← Quay lại trang sách

- 2 -

Israel phải tạo ra một số phương pháp để giải quyết vấn đề, chẳng hạn như xác định lại “đường đỏ”, giới hạn thấp hơn đối với hồ. Mãi tới năm 1981, đường này là 212m thấp hơn mực nước biển, Tuy nhiên, đường này đã thấp hơn bốn lần, gần đây nhất trong năm 2001 đường này ở mức 214,25m. Nhưng thậm chí mức đó cũng nhanh chóng bị vi phạm và người nắm quyền hành kiểm soát nước dường như bỏ qua khái niệm “đường đỏ”. Những cơn mưa trong mùa đông năm 2003 và 2004 làm đầy nước hồ, nhưng về lâu dài tình hình vẫn u ám.

Israel đã đề ra một chính sách hợp lý về vấn đề nước và điều đó sẽ tác động đến mối quan hệ với các nước láng giềng. Do đó, việc lập chính sách chính trị về nước ở khu vực Trung Đông nói chung và ở Israel/Palestine là một việc quan trọng. Trong mối quan hệ giữa Israel và Palestine luôn tồn tại những nhận thức sai lầm khá phổ biến. Ví dụ, người ta cho rằng lượng mưa ở Palestine thấp hơn khi so sánh với hầu hết các nước châu Âu (lượng mưa trung bình hàng năm của Jerusalem khoảng 600 mm cao hơn London, Paris, Berlin, hay Warsaw). Năm 1931, ông Eric Mills lưu ý: “Với một lượng mưa hàng năm không thay đổi tương đương với lượng mưa ở miền Đông nước Anh, nhưng ít có công trình xây dựng lâu dài cho việc bảo tồn nước. Sự thật là lịch sử đã ghi nhận Palestine thất bại trong việc bảo tồn nguồn cung cấp nước”.

Trong những năm đầu của chủ nghĩa Xion, nhìn chung người ta tin một cách mù quáng rằng nước không chỉ là một trong những nguồn sống quan trọng mà còn kìm hãm sự phát triển kinh tế. Ví dụ, năm 1946, trong một cuộc khảo sát kinh tế ở Palestine, Nathan, Gassm và Creamer viết: “Nguồn cung cấp nước hiện nay là nguyên nhân hạn chế nghiêm trọng nhất của Palestine trong việc thu hút số lượng lớn người nhập cư mới”. Tưới tiêu đóng vai trò thiết yếu đối với phát triển nông nghiệp của người Xion trong thời kỳ thuộc địa, năm 1947 chỉ 8% đất canh tác được tưới tiêu. Như chúng ta đã biết đại đa số dân nhập cư sống định cư ở các thị trấn và làm việc trong các lĩnh vực kinh tế ít phụ thuộc vào nước. Ngày nay ở Israel và Palestine người ta vẫn còn tin rằng nước là một vấn đề chiến lược tối trọng và muốn phát triển nhất thiết phải giải quyết được vấn đề này, cũng như tin rằng sự cạnh tranh để có nguồn cung cấp nước quý hiếm như vậy có thể dẫn tới mâu thuẫn trầm kha.

Trái với quan niệm chung, dân số tăng nhanh và nền kinh tế phát triển không nhất thiết đòi hỏi nguồn cung cấp nước cũng phải gia tăng tương ứng. Điều ngược lại là nền kinh tế công nghiệp tiến bộ ít cần nước hơn nền kinh tế nông nghiệp thô sơ. Một chính quyền cho biết khối lượng nước dùng trong công nghiệp và dịch vụ có thể gấp 10.000 lần lượng nước dùng cho việc tưới tiêu. Theo một khảo sát địa lý ở Mỹ, việc sử dụng nước giảm trong 1980 - 1995 từ 1.900 gallon /người /năm còn khoảng 1.500, đây là thời kỳ dân số bùng nổ và bành trướng kinh tế. Xu hướng này vẫn còn tiếp tục.

Các nhà thủy học cho biết khi một vùng cạn kiệt nguồn nước như Trung Đông trong thập niên 70 và Israel/Palestine hết nước trong thập niên 50 ta có hiểu ngay rằng ở đó đã thiếu nước để đáp ứng cho các nhu cầu: Công nghiệp, đô thị, sinh hoạt và quan trọng nhất là sản xuất thực phẩm. Tuy nhiên J.A.Allan đã cất công nghiên cứu làm sáng tỏ Vấn đề về nước ở Trung Đông, thực sự nó không đương đầu với thảm họa cạn kiệt nước. Ông tranh luận: “Nguồn nước không quyết định sự phát triển kinh tế xã hội mà sự phát triển kinh tế xã hội quyết định việc chọn lựa quản lý nước”. Ông cũng chỉ ra rằng nước có một giá trị biểu tượng cũng như giá trị kinh tế trong nhiều xã hội. Theo ông Israel là nền kinh tế duy nhất ở vùng Trung Đông có truyền thống: “Thích nghi hoàn toàn với các nguyên tắc quản lý nhu cầu”. Ông lưu ý, “đại đa số dân Israel vẫn coi trọng tính linh thiêng của truyền thống này” và việc phụ thuộc vào nước Israel bên dưới Bờ Tây đôi khi chỉ là cái cớ để biện hộ cho việc tiếp tục nắm giữ lãnh thổ chiến lược. Có thể nói sự phát triển một nền kinh tế công nghiệp hiện đại có thể nhấn chìm quan điểm cần sử dụng nhiều nước. Tuy vậy, Israel cũng như các nước lân bang luôn đánh giá cao vai trò của nước trong đời sống, nên đã lập ra mô hình quản lý nước hiệu quả. Ở Israel cũng như nhiều nơi khác, người ta vẫn quan niệm nước chủ yếu được dùng trong nông nghiệp (hình 8). Tuy nhiên ngày nay, như đã lưu ý, nông nghiệp chỉ đóng góp phần không quan trọng vào GDP ở Israel. Cho nên giải pháp đơn giản nhất là cắt giảm nguồn tiêu thụ nước dành cho nông nghiệp.

.

Thực tế, Israel đã làm như vậy. Áp lực nước dùng trong nông nghiệp đã giảm bớt trong các thập niên gần đây, do kết quả của việc giảm kibbutzim (nông trang tập thể của người Do Thái) và vai trò bá chủ của Đảng Lao động trong hệ thống chính trị. Chính phủ Israel đã mất nhiều thời gian hơn trong việc quyết định đối với các vấn đề liên quan tới nước có thể bị kìm hãm bởi nông nghiệp. Việc sở hữu nguồn nước tư nhân ở Israel bị xoá bỏ bởi Luật nước vào năm 1959 và một ủy ban nước đã được chính phủ chỉ định. Nó đã phát huy tối đa vai trò của mình trong tất cả những vụ liên quan tới nước. Các quy định phát hành năm 1976 thiết lập trật tự các ưu tiên sử dụng nước trong “các lĩnh vực hạn chế” (đó là các nơi cầu vượt cung): (1) nước sinh hoạt (2) công nghiệp (3) nông nghiệp (4) sử dụng vào những việc khác. Vì hầu như cả nước được xếp vào “vùng hạn chế” nên nhu cầu nước nông nghiệp chỉ là ưu tiên thấp. Việc sử dụng nước trong nông nghiệp dần dần bị cắt giảm, cụ thể là sau năm 1986. Việc giảm hơn nửa nguồn cung cấp nước có sẵn trong năm 1999 dẫn tới giảm 40% chỉ tiêu nước trung bình dành cho nông nghiệp và 50% trong năm 2000 - 2002. Nhìn chung, trong năm 1998 - 2001, Israel đã giảm đáng kể lượng nước sử dựng. Việc cắt giảm chỉ tiêu nước nông nghiệp được khuyến khích, chẳng hạn như phương pháp “tưới tiêu nhỏ giọt” đi tiên phong ở Israel. Nhìn chung, từ 1975 đến 2001, sự phân phối nước trung bình cho nông nghiệp đối với mỗi đơn vị diện tích đất giảm hơn 1/3 trong khi sản phẩm nông nghiệp tăng chưa từng thấy.

Nhiều giải pháp khác cũng đang được thực hiện. Giải pháp thứ nhất là tái sử dụng nước thải sinh hoạt tái chế. Giải pháp thứ hai là khử muối, làm giảm mạnh chi phí từ giữa thập niên 80. Theo các kế hoạch hiện nay, nước biển được khử muối sẽ cung cấp 7,5% nhu cầu nước ước tính của Israel năm 2020. Giải pháp thứ ba có lẽ về lâu dài là giải pháp gây tốn kém nhất, nhập khẩu nước ngọt bằng các loại tàu chở dầu cực lớn, các đường ống dẫn nước ngầm hay “các bịch nước thả nổi”. Năm 2002, Israel đã ký hợp đồng mua nước với Thổ Nhĩ Kỳ, phương tiện chuyên chở bằng tàu, nhưng nếu phụ thuộc trên diện rộng vào phương pháp này sẽ rất đắt đỏ: Hiện nay chỉ một số vịnh ở Iraq có khả năng mua nước như vậy. Tuy nhiên, hòa bình với các nước láng giềng ở phía Bắc Israel sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện dự án xây dựng đường ống dẫn nước được lên kế hoạch từ lâu dẫn từ sông Litani của Thổ Khĩ Kỳ và sông Libăng.

Tuy vậy, trong hai thập kỷ qua, các tầng ngậm nước nội địa và duyên hải đang nhanh chóng biến mất và biểu mực nước vùng duyên hải giảm, đặc biệt là ở dải Gaza, nước ngày càng mặn một cách đáng sợ. Israel ngày càng phụ thuộc vào nước từ tầng ngậm nước nội địa, toạ lạc chủ yếu bên dưới khu vực Bờ Tây (bản đồ 6). Thậm chí trước tháng 6 năm 1967, 1/4 nguồn nước của Israel được lấy từ các giếng nước và suối trong lãnh thổ Israel (nguồn cung cấp là tầng ngậm nước nội địa); vào thời điểm đó khối lượng nước mà Israel khai thác gấp 10 lần lượng nước mà Palestine sử dụng.

Mâu thuẫn liên quan đến nước đã tăng kịch liệt trong những năm gần đây và trở thành một yếu tố quan trọng trong tranh chấp giữa Israel và Palestine. Sự chiếm đóng Israel sau năm 1967, việc tiến đến tầng ngậm nước của Palestine bị giới hạn bằng cách hạn chế cho phép đào giếng mới. Hơn nữa, nhiều ngôi làng ở Palestine vẫn duy trì không liên kết tới mạng đường ống dẫn nước và phải phụ thuộc hoàn toàn vào giếng nước hay vào việc thu thập lượng nước mưa trong bể chứa nước. Kết quả cuối thập niên 90, người Palestine ở Bờ Tây là một trong những cư dân có tỷ lệ tiêu thụ nước thấp nhất trên thế giới: 20 - 30m3 /người/năm. Việc ngăn chặn đào giếng như vậy đã khiến một lượng nông dân Palestine ở Bờ Tây không làm nông nghiệp nữa. Khi đó, người Israel dùng nhiều nước gấp 5 lần người Palestine, kể cả dân định cư Israel sử dụng nước từ tầng ngậm nước sâu bên trong nội địa, gây phẫn nộ cho người Palestine, nhất là khi những người định cư này được hưởng nhiều ưu đãi. Ở dải Gaza, những người định cư Israel trong thập niên 80 được ghi nhận là có chỉ tiêu dùng nước gấp 2 hay 3 lần người láng giềng Palestine, điều đó dễ hiểu tại sao không đủ nước đáp ứng cho nhu cầu của họ, chẳng hạn trong năm 1986, lượng nước họ dùng vượt quá chỉ tiêu 36%.

Sau năm 2000, nước giống như cây cối, trở thành nguyên nhân chính của cuộc chiến Intifada. Ví dụ, tháng 7 năm 2002, truyền hình Israel tường thuật những vòi nước được mệnh danh là “cướp biển” đang được câu móc vào đường ống dẫn nước thuộc công ty nước Mekorot của Israel theo thỏa thuận giữa Israel và Palestine, cung cấp cho cả vùng định cư Israel và Palestine ở Bờ Tây. Ủy ban nước Israel ước tính trong tháng 7 năm 2002 tổng lượng nước bị người Palestine “trộm” lên tới 10 triệu m3, bằng 1/3 lượng nước Israel cung cấp cho nhà cầm quyền Palestine hàng năm. Tháng 10 năm 2002, Bộ trưởng hạ tầng cơ sở Israel (chịu trách nhiệm về nước) - Effi Eitam, một người ủng hộ phong trào người định cư Do Thái, buộc tội người Palestine vi phạm thỏa thuận về vấn đề nước trên quy mô lớn. Ông tuyên bố họ đang tạo một “Intifada nước” chống lại Israel bằng cách không xây các hệ thống lọc nước với hy vọng làm ô nhiễm nước ngầm của Israel. Ông còn phàn nàn khoảng 250 giếng trái phép đã được khoan trong năm ở các vùng Bờ Tây dưới quyền kiểm soát của Palestine. Đáp lại, ông ra lệnh cho Ủy ban nước quốc gia Israel tạm ngừng việc đào giếng lấy nước của người Palestine ở Bờ Tây.

Tuy nhiên, áp lực từ hai phía khiến họ không thể hợp tác hòa thuận với nhau. Không thể dựng lên bức tường giữa các nguồn nước mà cả Israel và Palestine đều phụ thuộc. Ron Zchung Taig (đại học Tel Aviv) phát biểu một cách thẳng thắn rằng: “Chất thải của họ chảy vào nước ngầm; chất thải của chúng tôi chảy vào biển của họ”. Năm 2000, Dalia Itzik (sau là Bộ trưởng môi trường Israel) thừa nhận 40% nước được dẫn bằng ống tới Israel và Palestine là “không thể uống”. Bà nói rằng tình huống này là “tai ương”. Để cố gắng giải quyết vấn đề ngay lập tức, Uỷ ban nước Israel đã đóng cửa một số giếng và phục hồi các nguồn nước khác bằng cách lắp đặt các nhà máy khử muối và lọc nước.

Cả người Israel và Palestine đều nhận thấy về lâu dài họ cần phải liên kết với nhau, cùng ngồi lại tìm giải pháp cho vấn đề muôn thuở của vùng sa mạc khô cằn đó là nước. Ủy ban gồm các chuyên gia thủy học hợp tác giữa Israel và Palestine đã có một báo cáo năm 1999 như sau:

Trái với phần nước trên bề mặt, việc chia nước tầng ngầm là việc rất khó khăn... hơn nữa, các tầng ngầm dễ bị ô nhiễm từ các hoạt động quản lý kém của con người và dễ khử muối nếu chúng được bơm lên trên. Trường hợp nào cũng vậy, một khi tác hại xấu đến tầng ngầm nước thì sức chứa sẽ giảm. Những yếu tố này khiến cho ngành thủy học của Israel và Palestine phụ thuộc chặt chẽ nhau. Vì vậy, nếu một trong hai bên không chịu hợp tác với nhau sẽ không thể thành công và chắc chắn dẫn tới những mâu thuẫn trong tương lai.

Do đó, các chuyên gia kết luận:

Khi cả hai bên đều không thể quản lý nguồn nước ngầm của mình, thì thiện ý phối hợp từ hai phía là điều cần thiết... Nếu không thực hiện tốt điều này thì chính các thế hệ sau của cả Israel và Palestine sẽ phải gánh chịu hậu quả nặng nề. Vì vậy, cả hai bên bắt buộc phải đưa ra quyết định cuối cùng. Nghĩa là cả hai phía đều phải nỗ lực để đạt được thỏa hiệp dùng chung nước.

Trong các cuộc đàm phán với Israel vào thập niên 90, người Palestine phẫn nộ vì Israel đang chiếm đoạt nguồn nước của Palestine, đó là tầng ngầm nước ở sâu trong nội địa. Mặt khác, vì hầu hết việc khai thác nguồn nước của Israel xảy ra trong lãnh địa Israel cai trị nên họ không thể ngăn việc này lại. Tuy nhiên sự kiểm soát phần lớn Bờ Tây của nhà cầm quyền Palestine lần đầu tiên từ năm 1967 đã mở ra viễn cảnh khai thác nước gia tăng trong tầng nước ngầm một cách tự do mà không bị Israel kiểm soát. Điều này về lâu dài có thể dẫn đến việc rút quá nhiều nước, điều đó tất nhiên sẽ làm tổn hại đến cả hai bên. Căn cứ vào việc Israel phụ thuộc vào tầng nước ngầm sâu trong nội địa (khoảng 1/4 nguồn cung cấp nước quốc gia) mà người Palestine lần đầu tiên có thể đàm phán trên thế mạnh về vấn đề nan giải này.

Thỏa thuận tạm thời giữa Israel và Palestine ngày 28 tháng 9 năm 1995 - “Oslo II” đặt ra một cơ sở thỏa thuận hợp tác và đàm phán xa hơn về nước. Nó mở ra một tuyên bố có tính nguyên tắc “Israel nhận diện các quyền lợi về nước ở Bờ Tây”. Israel chuyển quyền quản lý nước và nước thải trong các khu vực mà họ kiểm soát cho nhà cầm quyền Palestine. Cả hai bên đồng ý hợp tác quản lý các nguồn nước và nước thải. Một ủy ban nước chung như “Các nhóm giám sát và bắt buộc thi hành chung” được thiết lập nhằm giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến nước và nước thải ở Bờ Tây.

Trong suốt cuộc chiến Intifada thứ hai, hầu hết các thỏa thuận hợp tác giữa Palestine và Israel sụp đổ vì tình trạng căng thẳng đối đầu vũ trang. Tuy nhiên nước không trở thành nguyên nhân chính. Điều khoản Oslo II về nước vẫn tiếp tục có hiệu lực. Ngày 31 tháng 1 năm 2001 Israel và nhà cầm quyền Palestine đã ký một tuyên bố chung:

Hai bên mong muốn cơ sở hạ tầng nước và nước thải giữa Israel và Palestine gắn bó mật thiết với nhau, nhằm mục đích phục vụ cho nhân dân hai nước. Bất kể sự thiệt hại nào đối với những hệ thống như vậy sẽ làm tổn hại cho cả người Palestine và người Do Thái... Chúng tôi kêu gọi cộng đồng không làm tổn hại đến nước bằng bất cứ giá nào và các đội nhóm chuyên nghiệp thực hiện việc duy trì thường xuyên hay sửa chữa thiệt hại cũng như sự cố đối với nước và nước thải.

Ban đại diện kỹ thuật chung Israel - Palestine về nước và nước thải, trong đó Mỹ cũng tham gia, tiếp tục hoạt động xuyên suốt cuộc chiến tranh Intifada. Trong quá trình Israel tấn công Bờ Tây vào mùa xuân và mùa hè năm 2002, thỉnh thoảng Israel cắt giảm hay đóng nguồn nước cung cấp cho các thị trấn của Palestine. Hoạt động quân sự thường ngăn cản hay trì hoãn việc sửa chữa các trạm bơm, hay đường ống dẫn nước bị hư. Tuy nhiên, tháng 8 năm 2002 Bộ ngoại giao Israel nhận định cuộc đối thoại với Palestine về các vấn đề môi trường như chất thải độc hại xử lý chất thải và kiểm soát các loài gây hại vào mỗi ngày là “rất tốt”. Mặc dù Bộ này cho biết thêm vào đó là “hoạt động dài hạn” và đang “thiếu hoàn toàn”.

Từ đó có thể rút ra kết luận cuộc chiến nước là một vấn đề quá nguy hiểm cho cả hai phía, cuối cùng cả hai đều không đạt được thắng lợi gì, vì đây là chuyện “không có kẻ thắng, chỉ có người thua”. Thay vào đó dù muốn hay không thì cả hai sẽ phải quyết định hợp tác với nhau. Hoặc Ban đại diện chung gồm các chuyên gia về nước kết luận năm 1999 rằng: “Về vấn đề nước của Israel và Palestine có thể xem như hai anh em sinh đôi người Xiêm (Thái Lan), hai thực thể cùng chia sẻ nguồn nước sống còn”. Có thể kết luận rằng cả Israel và Palestine đều phụ thuộc lẫn nhau.