nổ, chính phủ Ottoman nhượng bộ cho hai thương gia Beirut trong vấn đề thương lượng hệ thống tháo nước đầm. Việc thực hiện dự án bị trì hoãn bởi chiến tranh, những vấn đề về mặt pháp lý và những khó khăn khác. Vùng đất này được Cổng ty phát triển đất đai Palestine do người Do Thái kiểm soát mua lại năm 1934 và chính phủ lại có một thỏa hiệp nhượng bộ về vấn đề thoát nước khác. Nhưng binh biến xảy ra và sau đó là thế chiến thứ hai một lần nữa ngăn trở việc thực hiện công trình. Mãi tới năm 1950 công việc này cuối cùng cũng được bắt đầu. Trong giai đoạn đầu, 800 người Arab bị bắt buộc chuyển nhà. Năm 1958, 12.350 ha bãi lầy quanh hồ được tháo nước và biến thành đất trồng trọt để dân định cư Do Thái canh tác. Bệnh sốt rét hoàn toàn bị loại bỏ khỏi khu vực này. Dự án được ví von như một thành tựu vĩ đại tượng trưng cho hình ảnh phát triển bay lên của chủ nghĩa Xion và các du khách có dịp chứng kiến tận mắt sự biến đổi như một phép màu diệu kỳ ở vùng này.
Nhưng sự thay đổi nhân tạo này trong hệ sinh thái của vùng đã gây ra những hậu quả không lường trước được: Mạch nước ngầm giảm, đất hóa bụi. Khi mặt đất khô ráo thì chuột đồng tăng lên và loài gặm nhấm này thỏa thích phá phách mùa màng. Nông dân buộc phải bỏ xứ ra đi. Than bùn đang phân hủy từ vùng bị tháo nước giải thoát số lượng lớn nitrate vào biển Galilee, ảnh hưởng ngược lại chất lượng của nước. Nhiều loài thực vật và động vật biến mất. Trong thập niên 80 dự án bị thừa nhận là thất bại về mặt chi phí. Năm 1994, trong một nỗ lực khôi phục sự cân bằng sinh thái tự nhiên, một phần vùng này được cải tạo làm ngập nước và đặt tên là hồ Agmon.
Biển Galilee được xem là quan trọng nhất từ trước tới nay, vì nó cấu thành hồ chứa nước ngọt chính. Trong những năm gầu đây mực nước trung bình của nó giảm và trong năm 2001 giảm tới mức kỷ lục là 215m dưới mực nước biển. Dòng chảy vào từ phía Bắc tới Jordan cũng tới mức chấp nhất chưa từng có trong lịch sử. Trong khi độ mặn tăng tới 287mg clo/l, cao hơn mức cho phép 250 mg đối với nước uống. Lý do chính là việc bơm quá nhiều từ hồ vào bể chứa nước quốc gia Israel, một mạng lưới luồng lạch được hoàn thành trong năm 1964 (bản đồ 6). Ngoài ra còn những nhân tố khác là thời gian khô hạn kéo dài và việc rút nước ngày càng tăng của người Libăng từ các nguồn nước sông Jordan trên dòng chảy vào hồ.
.