Lãnh thổ
Biên giới của một nước do chính con người định ra, chứ không phải do bất kỳ một thế lực nào khác ngoài con người. Các biên giới được gọi là “tự nhiên” thực ra là do con người giả định về các đặc trưng địa lý. Thậm chí các đảo quốc như Ireland và Nhật cũng gặp khó khăn trong việc đảm bảo sự thừa nhận của thế giới về lãnh thổ của họ. Như nước Cộng hoà Ireland đã phát hiện ra Bắc Ireland và Nhật phát hiện quần đảo Sakhalin. Dãy Himalaya là “bức tường” vững chắc nhất giữa hai quốc gia Trung Quốc và Ấn Độ đồng thời cũng là đường biên giới tự nhiên của hai nước này. Năm 1975, Iran và Iraq ký một hiệp ước công nhận dòng Shatt al - “Arab là biên giới chung giữa họ. Tuy nhiên những tranh chấp về vị trí chính xác của nó vẫn xảy ra, tạo nên sự bùng nổ chiến tranh giữa hai nước vào năm 1980.
Từ xưa đến nay, thậm chí đến đầu thế kỷ XX, Palestine vẫn chỉ được xem như một thực thể chính trị, một đơn vị hành chính, nó không tồn tại trước khi người Anh đến đây vào cuối cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Dưới sự lãnh đạo của Thổ Nhĩ Kỳ từ 1516 tới 1917/1918, vùng đất thánh này bị chia cắt thành một số quận hành chính (bản đồ 7). Quá trình hình thành biên giới của Palestine sau chiến tranh thế giới thứ nhất tạo nên câu chuyện thần thoại của chủ nghĩa dân tộc (bản đồ 8). Nói chung giai đoạn 1921 - 1922, Anh chia cắt Palestine trong đó có Transjordan, do đó Bản tuyên ngôn Balfour chỉ ứng dụng 22% phạm vi ban đầu của nó. Chẳng hạn “năm 1922 nước Anh đơn phương chia cắt 78% đất nước Palestine một cách bất hợp pháp, trao toàn bộ khu vực phía Đông sông Jordan cho Abdullahm” (con trai của Sharif Husayn và thánh địa Mecca). Vì 78% vùng đất “Palestine lịch sử” bị cướp đi một cách bất hợp pháp theo đề xuất chia cắt năm 1922 nên đương nhiên không thể đòi hỏi điều gì từ 22% còn lại của họ. Những cuộc tranh luận và con số phần trăm như thế có một sự cuốn hút đối với giới truyền tin. Nhìn chung, những người theo chủ nghĩa dân tộc Palestine tranh luận rằng 78% vùng đất Palestine thuộc địa (phía Tây sông Jordan) bị Israel chiếm đoạt bất hợp pháp trong cuộc chiến tranh 1947 - 1948 và do đó họ không nên đòi hỏi gì thêm nữa từ 22% còn lại ”. Vào lần gặp cuối trong cuộc họp thượng đỉnh tại trại David năm 2000, ông Ya Arafat nói với tổng thống Clinton rằng: “Israel đang giúp chúng tôi, nhưng thực ra họ chỉ là những kẻ chiếm đóng. Họ không phóng khoáng, những thứ họ cho chúng tôi không phải lấy ra từ túi họ mà là từ chính đất nước của chúng tôi. Tôi chỉ yêu cầu thực hiện nghị quyết 242 của Liên hiệp quốc. Tôi chỉ đang nói về 22% còn lại của Palestine, thưa tổng thống”.
..
.
Phải chăng Palestine đã bị chia cắt vào năm 1921 - 1922? Bản tuyên ngôn Balfour ngày 2 tháng 11 năm 1917 chỉ Palestine nhưng không định nghĩa rõ ràng biên giới của nó. Khi người Anh chiếm đóng Palestine trong 11 tháng sau đó, họ liền thiết lập một chế độ chiếm đóng quân sự trong toàn vùng Levant, chia Palestine thành ba phần: Phía Bắc lãnh thổ (OETA), Beirut, vùng đất Libăng ngày nay, được đặt dưới sự cai trị của quân đội Pháp; phía Đông OETA, bao gồm các quận Damascus và Hauran, tức Syria ngày nay, được đặt dưới quyền cai trị của Arab do Tiểu vương xứ Arab là Faisal đứng đầu và phía Nam OETA, đặt dưới sự cai trị trực tiếp của quân đội Anh.
Mãi tới năm 1923, khi hội nghị Anh - Pháp giải quyết vấn đề biên giới phía Bắc Palestine và hiệp ước hòa bình cuối cùng được ký với Thổ Nhĩ Kỳ, thì vấn đề về biên giới phía Đông và phía Bắc trong tương lai của Palestine và “ngôi nhà” Do Thái vẫn bị bỏ ngỏ. (Biên giới Ai Cập - Palestine đã được thỏa thuận trong chiến tranh thế giới thứ nhất). Tại hội nghị hòa bình Paris năm 1919, những người theo chủ nghĩa Xion nhấn mạnh đến sông Jordan ở nam Libăng. Họ cũng thúc giục rằng biên giới phía Đông của Palestine được thiết lập tại phía Đông dòng sông bao gồm dải lãnh thổ rộng 25 dặm ở Transjordan. Đề xuất này của Xion nhận được sự ủng hộ từ Cao ủy Anh Herbert Samuel, lúc này có mối quan hệ mật thiết với tổ chức Xion. Trong một lá thư gửi cho cơ quan ngoại giao tháng 6 năm 1919, ông nêu bật trọng tâm “Đối với việc duy trì đủ số dân ở Palestine nhằm hỗ trợ cho cơ cấu của một nhà nước hiện đại thì việc đề nghị vùng lãnh thổ phì nhiêu phía Đông Jordan nằm trong phạm vi biên giới là điều cần thiết”. Người Xion đã nhận được sự hỗ trợ này, chẳng hạn Bản tuyên ngôn Balfour viết như sau:
Trong việc xác định biên giới của Palestine, vấn đề chính cần lưu ý là thực hiện chính sách của chủ nghĩa Xion bằng cách tạo điều kiện thuận lợi nhằm phát triển kinh tế ở Palestine. Do đó, nên cấp quyền sử dụng nước cho khu vực biên giới phía Bắc Palestine, nên phụ thuộc Palestine về mặt địa lý chứ không nên phụ thuộc vào Syria; trong khi đó phải tạo điều kiện phát triển nông nghiệp ở vùng biên giới phía Đông - Bờ trái sông Jordan, nhất quán với việc để ngành đường sắt Hedjaz (chạy từ Bắc - Nam, khoảng 30 dặm về phía Đông của Jordan) thuộc hoàn toàn quyền sở hữu của người Arab.
Tuy nhận sự ủng hộ mạnh mẽ, nhưng không có quyết định nào về vấn đề này được thực hiện tại giai đoạn đó.
Vào tháng 4 năm 1920, khi hội nghị San Remo trao cho Anh quyền cai trị Palestine, thì vấn đề biên giới được đặt ra trong các buổi thảo luận giữa các thành viên của Hội đồng tối cao (gồm các đại biểu đến từ nước Mỹ, Anh, Pháp, Ý và Nhật). Anh và Pháp tranh luận vấn đề này khá gay gắt. Thủ tướng Anh David Lloyd George hướng dẫn các đại biểu nên tham khảo một cuốn sách mà theo ông là “cuốn sách hay viết về Palestine”, đó là cuốn “Địa lý lịch sử vùng đất thánh” của tác giả George Adam Smith. Trong một bức điện tín gửi cho Văn phòng Bộ ngoại giao đã tóm tắt kết luận của hội nghị, trong đó Bộ trưởng Bộ ngoại giao Lord Curzon cho rằng “Biên giới sẽ không được xác định trong Hiệp ước hòa bình, nhưng được xác định sau nhờ vào quyền liên minh”. Khi Samuel lập chính phủ thuộc địa dân quyền vào giữa thập niên 20, ông được hướng dẫn rõ ràng rằng quyền hành pháp của ông không áp dụng lên vùng Transjordan. Sau khi Pháp chiếm đóng Damascuc vào tháng 7 năm 1920, Pháp hành động theo các thỏa thuận thời chiến của họ với Anh, tự kiềm chế không mở rộng quyền cai trị của họ hướng về phía Nam vào Transjordan. Mùa thu năm đó, một người anh của Tiểu vương xứ Arab Faisal là Abdullah, dẫn một nhóm người có vũ trang hướng về phía Bắc từ Hedjaz vào Transjordan và đe dọa tấn công Syria xác nhận quyền thống trị Hashemite. Samuel chộp lấy cơ hội này yêu cầu cho Anh quyền kiểm soát và ông đã thành công. Tháng 3 năm 1921, Bộ trưởng phụ trách vấn đề thuộc địa Winston Churchill viếng thăm khu vực Trung Đông và thu xếp về vấn đề Transjordan, nhờ đó Transjordan được tính cả vào lãnh thổ Palestine và trở thành thuộc địa của Anh, trong đó Abdullah là Tiểu vương xứ Arab dưới quyền của Cao ủy.
Vì vậy, Palestine không bị chia cắt trong năm 1921 - 1922. Transjordan là một phần của khu vực thuộc địa. Chủ nghĩa Xion bị ngăn cản việc mở rộng ở đó, nhưng Bản tuyên ngôn Balfour chưa bao giờ được áp dụng rõ ràng vào khu vực phía Đông Jordan. Tại sao điều này lại quan trọng? Vì thần thoại “sự chia cắt đầu tiên” của Palestine đã trở thành một phần của khái niệm “Israel vĩ đại hơn” và hệ tư tưởng của phong trào Xion - Chủ nghĩa xét lại của Jabotinsky. Một thời giaa dài sau khi Israel thành lập, những kẻ thừa kế chính trị của chủ nghĩa xét lại là đảng Herut do Menahem Begin dẫn dắt, vẫn mơ về một nhà nước Do Thái có cả Transjordan. Mục tiêu theo đuổi của họ là “Jordan có hai bờ: Bờ bên này thuộc về chúng ta và bờ bên kia cũng vậy”. Hầu hết người theo chủ nghĩa xét lại quên rằng Jabotinsky - Người anh hùng trong tư tưởng của họ, một thành viên của ngành hành pháp của chủ nghĩa Xion, đã chứng thực năm 1922 rằng cấm việc định cư của người Do Thái ở Transjordan. Gần đây, những người ủng hộ sự sát nhập Bờ Tây của Israel đã đòi hỏi rằng ngôi nhà thích hợp của người Arab Palestine là ở Transjordan, do đó mới có khẩu ngữ “Jordan là Palestine”.
Khái niệm chia cắt không gây bất ngờ khi tổng thống George W. Bush bắt đầu nói về giải pháp “hai nhà nước” trong năm 2002, vì nghị quyết 29 của Đại hội đồng Liên hiệp quôc tháng 11 năm 1947 và báo cáo của Uỷ ban Hoàng gia Anh năm 1937 đã từng đề cập. Nó không chỉ đơn thuần là sản phẩm của ngoại giao hay chiến tranh.
Nguồn gốc chia cắt nằm ở thất bại của Herbert Samuel vào đầu thập niên 20 khi ông muốn tạo ra cộng đồng chính trị thống nhất ở Palestine bao gồm cả người Palestine, Do Thái và Arab. Ông nỗ lực xây dựng một chính thể lập hiến với các thể chế chính trị, cụ thể là Hội đồng lập pháp mở đường cho faute de mieux (quá trình chia cắt thể chế nội bộ), không may là những nỗ lực đó đã gặp phải thất bại cay đắng. Jewish Agency. Một cái dù che chở của tổ chức Xion, được thành lập để đại diện cho người Do Thái và tiến hành công việc kiểm soát tự động ngày càng tăng đối với Yishuv. Hội đồng Hồi giáo tối cao do giáo sĩ Hồi giáo của Jerusalem là Hajj Amin al - Husayni đứng đầu, thực hiện vai trò tương tự như vis - à - vis trong đạo Hồi. Dần dần, trong suốt thập niên 20 và đầu thập niên 30, hai cơ quan này phát triển gần giống như cơ quan chính phủ của người Do Thái và Arab ở Palestine. Do đó, trước khi có việc chia cắt lãnh thổ xảy ra, chính quyền thuộc địa đã áp dụng chính sách thể chế hoá phân chia kinh tế và xã hội giữa Arab và Do Thái.
Sự chia cắt thể chế này là lý lẽ bào chữa cho sự chia cắt địa lý do Ủy ban Hoàng gia Anh đề xuất năm 1937 như sau: chia cắt đất nước Palestine thành nhà nước Do Thái nhỏ, một nhà nước Arab lớn hơn liên kết với Transjordan và một khu vực thuộc địa Anh kéo dài từ Jerusalem tới biển, kể cả Lydda và Ramleh, cũng như Nazareth, biển Galilee, Tiberias, Safed, Haifa và Acre (bản đồ 9). Tuy nhiên những người theo chủ nghĩa dân tộc cự tuyệt sự chia cắt này. Còn về chủ nghĩa Xion, nó bị phản đối nghiêm trọng bởi phong trào của chủ nghĩa xét lại, bởi Mizrahi (người theo chủ nghĩa Xion tôn giáo), bởi một số người theo chủ nghĩa Xion tổng quát (những người theo Weizmann) và bởi các thành phần của phong trào chủ nghĩa Xion lao động (vượt trội ở Yishuv). Hai nhân vật quan trọng trong phong trào là Weizmann và Ben - Gurion và cuối cùng là đại đa số quốc hội Xion yêu cầu mở rộng khu vực nhà nước Do Thái.
.