- 4 - Cuộc chiến Trăm Năm
Nghi thức chuyển giai đoạn sang tuổi trưởng thành cho hầu hết trẻ trai Israel chỉ mất vài giờ. Nó bắt đầu bằng cuộc chia tay đẫm lệ với cha mẹ và kết thúc bằng việc chúng ngồi ở một căn cứ quân sự bên ngoài Tel Aviv mà lòng khá hoang mang. Sau đó chúng trở thành những người lính trong Lực lượng Phòng thủ Israel hùng mạnh, lá chắn của nhà nước Do Thái, đội quân dũng mãnh nhất của khu vực.
Đó cũng là cái giá để được thừa nhận là có quyền công dân Israel. Con đường gia nhập binh nghiệp khởi đầu ở Bakum, "Căn cứ Nhập trại và Bổ dụng." Gánh nặng được đặt trên vai các thanh thiếu niên; họ được bảo cho biết về sự tồn tại của đất nước khi đối mặt với các kẻ thù ngoan cố. Không như phần lớn quốc gia châu Âu, nơi những người thi hành nghĩa vụ quân sự chỉ như trò đùa, nhiều chàng trai Israel đi vào vùng lửa đạn thực sự và một số sẽ hy sinh.
Ở một trung tâm tiếp nhận gần Bakum, tôi thấy gương mặt của các chàng trai có khi đầy kích động trước sự việc bất ngờ, có khi bịn rịn trước cha mẹ. Một số ra chiều tự hào nhưng cũng có những chàng tỏ ra rầu rĩ. Một số còn có bạn gái đưa tiễn. Những kẻ được gọi mà không tới sẽ bị cảnh sát lùng sục. Họ chẳng thể ở nhà và chẳng thể làm ăn được.
Sau buổi tiễn, các chàng trai được tập họp lại để đợi xe đưa đi. Vài phút sau, xe chuyển bánh và các thân nhân lê bước ra về. Những ông bố cố ngăn dòng lệ, còn những bà mẹ khóc nức nở. Họ đếm từng ngày kể từ lúc con họ lên đường phục vụ.
Binyamin Itzik từ Yemen cùng cha mẹ tới Israel khi còn là đứa trẻ hồi năm 1922. Ông ta vừa tiễn đứa con trai thứ hai của ông, Ori. Ông nói, "Cha mẹ tôi đã chiến đấu năm 1948 và họ nghĩ đấy là cuộc chiến cuối cùng. Tôi chiến đấu năm 1967 và cũng nghĩ đấy là cuộc chiến cuối cùng. Chúng ta phải thấy những gì sẽ xảy ra".
Một bà mẹ, Pnina Tzur, đi tiễn con trai của bà là Assaf, còn đang bồi hồi. Bà nói: "Nó được sinh ra lúc ký hòa ước với Ai Cập. Tôi những tưởng rằng đến năm nó 18 tuổi nó không còn phải đi lính. Một phần đời ở Israel là để tiễn con cái. Đó là chuyện khó nhưng tôi chấp nhận".
Ngay chính ở Bakum có khi người lính đã phải sẵn sàng chết. Những người lính được chụp răng hàm trên và hàm dưới, lăn dấu mười ngón tay, thông tin quan trọng để nhận dạng thân thể họ nếu họ bị chết.
Dưới hệ thống cưỡng bách tòng quân dài của Israel (ít nhất là ba năm) và quân dự bị (hàng năm phục vụ trong các đơn vị chiến dấu trên hai tháng). Một quốc gia với năm triệu dân mà đã có tới khoảng nửa triệu lính, mạnh hơn cả quân lực của phần lớn quốc gia châu Âu. Nguyên tham mưu trưởng Yigael Yadin nói: "Mỗi công dân Israel là một người lính hàng năm lên đường mười một tháng".
Tầm nhìn của Israel trong việc tuyển quân để bảo vệ đất nước của họ sau này đã thay đổi, giữa bằng chứng về sự sa sút đạo đức và gia tăng các vụ việc của người Israel, cả trẻ lẫn già né tránh nghĩa vụ quân sự. Nhưng cả trong thời đại tan vỡ ảo mộng, quân đội vẫn là thể chế quan trọng nhất trong đời sống của Israel. Nó thấm vào mọi góc của xã hội. Theo nhiều cách, nó là nhà nước trong nhà nước, một lực lượng được giao phó không chỉ việc bảo vệ tổ quốc mà cả việc xây dựng nữa. Quân đội của nó được cho là lò đúc các cộng đồng di dân khác nhau, nơi mà ở đó người Nga hay người Maroc trở thành người Israel; một nơi rất bình đẳng về mặt xã hội ở đó các giáo sư là những lính dự bị và tuân lệnh các sinh viên của họ. Trong những năm đầu, quân đội thiết lập các khu định cư, làm đường, giúp dân thu hoạch và dạy các di dân tiếng Hebrew. Đài tiếng nói quân đội được nhiều người đón nghe hơn đài tiếng nói quốc gia.
Các sĩ quan và binh lính cùng trải qua việc huấn luyện cơ bản, và việc thăng cấp được quyết định dựa trên sự thực hiện nhiệm vụ và sự đánh giá của những người lính khác. Tình bằng hữu được rèn đúc trong quân đội có thể kéo dài suốt đời. Được phục vụ trong những đơn vị ưu tú như không quân hay đặc công (sayeret matkal) là một lợi thế trong cuộc sống sau này. Đối với nhiều tân binh, việc chọn làm gì trong quân đội được cân nhắc cẩn thận như việc học. Câu hỏi mà phần lớn người trẻ đi tìm việc được hỏi là: "Anh đã làm gì trong quân đội?"
Lực lượng Phòng thủ Israel là một quân đội trẻ. Thập niên 1950, Dayan làm Tham mưu trưởng ở tuổi 38 và Yadin được giao công việc ấy lúc mới 32 tuổi, nhưng những thập niên gần đây tuổi để gánh vác công việc ấy phải khoảng 50.
Trên danh nghĩa, phụ nữ phục vụ trong quân đội 21 tháng, nhưng trên thực tế số lớn phụ nữ được miễn và thường được giải ngũ sớm. Ai cũng biết hình ảnh các phụ nữ phục vụ trong các chiến hào hồi năm 1948 và thường bắt gặp các phụ nữ đeo súng sau lưng, song việc đi lính vẫn là công việc của đàn ông.
Những thập niên chết chóc, thiếu thốn, và hy sinh đã biến Isarel thành xã hội đại trượng phu nhưng thường khắc nghiệt. Nhưng những thương vong quân sự liên miên ấy không làm chai cứng người Israel. Có gần 1.000 đài kỷ chiến tranh ở Israel, lớn và nhỏ, làm bằng đá hay kim loại lởm chởm, mang tính khoa trương hoặc khiêm tốn. Israel là một quốc gia nhỏ và nhà nào cũng có người hy sinh.
Tuy nhiên, giữa cuộc chè chén say sưa, người ta vẫn cảm thấy lơ lửng nỗi sợ bị tràn ngập trong biển Ả Rập. Hàng năm vào ngày Độc lập, báo chí cho đăng những con số về nhân khẩu như thể loại báo cáo thành tích. Liệu sự gia tăng dân Israel có đủ nhanh để bắt kịp với người Ả Rập không? Sự di dân tăng hay giảm? Tháng Tư 1999 số liệu thống kê quan trọng cho thấy là: Dân số Israel là 6,1 triệu gồm 4,8 triệu người Do Thái và 1,3 triệu không phải Do Thái (không tính những người Palestine ở Bờ Tây và Dải Gaza). Số liệu này thể hiện sự gia tăng là 2,3 phần trăm so với năm trước. Israel hiện có 36 phần trăm trên tổng số 13,1 triệu người Do Thái trên thế giới, tăng hơn năm 1948 sáu lần. Có trên 250 triệu người Ả Rập.
Theodor Herzl tin rằng dứt khoát nước Do Thái sẽ làm dịu sự áp bức người Do Thái, chữa lành chủ nghĩa bài Semite của những kẻ áp bức không phải Do Thái, và làm trẻ lại vùng Levant. Nếu được vậy Israel cần ít lực lượng vũ trang.
Trong cuốn Nhà Nước Do Thái, Herzl viết rằng chính thể sẽ là trung lập, mặc dù quân đội của nó sẽ được trang bị theo "từng yêu cầu của chiến tranh hiện đại." Trong ký sự của ông, ông mơ màng về lễ phục của kỵ binh Do Thái tương lai hơn là những trận đánh mà nó phải chiến đấu. Và trong cuốn Vùng Đất Tân Cựu, nhìn chung Herzl đã gạt bỏ quân đội. Các thành viên của Xã hội Mới chỉ bị yêu cầu phục vụ trong quân đội hai năm, và những hoạt động có vẻ quân sự nhất là "điền kinh và các câu lạc bộ bắn súng".
Trên thực tế, Israel chưa có một ngày hòa bình mà thực sự sống trong tình trạng khẩn cấp từ khi lập quốc. Quân đội đã trở thành thể chế cao nhất của quốc gia, hiện thân tinh hoa của các giá trị Israel. Đối với David Ben-Gurion, nó là "biểu hiện duy nhất thuộc tính cách Israel của chúng tôi". Đất nước vẫn tự hào là quốc gia có các chiến binh không thua kém ai trên thế giới. Amos Oz gọi người Israel là chủng tộc "Cossack bị cắt bì."
Israel đứng trong hàng các nước xuất khẩu binh sĩ quốc tế đứng đầu, và các cựu quân nhân của nó được thế giới thiết tha thuê làm vệ sĩ, cố vấn quân sự. Những cái áo phông đang bán ở các cửa hàng lưu niệm tại Jerusalem trong cổ Thành được in hình chiếc chiến đấu cơ F-16 với hàng chữ: "Nước Mỹ đừng lo. Israel đứng sau các bạn."
Ben-Gurion thích nói rằng các phép lạ là một phần của việc lập kế hoạch của chính phủ ở Israel. Ông ta thỏa chí với câu chuyện đùa về hai bộ trưởng Israel đang bàn cãi các vấn đề ngân sách quốc gia. Một ông bảo: "Chúng ta phải tuyên chiến với Hoa Kỳ". Ông kia nhìn sửng sốt. Ông thứ nhất giải thích: "Đúng thế đấy. Sau khi chúng ta mất người Mỹ sẽ tiêu hàng tỉ để phục hồi chúng ta như họ đã làm với Đức và Nhật". Ông bộ trưởng thứ hai lắc đầu và hỏi: "Nhưng nếu chúng ta thắng thì sao?"
Năm 1907, với đợt Aluyah thứ Hai, người Do Thái ở Israel hình thành nhóm tự vệ bí mật để đẩy lùi số cuộc tấn công các cộng đồng Do Thái đang tăng lên. Nó xưng tên là Bar-Giora, theo tên của một lãnh tụ của cuộc Đại Khởi nghĩa chống lại người Roma, và theo câu phương châm: "Trong máu lửa Judah đã sụp để; trong máu lửa Judah sẽ trỗi dậy". Các thành viên của nó tin rằng những người Do Thái mới sẽ không chỉ giành đất mồ hôi và nước mắt, mà còn bảo vệ tài sản của họ cho chính họ. Chúng ta sẽ không còn thuê người Ả Rập và Circassia làm người canh gác.
Nhóm này phát triển và đổi tên là Nhóm Bảo vệ (Ha- Shomer). Các thành viên của nhóm lúc phôi thai đã cắt giảm những kẻ xa lạ. Họ bắt chước quần áo phương đông và bộ dạng của chính người Ả Rập và Circassia, những người mà họ tìm cách thế chỗ, cũng áo thụng dài, khăn trùm đầu, và những con dao quắm, dây đạn đeo ngang ngực và trở thành những người cưỡi ngựa giỏi. Họ cũng có cả phụ nữ. Trong ba năm, Ha- Shomer giành bảo vệ bảy khu kiều dân, kể cả Rishson Le-Zion.
Isarel là sản phẩm của chiến tranh. Trong Thế chiến I, Thổ Nhĩ Kỳ tự liên minh với Đức và đế chế Áo-Hung-một canh bạc rủi ro đã đẩy nhanh sự chia cắt "Con người Bệnh hoạn của châu Âu." Trong việc chia cắt đế chế này, Anh lấy dải lãnh thổ từ Jaffa tới Baghdad và tạo ra các biên giới của thực thể hiện tại được gọi là Palestine.
Ngày 2 tháng Mười Một 1917, cùng với quân Anh tiến từ Ai Cập vào phía nam Palestine, Bộ trưởng Ngoại giao Arthur James Balfour đã viết bức thư ngắn nhưng quan trọng cho Tướng công Rothschild, con cháu của dân Do Thái ở Anh. Tuyên ngôn Balfour viết:
Chính phủ của Bệ hạ muốn thiết lập ở Palestine một quốc gia cho người Do Thái, và sẽ hết sức nỗ lực tạo thuận lợi để đạt dự án này, nó được hiểu rõ ràng rằng không có gì được thực hiện để có thể gây tổn hại quyền công dân và tôn giáo của các cộng đồng không phải Do Thái ở Palestine, hay các quyền và tình trạng chính trị mà người Do Thái ở bất kỳ nước nào khác được hưởng.
Một tháng sau, tướng Edmund Allenby vào Jerusalem, không đi ngựa mà đi bộ, giống như khách hành hương. Một khách qua đường người Do Thái nghĩ ông ta trông giống Đấng Cứu thế.
"Một vẻ đẹp khủng khiếp được sinh ra", W.B. Yeat thuộc cuộc Khởi nghĩa Phục sinh của Ireland năm 1906 nói. Một năm sau, ở Palestine, một vẻ đẹp khủng khiếp khác đang được tạo thành.
Tuyên ngôn Balfour và một tuyên bố mơ hồ có chủ tâm. Các biên giới "quốc gia" sẽ thế nào? Nó có là quốc gia khi người trong phong trào Phục quốc Do Thái lần đầu tiên hiểu ra từ đó? Và việc bảo vệ quyền công dân và tôn giáo của các cộng đồng không phải Do Thái được hòa hợp với nó như thế nào?
Truyền thuyết dân chúng nói rằng Tuyên ngôn là phần thưởng của Lloyd George cho lãnh đạo phong trào Phục quốc Do Thái là Chaim Weizmann, nhà hóa học chuyên nghiệp, vì sự giúp đỡ của ông ta để phát minh một phương pháp mới sản xuất Acetone, dung dịch quan trọng để sản xuất đạn được đang khan hiếm trong những năm đầu của cuộc chiến. Weizmann quả là có những người bạn quyền thế, nhưng nước Anh bị thúc đẩy bởi những quan tâm phức tạp. Chúng bao gồm nhu cầu bảo vệ Kênh Suez và mong muốn bảo đảm an toàn vùng đất dẫn vào Ấn Độ; nỗ lực khai thác sức mạnh được cho là của dân Do Thái trên thế giới cho sự nghiệp Liên minh; thanh thế của việc trở lại vùng Đất Thánh của Anh hơn sáu thế kỷ sau khi những cuộc Thập tự chinh cuối cùng đã bị đánh bật khỏi Acre và nhất là cách thức của Anh về chủ nghĩa Phục quốc không phải Do Thái được tin rằng sự trở về của người Do Thái tới Palestine sẽ báo trước sự trở lại của Jesus. Sau này, chính sách của Anh ở Trung Đông sẽ được đối trọng bằng sự hé mở nhận thức về tầm quan trọng của dầu mỏ ở các quốc gia Ả Rập, nhất là sau khi Winston Churchill biến đổi hải quân từ việc dùng than đá sang dùng dầu năm 1911.
Với sự có mặt của Anh, những nhóm bảo vệ Ha-Shomer trước chiến tranh bị giải tán, và được thay bằng lực lượng dân quân đông hơn được gọi là Hagana, dưới sự chỉ huy của liên đoàn thống nhất thương mại Histadrut được sao y loại chính phủ Do Thái. Lực lượng dân quân là tiền thân trực tiếp của quân đội Israel, và những người thành lập nó gồm các thành viên của Đạo quân Do Thái, một đơn vị của quân đội Anh.
Biểu tượng của Lực lượng Bảo vệ Israel là thanh gươm với cành Ôliu ghép đôi quanh nó. Nhưng Israel, được khai sinh trong lò lửa chiến tranh năm 1948, đã sống bằng thanh gươm suốt từ đó. Cành ôliu đã văng mất vài lá mà không căn nguyên. Những xung đột của Israel-Cuộc chiến năm 1948 giành độc lập, Chiến dịch Sinai năm 1956, Cuộc chiến Sáu Ngày năm 1967, Cuộc chiến Yom Kippur năm 1973, cuộc xâm lăng Lebanon năm 1982, Cuộc nổi dậy (Intifada) của người Palestine, Cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1991, và Cuộc nổi dậy của người Palestine lần thứ hai năm 2000-là những cột mốc quan trọng trong lịch sử của nó.
Israel dẫn dắt sự tồn tại của cách cư xử kỳ quặc. Nó sống ở các thế giới song song, như Jerusalem dưới đất và trên trời của các hiền triết Do Thái. Nó vừa là nạn nhân vừa là kẻ gây sự người thua thiệt và kẻ bắt nạt, hết sức bấp bênh nhưng lại rất kiêu căng, vừa dân chủ vừa xâm phạm nhân quyền. Trong một lúc người Israel có thể lập luận rằng các quốc gia Ả Rập đặt ra sự đe dọa ghê gớm cho Israel, nhưng tiếp sau đó hăm dọa đánh phá tan tành các thủ đô của họ.
Khi Israel đánh nhau với các nước Ả Rập nó tự phô trương là xã hội được khai sáng đấu tranh để tồn tại, "một quốc gia nhỏ trong hàng xóm xấu", nó tự quấn mình trong cái áo choàng của David thời thánh kinh. Nhưng khi Israel quay ra chống người Palestine, nó trở thành Goliath. Hình ảnh sống động nhất của những năm nhất tề nổi dậy của người Palestine hồi năm 1987 và 2000 là cảnh người Palestine dùng ná bắn đá đơn giản phóng vào lính Israel được trang bị vũ khí tự động. Cuộc xung đột Israel-Ả Rập là cuộc đấu tranh của hai thiểu số. Israel được coi là lực lượng nước ngoài trong lòng của thế giới Ả Rập, trong khi người Palestine ở Israel và những vùng lãnh thổ bị chiếm bị đối xử như kẻ thù trong cơ thể của Israel Do Thái. Toàn bộ điều này đã có ảnh hưởng xói mòn lên đạo đức của quân đội, và thế đứng của nó trong xã hội. Một thời được mọi người kính trọng, quân đội đúng là đã trở thành trò cười để phê phán. Còn nữa, nó là một thể chế của Israel để hưởng mức độ đồng thuận trong xã hội tan nát vì những tranh luận ý thức hệ, tôn giáo, và sắc tộc. Đối với mọi người, chủ đề về sự tỉnh ngộ "hậu-Phục quốc" thì người Israel còn ấn tượng bởi, nếu không phải là say mê, sĩ quan cao cấp của quân đội.
Sự chỉ định Tham mưu trưởng được theo sau ngay sau bất kỳ cuộc tranh luận chính trị nào. Các tướng lãnh thường chuyển qua vũ đài chính trị, nơi sự tin cậy về an ninh vẫn là tài sản vô giá. Những tướng lãnh được lòng dân được các đảng phái chính trị ve vãn một cách trơ tráo. Rất nhiều sĩ quan cao cấp được bổ nhiệm vào các công việc trọng yếu của chính phủ sau khi về hưu.
Những cuộc tổng tuyển cử trông như những cuộc đấu tranh của các sĩ quan quân đội. Cuộc tranh cử vào chức thủ tướng hồi tháng Hai 2001, Ariel Sharon, nguyên thiếu tướng được nhiều người ưa nhưng cũng lắm kẻ ghét và là vị bộ trưởng quốc phòng, đánh gục Ehud Barak đương nhiệm, nguyên Tham mưu trưởng. Trong cuộc tuyển cử năm 1999, bốn đảng phái chính trị được bốn nguyên tướng lãnh lãnh đạo. Danh sách các nguyên thủ tướng gồm Yitzhak Rabin đã bị ám sát, nguyên Tham mưu trưởng, và dù không là quân nhân thường trực, hai "người cha chiến đấu" thuộc tổ chức bí mật cánh hữu, Menachem Begin và Yitzhak Shamir.
Trong một quốc gia lắm tướng lãnh nổi tiếng, huênh hoang khoác lác, Moshe Dayan vẫn là người nổi tiếng nhất, có chăng vì miếng băng đen buộc ngang qua mắt trái của ông ta. Những thành công và những thất bại của ông, những lúc ông nhìn xa trông rộng và những lúc thiển cận, tính chất anh hùng quả quyết và tính kiêu căng của ông, tất cả đều phản ảnh những thăng trầm của Israel và quân đội của nó. Tấm băng mắt của ông là ẩn dụ cho Israel. Một mắt đầy khôn ngoan sắc sảo còn mắt kia mù quáng vô vọng.
"Tên tôi Moshe được sinh ra trong đau buồn". Trong tự truyện của ông, Moshe Dayan viết: "Một năm trước nó đã được khắc vào mộ chí hiu quạnh ở khu rừng Ôliu tại Degania, nơi Sông Jordan chảy ra cực nam Biển Galilee. Nó đánh dấu ngôi mộ đầu tiên của khu định cư mới mẻ này [...]".
Dayan được đặt tên theo tên Moshe Barsky, một cư dân 18 tuổi ở Degania, người đã bị Bedouin phục kích hồi tháng Mười Một năm 1913. Ông xông lên chiến đấu và bị bắn sau lưng. Thi thể của ông được tìm thấy với chiếc giày và cây gậy ở trên đầu của ông, những thứ mà các cư dân Do Thái coi là dấu hiệu chủ tâm của sự báo thù, có lẽ ông đã giết hoặc làm bị thương một trong những kẻ tấn công ông. Theo Dayan án mạng không thuộc chính trị, nhưng là việc giành đất. Mãi tới cuối tuổi thiếu niên ông mới hiểu ý nghĩa chính trị của loạt dấy loạn và nổi dậy của Ả Rập vào năm 1920, 1921, 1929, và 1936.
Nước Anh cố làm dịu sự kháng cự của Ả Rập bằng cách giảm tầm tham vọng của phong trào Phục quốc Do Thái. Khởi đầu là việc giới hạn ngay sự di dân của Do Thái và nói rõ là không có chuyện Palestine trở thành "là thuộc người Do Thái như nước Anh là thuộc người Anh." Năm 1921, Anh cắt phần phía đông của Palestine-từ Sông Jordan tới biên giới với Iraq-để tạo lập vùng Transjordan. Những hy vọng của phong trào Phục quốc Do Thái càng thất vọng hơn vì mất sông Litani và Cao nguyên Golan khi biên giới của Palestine bị phân ranh vào đầu thập niên 1920.
Những lời hứa mơ hồ và mâu thuẫn của Anh với các đồng minh khác nhau của nó-Pháp, người Hashemite, và người thuộc phong trào Phục quốc Do Thái-sớm đi đến thất bại. Với sự tán thành của các đồng minh xưa kia của Anh, Hashemite Prince Faisal, người đã lãnh đạo cuộc Nổi dậy Ả Rập chống lại sự cai trị của Thổ Nhĩ Kỳ với sự giúp đỡ của sĩ quan Anh, T.E. Lawrence, bị lực lượng Pháp đẩy lùi khỏi Damacus vào tháng Bảy 1920. Syria và Lebanon được đặt dưới sự ủy trị của Pháp, trong khi Anh được giao quyền cai trị Palestine và Iraq. Faisal được tôn lên làm vua ở Baghdah, còn anh của ông, Abdallah, được tôn lên làm vua ở Transjordan.
Năm 1920, năm cho thấy rằng những hy vọng thống nhất Ả Rập và độc lập mất hiệu lực, được gọi là tai ương (Al-Nakba) [từ mà sau này được dùng để chỉ sự phân tán của người Palestine năm 1948]. Người Palestine, nhiều người đã mơ về một Đại Syria, chuyển sinh lực của họ hướng về cuộc đấu tranh riêng của Palestine. Đó là một phần của làn sóng hỗn loạn hậu chiến trong thế giới Ả Rập rộng lớn hơn, gồm những cuộc nổi dậy ở Ai Cập năm 1919, sự thất bại của người Hashemite ở Ả Rập do những người theo gót khắt khe của Ibn Saud cùng năm đó và cuộc nổi loạn ở Iraq năm 1920.
Những bất an đã sản sinh anh hùng chiến tranh đầu tiên của Israel, Yosef Trumpeldor, người bị giết chết khi bảo vệ khu định cư Tel Hai sát Syria hồi tháng Tư 1920. Mọi trẻ đi học của Isarel đều học những từ cuối sôi nổi của Trumpeldor:
Nào sá gì khi chết cho tổ quốc (Ein davar. Tov lamut be'ad artzenu).
Điểm mà ở đó nỗi oán giận của Ả Rập trước sự xâm phạm của phong trào Phục quốc Do Thái phát triển thành ý thức dân tộc riêng của Palestine là chủ đề của tranh luận sôi nổi của các viện sĩ. Về bản sắc Palestine, viện sĩ Palestine, Rashid Khalidi, trước hết tìm thấy những tia sáng về bản sắc dân tộc nơi các nhân sĩ có học trong thời Ottoman. Ý nghĩa của tính quốc gia được lan rộng hơn một cách từ từ với cơn sốc của Thế chiến I, những cuộc đấu tranh thất bại chống lại người Anh và người thuộc phong trào Phục quốc Do Thái, và cuối cùng được kết linh bằng sự truất hữu và phân tán năm 1948.
Dayan viết rằng ông không có ý thức về sự kháng cự dân tộc cho tới năm 1932, khi quả bom được thả vào túp lều của những láng giềng của gia đình Dayan. Cuộc tấn công là sai phạm của những người theo nhà thuyết giáo Hồi giáo tới từ Haifa, lãnh tụ Hồi giáo Izz al-Din al-Qassam. Sau khi phát hiện ra rằng những bạn bè Ả Rập ngưỡng mộ phong trào của Sheikh, lần đầu tiên Dayan nhận ra rằng có sự cách biệt dân tộc và tôn giáo sâu xa phân cách người Ả Rập với người Do Thái, những người đang đáp ứng các lý tưởng của chủ nghĩa “Phục quốc Do Thái”
Lãnh tụ Hồi giáo Izz al-Din, tên của ông ta gây cảm hứng cho những người đánh bom tự sát Palestine hồi thập niên 1990, đã bị lực lượng Anh giết chết năm 1935 cùng nhóm người theo ông. Việc này chỉ mang lại sự tạm lắng ngắn; những cuộc tấn công của lãnh tụ mở đầu cuộc nổi dậy ba năm của người Ả Rập. Nó khởi từ cuộc nổi dậy ở Jaffa tháng Tư năm 1936, tiếp theo là cuộc tổng bãi công. Những cuộc tấn công có vũ trang đã xảy ra sau đó, không chỉ chống lại người Do Thái mà cả người Anh, những người được coi là kẻ bảo trợ phong trào Phục quốc Do Thái, và chống lại các thành viên của tầng lớp cai trị Ả Rập bị coi là những người cộng tác.
Những người nổi loạn nắm quyền kiểm soát một thời gian các tỉnh như Nablus, Bethlehem, Ramallah và cả cổ thành Jerusalem. Đứng trước kẻ thù chung, Lực lượng Dân quân được lôi kéo vào sự hợp tác với Anh để đàn áp cuộc nổi loạn.
Năm 1937, ủy ban Peel đề nghị chia phần còn lại của Palestine thành quốc gia Do Thái và Ả Rập cùng với "sự trao đổi dân". Một số lãnh đạo Do Thái miễn cưỡng chấp nhận đề án, nhưng tìm cách xác định biên giới bằng cách mở rộng thêm. Lực lượng dân quân không chỉ bảo vệ mà còn kiến thiết các khu định cư. Bắt đầu vào năm 1936 và 11 năm sau, hơn 100 khu định cư "phòng thủ" được dựng lên.
Khi nổ ra Thế chiến II, Anh sợ mất đi sựủng hộ của thế giới Ả Rập nên vào năm 1939 đã phát hành Sách Trắng cắt giảm mạnh sự di dân của Do Thái trong năm năm, cũng là để tránh sự khủng bố của Đức quốc xã. Sau đó, việc di dân thêm phải tùy thuộc vào sự ưng thuận của Ả Rập, thực tế là quyền phủ quyết của Ả Rập. Anh còn đưa ra lời hứa độc lập cho đa số quốc gia Ả Rập trong vòng mười năm. Điều này chẳng khác gì chấm dứt giấc mơ lập quốc của Do Thái, nhưng ngay cả những nhượng bộ này không đủ để Mufti, người tự liên minh với Hitler, bị đi đầy.
Sách Trắng đột ngột cắt đứt hiệp ước thân thiện giữa Anh và cộng đồng Do Thái. Đến lượt người Do Thái nổi loạn và đình công chống lại người Anh. Các lực lượng dân quân Do Thái bắt đầu tổ chức các con tàu chuyển các di dân bất hợp pháp. Mối quan hệ giữa Anh và người Do Thái chất đầy mâu thuẫn. Mùa xuân năm 1941, với vị thế của Anh ở Trung Đông bị gọng kìm của Đức từ Hy Lạp và Bắc Phi đe dọa, sự hợp tác quân sự giữa Anh và cộng đồng Do Thái hòa hợp lại. Sau những năm kiệt quệ vì tiến hành chiến tranh bắn phá chống lại người Ả Rập và sau này chống lại người Anh, phong trào Etzel ly khai, hay Irgun Tzva'i Le'umi (Tổ chức Quân sự Quốc gia," được gọi là "Irgun") tuyên bố ngưng bắn. Điều này dẫn tới việc tạo lập nhóm ly khai mới, Lehi(Lohamei Herut Israel, Các Chiến sĩ vì Tự do của Israel, được gọi là Nhóm Cứng rắn), mà lòng căm thù Anh của họ căng đến độ họ tìm cách liên minh với Đức quốc xã. Cả hai nhóm này, bị người Anh coi là những kẻ khủng bố, sẽ sinh ra các thủ tướng của Israel.
Đầu năm 1944, với nỗi sợ nạn tàn sát người Do Thái của Đức quốc xã ngày càng rõ ràng, Etzel và Lehi mở cuộc tấn công mới chống lại người Anh. Họ tấn công các văn phòng chính phủ và cảnh sát, đột kích các kho vũ khí để cướp vũ khí và ám sát Tướng công Moyne, quốc vụ khanh của Anh ở Trung Đông. Churchill, lãnh đạo chính phủ Anh thân-Do Thái, đã đề cập đến "những kẻ cướp mới xứng đáng với Đức quốc xã". David Ben-Gurion lệnh cho lực lượng dân quân giúp Anh dẹp tan cuộc nổi loạn vũ trang. Đó là giai đoạn được gọi là mùa săn (saison), khi lực lượng dân quân bắt cóc các thành viên của tổ chức bí mật và giao họ cho người Anh.
Nhưng sau khi kết thúc chiến tranh, lúc đảng Lao động mới được bầu của Anh khước từ cương lĩnh thân-Do Thái, lực lượng dân quân liên kết với những người chống đối. Những lực lượng dân quân Do Thái mở những cuộc tấn công hàng loạt cây cầu, đường xe lửa, đồn cảnh sát, và sân bay. Những con tàu bất hợp pháp đưa những người lánh nạn khỏi châu Âu cố gắng thoát khỏi vòng vây của hải quân Anh, nhưng những ai bị bắt bị nhốt ở Cyprus. Anh để 100.000 quân vào Palestine nhưng đã nhiều lần, vị thế của Anh bị yếu đi do những cảnh thảm bại của lính Anh cư xử thô bạo với những người sống sót của buồng hơi ngạt.
Tháng Bảy 1946, khách sạn Vua David ở Jerusalem đang có nhiều quan chức Anh trú, bị Etzel đánh phá. Cuộc đánh phá này giết chết 41 người Ả Rập, 28 người Anh, 17 người Do Thái và năm người khác. Khi cảnh bạo lực tăng cao, Etzel mở cuộc tấn công ngoạn mục vào pháo đài quân Thập tự chinh cũ ở Acre, giải thoát hơn 200 tù nhân. Chính quyền Anh treo cổ ba người của Etzel bị bắt, những người đã xúi giục nhóm hành quyết hai quân nhân Anh bị bắt cóc.
Tháng Hai 1947, Anh phát biểu hỏi Liên Hiệp quốc quyết định phải giải quyết vấn đề Palestine thế nào. Tháng Mười năm đó, Hội đồng Chung bỏ phiếu chia Palestine thành quốc gia Do Thái và Ả Rập, Jerusalem là thành phố quốc tế. Cảnh những người Do Thái bu quanh máy truyền thanh để theo dõi cuộc bỏ phiếu là một trong những hình ảnh thật kiên nhẫn: "Afghanistan - Không; Argentina - Phiếu trắng; Úc - Nhất trí...". Giải pháp chia được thông qua: 33 phiếu thuận (kể cả Mỹ và Liên Xô), 10 phiếu chống (phần lớn từ các quốc gia Ả Rập và Hồi giáo), 10 phiếu trắng (kể cả Anh). Quyền lập quốc của người Do Thái đã được thế giới xác nhận. Dayan viết: "Đêm đó chúng tôi thật hạnh phúc, và chúng tôi đã nhảy mừng... chúng tôi nhảy mừng-nhưng chúng tôi biết rằng đằng trước chúng tôi còn đó bãi chiến trường".
"Cuộc chiến giành Độc lập", như Israel gọi cuộc chiến thứ nhất của nó với người Ả Rập, đã là hai cuộc chiến riêng biệt: sự tranh giành lãnh thổ giữa người Do Thái và người Ả Rập ở Palestine khi người Anh rút đi, và sự xung đột toàn diện giữa nhà nước non trẻ của Israel và các quốc gia Ả Rập chung quanh.
Những rắc rối hầu như nổ ra ngay sau khi Liên Hiệp quốc bỏ phiếu phân chia, với sự leo thang hỗn loạn những đợt bắn tỉa và đánh bom, và cuối cùng là những giao tranh cục bộở các thành phố, ở những tiền đồn hẻo lánh của Do Thái, và, trên hết, ở các đường phố. Giao tranh ác liệt nhất là trên đường phố Jerusalem. Lực lượng Dân quân Do Thái dần dần chiếm ưu thế và buổi chiều trước ngày độc lập nó đã tạo lập một vùng liên tục thuộc quyền kiểm soát của Do Thái, bao gồm những thành phố chính vùng duyên hải thuộc Jaffa, Haifa, và Acre, cùng những phần đất rộng lớn thuộc Galilee, bao gồm Tiberias và Safed.
Khi các làn sóng tị nạn của người Palestine để ra khỏi những vùng kiểm soát của Do Thái, Israel mới cải thiện vị thế chiến lược của nó ngay vào lúc đối mặt cuộc tấn công dữ dội của những đoàn quân xâm lược của Ai Cập, Transjordan, Iraq, Syria, và Li Băng. Tướng Alan Cunningham, Cao ủy Anh cuối cùng, vượt tàu từ Haifa. Ben-Gurion tuyên bố quốc gia Do Thái độc lập. Đã có những đề nghị gọi là "nước Zion", "nước Do Thái", "Judea","Đất của Israel và "Ever", phát xuất từ từ ivri, có nghĩa là Hebrew. Cuối cùng, các lãnh đạo của khu Định cư nhất trí gọi là "Nước Israel".
Trên lý thuyết, lực lượng Israel không đông bằng lực lượng Ả Rập. Nhưng trên chiến trường các bên gần ngang nhau vì nhiều quân của Ả Rập đang tuần tra ở cuối các đường giao thông hào dài, phải giữ lại số quân đông để bảo đảm an ninh trong nước và thiếu nhiệt tâm thật. Tuy nhiên, về mặt thiết bị, lực lượng Israel không mạnh bằng lúc khởi đầu cuộc tấn công của các nước Ả Rập. Ba tuần đầu giữa sự xâm lấn của Ả Rập và thời gian ngừng bắn đầu tiên ngày 11 tháng Sáu, là cuộc đấu tranh liều mạng để tồn tại.
Cuộc khủng hoảng dầu xảy ra ở Sông Jordan, tại sinh quán của Dayan thuộc Degania. Lữ đoàn xe bọc sắt Syria chiếm hai khu kiều dân biên phòng lân cận và các vị trí tiền tuyến ở khu kiều dân biên phòng láng giềng của Degania A và B đang bị nã pháo. Phái đoàn từ Degania xin Ben-Gurion tăng viện, nhưng tất cả những gì ông ta có thể cho mượn là bốn khẩu pháo đã chiến 65mm cỗ lỗ có cái tên nực cười là "Napoleonchik" - và Moshe Dayan. Dayan cho dàn quân lại, và họ đã buộc các xe tăng của Syria ngưng ở các cổng của Degania. Vào giờ thứ mười một, các khẩu Napoleonchik được đặt vào vị trí và bắt đầu khai hỏa. Quân Syria rút lui lộn xộn, và không bao giờ còn dám bén mảng vào vùng đó nữa. Dayan ngạc nhiên trước sự thiếu tinh thần chiến đấu của họ.
Còn nữa, vào lúc lệnh ngưng bắn đầu tiên có hiệu lực, quân Ai Cập đã tiến sâu vào Tel Aviv khoảng 30 dặm và kết hợp với Đạo quân Ả Rập ở vùng ngoại ô phía nam của Jerusalem. Quân Transjordan một lần nữa lại cắt con đường chính tới Jerusalem (nhưng quân Israel đã tìm cách cắt "Con đường Burma" mới qua vùng núi) và, quan trọng hơn, chiếm Khu Do Thái thuộc Cổ Thành.
Chiến sự tiếp diễn mười ngày hồi đầu tháng Bảy. Được Czechoslovakia tiếp tế lại, quân Israel phá vỡ các tuyến của Ai Cập ở bắc Negev và chiếm vạt đất rộng thuộc Hạ Galilee, bao gồm Nazareth. Jerusalem thực tế được phân chia giữa Israel và Transjordan.
Nhà hòa giải của Liên Hiệp quốc, Bá tước Folke Bernadotte, bị Lehi ám sát ở Jerusalem vào tháng Chín, cuộc chiến tiếp diễn qua tháng tiếp theo. Israel chiếm Beersheba, để một lữ đoàn của Ai Cập bị bao vây ở Faluja. Lực lượng bị vây hãm gồm một sĩ quan tình báo, Thiếu tá Gamal Abdel-Nasser, người sau này nắm quyền ở Ai Cập và trở thành biểu tượng của chủ nghĩa dân tộc Ả Rập. Toàn bộ Galilee bị chiếm, và quân Israel tràn vào Lebanon và Sinai.
Thỏa thuận ngưng bắn với Ai Cập được ký ở Rhodes vào tháng Hai 1949. Lebanon, Transjordan, và Syria cũng theo Ai cập ký các hiệp định ngừng bắn. Có những thoáng hiện hòa bình nhứ nhứ trong sự vận động hậu trường, như các điều kiện hoặc không được một Israel chiến thắng chấp nhận (Ai Cập đòi quyền kiểm soát Negev), hoặc các lãnh đạo Ả Rập không tập hợp được sự ủng hộ chính trị cần thiết. Vua Abdallah của Jordan hình như đã thông đồng với Israel để ngăn cản việc tạo lập nhà nước Palestine. Lực lượng của ông tự giới hạn chủ yếu để giữ lãnh thổ ở Bờ Tây hơn là tìm mọi cách tấn công Israel. Ben-Gurion bác yêu cầu bảo rằng Israel nên chiếm cao nguyên trung tâm, cho rằng đã kết thúc chiến tranh nên tập trung vào việc xây dựng đất nước. Abdallah đã bí mật ký với Israel hiệp ước nhượng cho ông hành lang đất giữa Bờ Tây và Dải Gaza, nhưng chẳng bao giờ điều ấy được thông qua.
Thiện ý giúp nước Israel, việc tiếp tục những cuộc tiếp xúc được người anh của ông là Faisal thiết lập với các lãnh đạo Do Thái năm 1917, sau này Abdallah phải trả giá bằng mạng sống của ông: ông bị người Palestine ám sát ở nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa năm 1951. Nhưng chủ nghĩa thực dụng của ông, bị nhiều người đương thời với ông chửi rủa, đã bảo toàn Bờ Tây và cổ Thành Jerusalem trong tay của Ả Rập gần hai thập niên, đặt nền tảng cho những xác quyết lãnh thổ của Palestine sau này.
Từ lâu Cuộc chiến giành Độc lập được mô tả sinh động ở Israel như một chiến thắng thần diệu chống lại sự xung đột quá mạnh. Thế nhưng công trình gần đây hơn của các sử gia lập luận rằng Israel hưởng được sự át trội về số lượng hơn các kẻ thù của nó ở chiến trường đối với phần lớn cuộc chiến. Israel được lợi từ sự thể là nó xuất kích bên trong đường giao thông hào và có được sự chỉ huy duy nhất. Nó bộc lộ tính linh hoạt và khả năng chiến đấu vào ban đêm, và biết cách tập trung lực lượng cho những đợt tấn công chính. Trên hết, tinh thần chiến đấu của Israel được tăng cường nhờ biết rằng quốc gia đã có mặt sau của nó lợi Địa Trung hải. Binh lính của quân đội Israel được tăng lên nhờ những người tị nạn tới từ châu Âu, và nhờ những binh lính giàu kinh nghiệm, kể cả những tình nguyện quân nước ngoài, được huy động từ các quân đồng minh. Cuối cùng, như sử gia Benny Morris đã nói, bên mạnh hơn đã chiến thắng.
Israel đã giành thêm một phần ba lãnh thổ nhiều hơn phần nó được phân chia theo kế hoạch phân chia của Liên Hiệp quốc. Nó cung cấp chỗ trú ẩn cho những người sống sót của cuộc tàn sát người Do Thái của Đức quốc xã, nhưng khoảng 700.000 người tị nạn Palestine-phần lớn là người Ả Rập trong lãnh thổ Israel-bị đuổi đi, không bao giờ trở lại. Theo nhiều cách, sự kết thúc cuộc chiến là kết quả không vừa lòng cho mọi bên. Israel đã hình thành-và còn hình thành một con dao găm Do Thái giữa thế giới Ả Rập, chia cắt Ai Cập và Bắc Phi khỏi vùng Lưỡi liềm phì nhiêu và bán đảo Ả Rập. Đối với người Ả Rập, chính sự tồn tại của Israel là một sỉ nhục, một quốc gia Thập tự chinh mới.
Về phần họ, Israel than khóc việc mất các khu vực thánh của Do Thái, bao gồm Bức tường phía Tây ở Bờ Tây. Các nhà lập kế hoạch quân sự lo lắng về tình trạng không bảo vệ được các biên giới, kể cả "vùng eo hẹp" rộng có chín dặm giữa Bờ Tây và Địa Trung hải. Khu tập trung chính của dân Israel ở đồng bằng duyên hải nằm trong tầm pháo của Ả Rập.
Cuộc chiến Sáu ngày năm 1967 được người Israel coi như quãng thời gian đẹp nhất của họ. Hầu như chẳng ai nhớ cuộc chiến sáu ngày năm 1956, khi lực lượng Israel đột phá các hàng rào bảo vệ của Ai Cập ở Sinai trong cái vỏ ngoài diễn tập cho cuộc chiến quyết định mười một năm sáu.
Chiến dịch Sinai của Israel là một phần của âm mưu rủi ro để Anh và Pháp "phân chia lực lượng" và nắm lại Kênh Suez, kênh đã được Gamal Abdel-Nasser tư hữu hóa. Israel đã tự buộc mình vào vai trò của kẻ xâm lược, nhưng lại được sự ủng hộ của phương tây để tiếp quản bờ biển đông Sinai để bảo đảm sự tự do vận chuyển bằng đường thủy qua Eo biển Tiran, "Kênh Suez" của riêng Israel. Tất cả ba hy vọng của Nasser bị tiêu tan.
Vào lúc đó, chiến dịch Sinai của Israel bị coi là kỳ công quân sự phi thường, có thể sánh với việc Hannibal băng qua dãy Alps. Các du khách, những nhà khảo cổ và vô số viện sĩ khác đi theo các đoàn quân để tìm bằng chứng về câu chuyện xuất hành. Các ca từ của bài hát đương thời "Các bạn ạ, đấy không phải truyền thuyết cũng chẳng phải giấc mơ. Còn Ben-Gurion mơ màng nói về việc thiết lập "Vương quốc thứ Ba của Israel": "Đấy là chuyện dân Israel đối mặt với Núi Sinai".
Năm 1956, Mỹ là siêu cường nhưng chưa là đồng minh thủy chung của Israel như sau này. Tổng thống Dwight Eisenhower, trích dẫn sự vi phạm hiến chương Liên Hiệp quốc và tìm sự ủng hộ của Ả Rập để kìm chân Liên Xô, buộc Anh và Pháp rút khỏi Vùng Kênh. Năm sau, quân Israel rút sau khi nhận được sự bảo đảm được tự do vận chuyển bằng tàu và hạn chế những cuộc tấn công qua biên giới từ Dải Gaza.
Thập niên 1950 là những năm khi Israel thải bỏ những học thuyết quân sự chính của mình. Theo lời của Yigal Allon, một hòn đảo không có lợi thế chiến lược khi bị bao vây bằng đường biển. Từ lâu Israel đã biết rằng nó không thể duy trì số quân hiện dịch lớn. Nó tạo ra hệ thống lực lượng ổn định nhỏ gồm có khung sườn của các sĩ quan chuyên nghiệp và các kỹ thuật viên, nhất là không quân, và lực lượng lính nghĩa vụ. Vào thời khủng hoảng, quân số sẽ được tạo nên bằng quân dự bị đã được huấn luyện. Nhưng rõ ràng chuyện Israel thiếu chiều sâu chiến lược, và chuyện phải mất hai ngày để huy động quân dự bị, Israel dễ bị tấn công chớp nhoáng. Tin tức tình báo có tầm quan trọng tột bậc.
Năm 1950, Yigal Yadin, Tham mưu trưởng thời đó, diễn giải điều gì vẫn là luật chủ yếu của cuộc chiến Do Thái. Ông nhấn mạnh về nhuệ khí quốc gia, sự thống nhất chỉ huy, những nguyên tắc lâu đời như sự bất ngờ, tính năng động, sự tập trung lực lượng, và phương pháp gián tiếp. Căn nguyên của học thuyết Do Thái là nhận ra rằng nhà nước Do Thái không thể chịu dựng nổi những cuộc chiến tranh tiêu hao lâu dài: nó phải đánh nhanh, đột ngột, và dứt khoát. Mục tiêu là xoay trở trận chiến vào vùng địch lúc có cơ hội sớm nhất. Nhu cầu tốc độ được tăng cường bằng niềm tin rằng ngành ngoại giao quốc tế sẽ ủng hộ các nước Ả Rập giàu dầu mỏ và sẽ sớm tìm cách hạn chế những lợi lộc của Isarel. Vì thế, sự phòng thủ của Israel phải được đặt trên cơ sở của chiến tranh chớp nhoáng.
Lực lượng trên bộ sẽ tạo thành cột trụ quân sự, càng lúc càng dựa vào chiến xa. Từng lúc không quân làm nhiệm vụ bảo vệ các vùng trời khắp Israel và cung cấp sự trợ giúp chiến thuật cho quân đội, không yểm trợ bằng việc dội bom chiến lược. Hải quân tương đối nhỏ, chủ yếu để bảo vệ vùng bờ biển.
Chính sách trừng phạt những cuộc tấn công của các du kích quân Palestine (fedayin) đã được củng cố, mang lại kết quả chắc chắn. Một lực lượng đặc biệt, Đơn vị 101, được thành lập để thực hiện những đợt trả đũa. Quân tình nguyện ô hợp được Thiếu tá Ariel Sharon hiếu chiến chọn (người nổi tiếng suốt cuộc xâm lăng Lebanon năm 1982 và được chọn làm thủ tướng năm 2001), thực hiện chiến dịch đột kích hết sức hiệu quả.
Sau khi khắc phục sự thiếu sót về khả năng chiến đấu của Israel vào những năm đầu của quốc gia, Dayan với vai trò là Chỉ huy Hành quân, giờ phải lo về sự vượt quá giới hạn của Đơn vị 101. Những cuộc tranh luận về việc giết chóc các thường dân Ả Rập trong những đợt trả đũa-đặc biệt cuộc tàn sát 69 thường dân năm 1953, phần lớn là phụ nữ và trẻ em, khi phá hủy làng Kibya của Jordan-mà đúng ra là chỉ tấn công những vị trí quân sự.
Đơn vị 101 được kết hợp với tiểu đoàn lính dù để lập một lữ đoàn dưới sự chỉ huy của Sharon, và khi thấy họ gây hoảng loạn cho các vị trí quân sự của Ả Rập, lính mũ nồi đỏ được công chúng tán dương. Ben-Gurion nói, lính dù đúng là "nhà ươm các anh hùng".
Dayan luôn nhắc nhở là bằng bất cứ giá nào không được bỏ rơi những người chết và bị thương ở trận địa. Năm 1954, lính dù mở vài cuộc đột kích vào lãnh thổ của địch để bắt cóc các binh lính Jordan và đã trao đổi lấy những chiến binh Israel bị bắt. Cùng chiến thuật ấy, họ tiến hành thêm nhiều vụ nữa, như vụ cố giải cứu Ron Arad, tay phi công bị du kích quân Shi'ite của Lebanon bắt sau khi máy bay của ông này bị bắn rơi trên bầu trời Lebanon năm 1986, nhưng ít thành công và phải trả giá bằng sự phê phán nặng của quốc tế. Israel bắt cóc giáo sĩ Hồi giáo dòng Shi'ite là Abdel-Karim Obeid năm 1989, và lãnh đạo Hồi giáo dòng Shi'ite là Mustafa Dirani năm 1994, nhưng những năm sau đó vẫn không thấy Arad ở đâu. Tháng Mười 2000, phong trào Hizbollah của Lebanon thâm nhập biên giới và bắt cóc ba binh lính Israel vì biết thế nào Israel cũng tìm cách cứu họ. Chẳng hạn năm 1985 Israel đã trả tự do 1.000 tù nhân Palestine để đổi lấy sáu binh lính bị bắt ở Lebanon.
Tháng Tư 1967 một chiếc xe máy kéo Israel thử làm việc ở cánh đồng tranh chấp đã khiến pháo của Syria dội vào khu kiều dân biên phòng Gadot. Các vị trí của Syria nằm ngoài tầm hoạt động của xe tăng Israel, thế là không quân được huy động tới. Israel bắn rớt sáu máy bay của Syria bay lên nghênh chiến với họ trên bầu trời Damacus.
Trở lại Cuộc chiến Sáu ngày đã xảy ra, dù các nhà hoạch định kế hoạch của Israel có thể không biết. Ai Cập, nước mạnh nhất trong khối Ả Rập, bị kẹt trong cuộc nội chiến ở Yemen, Israel đã cho rằng quân Syria sẽ không dám hành động nếu không có sự yểm trợ của Ai Cập.
Sư căng thẳng ở biên giới phía bắc, đã xuất hiện khi Israel sử dụng các vùng phi quân sự, đã gia tăng bởi những cuộc đụng độ khi chia các vùng sông nước của Sông Jordan giữa Israel, Syria, và Jordan. Năm 1964, Israel hoàn thành hệ thống Dẫn nước Quốc gia để đưa nước từ Biển Galilee vào các vùng phía nam của đất nước. Đáp lại, Syria bắt đầu tác động vào các con kênh để làm trệch nguồn nước của Sông Jordan. Israel khởi phát những cuộc xô xát nhằm phá sạch thiết bị của Syria và những việc này thường leo thang thành những giao tranh nhỏ kéo theo cả xe tăng, pháo, máy bay.
Hậu quả chính xác của các biến cố này dẫn tới chiến tranh mà người ta chẳng bao giờ ngờ. Martin van Creveld, sử gia quân đội, lập luận trong Thanh Gươm và cành Ôliu rằng, nhiều sĩ quan cao cấp trong Lực lượng Phòng thủ Israel đang hậm hực muốn đánh nhau và muốn khiêu khích chính quyền ngày càng cực đoan của Syria nhảy vào cuộc chiến. Bên Ả Rập, ông ước đoán, lý do hiểu ngầm để Nasser vội nhảy vào cuộc chiến có lẽ vì ông ta muốn Israel ngưng hoàn tất việc phát triển vũ khí hạt nhân.
Nửa đầu tháng Năm, Cục Tình báo Liên Xô báo cáo cho Ai Cập về việc Israel tăng cường lực lượng vũ trang dọc biên giới. Mặc dù Israel phủ nhận, Nasser nhanh chóng rút quân khỏi Yemen và đổ quân ào ạt vào Sinai, lệnh cho quân Liên Hiệp quốc ra khỏi vùng này. Quân Ai Cập tái chiếm Sharm al-Sheikh. Sự phong tỏa ở Eo biển Tiran, eo biển Israel đã công bố hồi năm 1957 là tình thế chiến tranh, được áp đặt lại.
Vào cuối tháng Năm Jordan đã ký hiệp ước phòng thủ chung với Ai Cập. Vài ngày sau Iraq cũng tham gia. Các nhà lãnh đạo Ả Rập tuyên bố rằng họ sẽ tái chiếm Palestine một lần cho xong.
Khi các bộ trưởng Isarel cố tìm giải pháp ngoại giao, các tướng lãnh đòi hỏi Israel phải hành động quân sự ngay để ngăn quân Ai Cập khỏi tăng thêm các vị trí của họ. Trong bầu khí lo sợ của quần chúng về một cuộc tàn sát người Do Thái nữa, người ta đào các huyệt ở những công viên phòng khi có hàng loạt người chết. Tham mưu trưởng Rabin suy sụp do căng thẳng và theo tường thuật không chắc chắn của Chỉ huy Hành quân lúc đó là Ezer Weisman, ông đã đệ đơn từ chức. Lúc cao điểm của cơn khủng hoảng quân sự của Isarel, phần lớn sĩ quan cao cấp của Israel phải dùng thuốc an thần trong gần hai ngày.
Công chúng Israel, phần lớn không biết Lực lượng Phòng thủ Israel mạnh ra sao lại càng lo lắng hơn khi nghe những lời nói quanh co của Thủ tướng, Levi Eshlol, ấp úng phát biểu qua bài diễn văn trên truyền hình. Thay vì trấn an dân Israel, ông cho họ có cảm tưởng là quốc gia không có bánh lái.
Dưới áp lực, Thủ tướng đồng ý thành lập chính phủ thống nhất quốc gia. Ông bác bỏ lời kêu gọi giao quyền lại cho Ben-Gurion. Thay vì thế, ông không chống nổi những đòi hỏi gắt gao bỏ nhiệm Dayan làm bộ trưởng quốc phòng, sau đó rút khỏi quân đội và ra khỏi nội các. Dayan phàn nàn: “Thải đến lúc tám mươi ngàn quân Ai Cập vào Sinai họ mới mời tôi tham gia chính phủ”
Giờ H được ấn định là 07:45 ngày 5 tháng Sáu. Máy bay Israel đã cất cánh sớm hơn theo đội hình so le trên bầu trời Địa Trung hải, và đồng loạt đánh vào chín căn cứ không quân sau khi quân các máy bay tuần tra trước rạng đông của Ai Cập hạ cánh. Chỉ 12 máy bay được để lại để bảo vệ bầu trời Israel. Diễn xuất dựa trên sự thông minh tuyệt vời, Israel phá hủy gần 100 máy bay trong ba giờ tiếp theo. Ba phần tư không lực Ai Cập bị bỏ cháy và vào lúc 11 giờ Weizman có thể nghe tiếng reo hò thắng trận. Không quân Israel tự do trút cơn thịnh nộ gây ra cùng sự thiệt hại cho không quân Jordan và Syria.
Được yểm trợ bởi không quân mạnh, nhiệm vụ trên mặt đất dễ dàng hơn. Dải Gaza và các phòng tuyến như pháo đài canh giữ các đường vào bắc Sinai bị chọc thủng trong hai ngày với một loạt cuộc tấn công thọc sườn và những cuộc tấn công qua địa thế tưởng rằng không thể vượt qua được.
Jordan lờ tịt lời hiệu triệu đứng ngoài cuộc chiến-sau này Vua Hussein thừa nhận rằng ông đã bị sự tuyên truyền của Ai Cập đánh lừa khi tuyên bố rằng họ đang chiến thắng giòn giã-nhưng lính dù Israel khải hoàn vào cổ Thành qua Cổng Sư tử vào ngày thứ ba của cuộc chiến. Phần còn lại thuộc Bờ Tây đã thất thủ lúc sẩm tối.
Yael Dayan, con gái của bộ trưởng quốc phòng và là nhà văn nổi tiếng, đã từ Athens về để gia nhập quân đội. Cô được bố trí vào đơn vị phát ngôn, gắn với lực lượng đặc nhiệm ở tuyến phía nam dưới sự chỉ huy của Ariel Sharon. Nhật ký chiến tranh của cô xuất bản dưới tựa Tập san Israel: Tháng Sáu 1967, thuật lại lúc quân đội ở Sinai nghe tin Jerusalem thất thủ. “Tin tức vang ra và đoàn xe hộ tống rực sáng [thật ấn tượng] như thể ánh chớp. 'Điều gì đó' đã xảy ra. Nó không là sự chinh phục mà là sự giải phóng... nó là cuộc trường chinh của nhân dân chúng ta, từ Moses tới lính dù, những người đầu tiên chạm tới bức tường thiêng liêng. Bỗng nhiên chúng ta chỉ bảo vệ biên giới, khu định cư, chúng ta là thành phần của một cái gì đó lớn hơn”.
Vào ngày thứ tư của cuộc chiến, quân Israel tiến tới Kênh Suez. Khi Ai Cập và Jordan đề nghị ngưng bắn, tối đó Rabin ngủ và nghĩ rằng chiến tranh đã chấm dứt. Ông thức giấc lúc 7 giờ sáng nghe biết Dayan đã ra lệnh tấn công Syria ở Cao nguyên Golan. Lúc đầu bộ trưởng quốc phòng bác yêu cầu của các cộng đồng phía bắc khởi binh chống lại Israel nhằm tránh những giao tranh nhỏ. Nhưng Dayan đã thay đổi ý kiến vì Syria đã đồng ý ngưng bắn suốt đêm, một quyết định được coi là để loại bỏ sự can thiệp của Liên Xô nếu Israel mở mặt trận mới. Lúc đầu quân Syria quyết kháng cự. Nhưng vào ngày hôm sau, quân Israel đã chiếm Kuneitra (nơi đã có lúc Herzl coi đó trung tâm tập trung và phân phối của ngành đường sắt giữa châu Âu và châu Á) khi quân Syria tái bố trí quân từ hướng bắc để bảo vệ Damacus. Đối với mọi bình luận về tầm quan trọng của chiến lược sống còn của Cao nguyên Golan này, sự thu phục ấy là suy nghĩ sau này. Dayan viết, mục đích chính là đặt các khu định cư Israel ngoài tầm pháo của Syria và "cho Syria thấy rằng họ không thể tiếp tục quấy rầy mà không bị trừng phạt."
Chiến thắng của quân Israel được quyết định do làm chủ được bầu trời, và do khả năng chuyền quân từ nơi này tới nơi khác. Quả là nó đã thành công khi chớp nhoáng đánh ba trận đánh riêng rẽ chống lại Ai Cập, Jordan, và Syria. Chiến tranh chớp nhoáng tàn bạo của binh lính Israel được truyền động bởi niềm tin là họ đang chiến đấu để dập tắt một cuộc tàn sát Do Thái mới.
Sự chinh phục lãnh thổ là một ly rượu độc. Israel trở thành một tiểu đế chế, đang chiếm giữ dân Palestine rầu rĩ và oán giận ở Bờ Tây. Vào ngày đầu tiên của cuộc chiến, Dayan đã phát biểu trên đài phát thanh: "Binh lính Israel, chúng ta không có ý định chinh phục". Tuy thế, hậu quả của chiến thắng, chính quyền Israel đi nước đôi khi quay lại lãnh thổ bị chiếm. Dayan nói trên đài BBC: "Chiến tranh đã chấm dứt; giờ chúng ta đang đợi điện thoại phúc đáp của Hussein." Nhưng phúc đáp đã không tới.
Yael Dayan thuật lại cảnh cô ngồi với cha cô trên cây cầu bắc qua Kênh Suez ở Kantara vài ngày sau khi kết thúc Cuộc chiến Sáu Ngày. Họ thõng bàn chân trên làn nước lặng, và khi hai xác chết lềnh bềnh trôi qua, cha cô bảo: "Quả là khó chấp nhận khi là thành phần của một quân đội thất trận". Chỉ vài năm sau, Moshe Dayan rơi vào trải nghiệm u ám nhất. Trạng thái hớn hở của năm 1967 nhường chỗ cho sự vỡ mộng của năm 1973.
Nỗi tủi nhục của người Ả Rập năm 1967 không đưa họ tới bàn hòa bình, như một số lãnh đạo Israel tưởng, nhưng đã gia tăng sự thách thức của họ. Cuộc gặp thượng đỉnh ở Khartoum tháng Chín 1967 đã đưa ra cái được gọi là Ba Không: Không Hòa hoãn với Israel, Không Thương lượng với Israel, và Không Thừa nhận Israel.
Các biên giới mới của Israel thì có thể phòng thủ được hơn và có đủ quân hơn. Dayan bảo, Kênh Suez là "một trong những chiến hào chống tăng tốt nhất sẵn có". Quân xâm lược từ phía đông sẽ phải lội qua Sông Jordan và leo dốc ở Bờ Tây khoảng 900 mét trước khi tới Jerusalem. Ở phía bắc, quân Syria không còn vào Biển Galilee. Trong khi đó quân Israel ở đồng bằng dẫn tới Damacus. Học thuyết đánh thắng ngay cú đầu và khiêu chiến trên đất địch nhường chỗ cho tư thế phòng thủ-và sự kiêu căng láo xược.
Israel và các quốc gia Ả Rập bị kéo hoàn toàn vào cuộc Chiến tranh Lạnh. Israel tái vũ trang với những vũ khí mạnh và dồi dào hơn từ Mỹ, trong khi người Ả Rập nhanh chóng xây dựng lại lực lượng với sự trợ giúp của Liên Xô. Những sự cố quân sự tăng lên nhiều lần sau năm 1969, khi Ai Cập tuyên bố rằng nó không còn nhìn nhận sự ngưng bắn, và leo thang đánh phá vùng biên giới với tên gọi là "Chiến tranh Tiêu hao".
Israel xây dựng mạng phòng thủ gồm các pháo đài bên vùng sông nước của Kênh Suez được gọi là tuyến Bar-Lev, nhưng những việc này sớm cho thấy là không hiệu quả như tuyến Maginot (của Pháp năm 1940). Đặc công Israel chống đột kích vừa táo bạo vừa giỏi giang-năm 1969, quân Israel dẹp tan toàn bộ đài ra đa do Liên Xô lắp đặt. Không quân bỏ bom các kho dân sự và quân sự sâu trong đất Ai Cập, đương đầu với thế hệ tên lửa phòng không mới của Liên Xô, và đôi lúc hỗn chiến với các máy bay do phi công Liên Xô lái. Năm 1970, chiến sự leo thang tới mức các siêu cường phải hành động để áp đặt sự ngưng bắn.
Nasser qua đời vào tháng Chín 1970 và Anwar al-Sadat, người mà vào năm 1972 trục xuất hết các cố vấn Liên Xô, kế nghiệp. Nước cờ đặt Israel có khi còn dễ dàng hơn; quân Ai Cập được cho là quá bất tài không thể chế các loại vũ khí tinh vi được. "Năm Quyết định" của Sadat hồi 1971 tới rồi đi. Năm 1973 Lực lượng Phòng thủ Israel huênh hoang rằng "chưa bao giờ vị trí của chúng ta tốt hơn thế" và vào tháng Chín, vài ngày trước khi xảy ra Cuộc chiến Yom Kippur, quân đội đang nghiên cứu những kế hoạch cắt thời gian thi hành nghĩa vụ quân sự từ ba năm xuống còn hai năm rưỡi.
Lúc 14 giờ ngày 6 tháng Mười, Ai Cập và Syria tiến hành cuộc tấn công phối hợp bất ngờ ngang qua Kênh Suez và trên thảo nguyên Golan. Dayan nói lảng: Cuộc công kích này "tới thật bất ngờ, dù chẳng phải là không ngờ".Ngay đầu năm Dayan đã bảo quân đội phải sẵn sàng cho cuộc chiến vào mùa hè. Nhưng vào ngày hôm trước xảy ra xung đột thật, quân đội được ru ngủ vì tin rằng những cuộc chuyển quân của Ai Cập chỉ là việc tập dượt thường lệ. Sự huy động của Syria được giải thích là đề phòng chống lại khả năng tấn công của Israel. Israel đã dần củng cố các vị trí của nó để đáp trả sự dàn quân ở phía bên kia, nhưng luôn miễn cưỡng làm tê liệt hệ thống kinh tế của nó bằng cách gửi đi hết quân dự bị ra mặt trận, nó không được huy động toàn lực khi chiến sự nổ ra.
Israel bị lừa vì "nghĩ rằng" quân Ả Rập chưa sẵn sàng gây chiến. Chẳng có bằng chứng nào trên bộ-bao gồm cảnh báo mật từ Vua Hussein của Jordan mười ngày trước khi xảy ra cuộc tấn công của Ai Cập và Syria-lay chuyển s