- 4 - (tt)
Thanh gươm của Israel đã từng nặng hơn, nhưng cũng cùn hơn. Cuộc chiến Yom Kippur đã khiến đất nước lao vào sự phát triển nhanh quân sự để cố tránh lại bị áp đảo bởi những con số tuyệt đối. Ngay cả được huy động toàn diện, Israel chỉ có một phần ba số lính được Ai Cập và Syria triển khai năm 1973. Về sau, quy mô toàn diện của Lực lượng Phòng Thủ Israel phát triển từ khoảng 300.000 đến khoảng 540.000 vào năm 1982.
Sự giúp đỡ hào phóng của Mỹ càng hào phóng hơn sau khi Israel giảng hòa với Ai Cập, đã giúp Israel tu bổ trang thiết bị của nó đầy đủ bằng các loại vũ khí của Mỹ, từ các chiến đấu cơ F-15 đến máy bay chiến đấu điện tử trên không EC-2 Hawkeye. Israel còn phát triển các loại vũ khí tự chế khác nhau, bao gồm súng máy Uzi nhỏ gọn dễ khai hỏa và xe tăng Merkva đồ sộ (được ca tụng là mạnh nhất thế giới), cũng như hàng loạt vũ khí hạt nhân có tên lửa phóng chúng đi. Tầm với của Israel vươn tới Uganda, nơi các lực lượng đặc biệt của nó được máy bay Hercules đưa đi để giải cứu các con tin Israel và nước ngoài ở Entebbe năm 1976, và vụ oanh kích của F-15 và F-16 lò phản ứng hạt nhân của Saddam Hussein năm 1981.
Ariel Sharon to béo, vị tướng được ưu ái của Dayan, đã nắm chức bộ trưởng quốc phòng năm 1981. Van Creveld viết trong cuốn Thanh gươm và cành Ôliu: "Vị bộ trưởng quốc phòng xem ra là hiện thân của Lực lượng Phòng thủ Israel mới; có lẽ không còn tồi tệ mà dứt khoát mang một ý nghĩa. Thế nhưng, trong trường hợp này và nhiều trường hợp khác, hậu quả của sự ngạo mạn là thảm kịch. Tháng Sáu 1982, cỗ máy quân sự hùng mạnh mà Israel tạo nên nhằm "tác yêu tác quái" nhưng nó không may mắn và được đoán trước là thất bại".
Quyết định của Sharon để can thiệp vào cuộc nội chiến của Lebanon có lẽ là hành động quân sự điên rồ nhất của Israel. Sharon đã chộp ngay chuyện ám sát đại sứ Israel ở London, Shlomo Argov, của phe chống đối Abu Nidal là cái cớ để đưa quân nhắm vào Tổ chức Giải phóng Palestine (Palestine liberation Organization-PLO). Mục đích công khai là đẩy các tay súng của PLO và nhúm xe tăng già cỗi của Liên Xô 40 cây số về phía bắc thuộc biên giới của nó, đặt các cộng đồng Israel ngoài tầm pháo và hỏa tiễn Katyusha của Palestine. Chẳng biết là do hoàn cảnh bắt buộc (như Sharon tuyên bố), hay do ý đồ bí mật (như con trai của nguyên Thủ tướng Begin đưa ra), quân Israel đã lấn xa hơn nhiều về phía bắc và bao vây Beirut.
Ở đây họ kết hợp với các lực lượng dân quân Kito giáo phái Maron, những người Phalanx, để cùng nhau duy trì mối quan hệ bí mật trong cuộc nội chiến của họ chống lại liên minh những người cánh tả Hồi giáo, những người Palestine và Syria. Quân Israel giao tranh với các lực lượng Syria ở Thung lũng Bekaa và, trong một chiến dịch ngoạn mục đã bắn rơi khoảng 100 máy bay của Syria (chừng một phần năm không lực của nó) và phá hủy hệ thống phòng không của Syria ở Lebanon, phía Israel thiệt hại không đáng kể.
Cuộc vận động Hòa bình cho Galilee biến thành nỗ lực để vẽ lại bản đồ chính trị của Trung Đông chẳng ra làm sao. Ý đồ là sẽ đưa lãnh tụ người Phalanx dễ mến, Bashir Gemayel, làm tổng thống ở Lebanon. Ông ta sẽ ký hòa ước với Israel, đuổi các lực lượng Syria và phá cơ sở hạ tầng quân sự của PLO ở Lebanon. Điều này rồi ra sẽ giúp thiết lập một sự cân bằng quyền lực mới trong vùng tới chỗ khiến người Palestine phải cố thành lập quốc gia ở Jordan.
Tuy nhiên, đề án lớn này đã dẫn tới sai lầm ghê gớm. Sau cuộc vây hãm hai tháng và đánh bom ác liệt Beirut, cuối cùng quân Israel buộc các lực lượng của PLO và Syria rút khỏi thành phố dưới sự giám sát của quân đội Mỹ, Pháp, và Ý. Cùng lúc, Bashir Gemayel được bầu làm tổng thống. Cho tới đây mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng vào ngày 14 tháng Chín 1982, Gemayel bị đánh bom chết, hầu như chắc chắn do các đặc vụ Syria gài. Ngày hôm sau lực lượng Israel chuyển tới để chủ yếu chiếm Tây Beirut của Hồi giáo, cho là để duy trì trật tự, để lần đầu tiên tiến vào thủ đô của một nước Ả Rập. Bữa sau nữa, các lực lượng dân quân Phalanx, khao khát báo thù, biến thành kẻ thù của người Palestine và tràn vào các trại tị nạn Sabra bà Shatila của Palestine. Họ có nhiệm vụ thay mặt quân Israel "càn quét" các chiến binh của PLO, nhưng khi vào được bên trong, những người Phalanx ra tay tàn sát các thường dân, toàn phụ nữ và trẻ em, trong ba ngày. Số tử vong được ước tính từ 500 đến 3.500. Quân Israel đang ở cửa ngõ vào trại để xúi giục người Phalanx.
Begin dường như không lo lắng về sự bất bình của quốc tế, nhưng bộ phận lớn dân chúng Israel lúc đầu ủng hộ chiến dịch này nay cảm thấy lo lắng về số thương vong gia tăng-bị choáng do sự liên đới của binh lính với hành động tàn bạo này. Trên 400.000 người phản đối để vào trung tâm Tel Aviv. Sự tán thành của dân chúng cuối cùng bị tan vỡ. Lebanon không chiến đấu vì sinh tồn mà vì cuộc phiêu lưu sai lầm. Không thể nói đấy là cuộc chiến "không chọn lựa".
Một cách miễn cưỡng chính phủ thành lập ủy ban điều tra, ủy ban này đã buộc người đứng đầu cơ quan quân báo, Thiếu tướng Yehoshua Saguy, phải từ chức, và phê phán Begin cùng họ trưởng ngoại giao, Yitzhak Shamir. Sự lên án nặng nhất nhắm vào Sharon vì "xem nhẹ viễn cảnh của các hành động trả thù và gây đổ máu do người Phalanx gây ra" và vì "không đưa ra các biện pháp thích hợp để ngăn chặn và giảm bớt các cơ hội giết chóc". Tuy nhiên, Begin từ chối việc gạt bỏ Sharon mà chỉ tước chức bộ trưởng quốc phòng của ông ta.
Em của Bashir, Amin, được chọn làm tổng thống, và vào tháng Năm sau đó ông đã ký hòa ước với Israel. Đó là thỏa thuận chết yểu mà chín tháng sau ông đã bác bỏ, dưới áp lực từ Syria. Khi cuộc nội chiến căng thêm, quân Israel rút khỏi vùng ngoại ô Beirut tới Sông Awali để cố hạn chế thương vong. Tuy thế, trong quá trình này, họ thấy nhiều làng Kito giáo bị lúc tàu chiến Mỹ nã pháo vào từ ngoài khơi.
Một kẻ thù mới đã nổi lên từ phản ứng thù địch của người Lebanon mà quân Do Thái đã khuấy lên: "Đảng của Chúa" (Hizbollah), phong trào Hồi giáo dòng Shi’te cực đoan được truyền cảm hứng từ cuộc cách mạng của Iran. Hizbollah theo phương kế đánh bom tự sát bằng xe, giết chết lính thủy đánh bộ của Mỹ ở Beirut và 30 lính Israel ở Tire hồi cuối năm 1983.
Ngày 15 tháng Chín 1983, Begin làm nội các của ông kinh ngạc khi tuyên bố từ chức. Ông nói: "Tôi không thể tiếp tục được nữa". Nó thường được cho rằng những cuộc phản kháng chiến tranh hàng ngày bên ngoài cửa sổ nhà ông đã làm vị Thủ tướng mất tinh thần. Yitzhak Shamir, lãnh tụ của phong trào bí mật Lehi, được bầu thay Begin. Ông đưa đảng Likud vào cuộc bầu cử năm 1984, dẫn đến sự liên kết giữa đảng Likud và Lao động. Một chính phủ thống nhất dân tộc được hình thành và Shimon Peres, lãnh tụ đảng Lao động làm Thủ tướng phiên hai năm đầu. Với hơn 650 lính Israel bị giết, ông kết thúc nỗi đau bằng cách rút quân vào tháng Giêng 1985 vào "vùng an toàn" hạn chế, vùng đệm rộng hơn chín dặm có quân Israel và lực lượng dân quân khách, quân của miền Nam Lebanon, tuần tra. Châm ngôn trên cửa miệng hồi thập niên 1980 là: "Sau khi chúng ta đưa Lực lượng Phòng thủ Israel ra khỏi Lebanon, chúng ta sẽ phải đưa Lebanon ra khỏi Lực lượng Phòng thủ Israel." Những bài ca hùng tráng và thắm tình đồng đội xưa kia của quân đội bị bài hát nhại cay đắng của trẻ con thay vào: "Xuống đây với chúng ta, máy bay ơi/ Đưa chúng ta tới Lebanon/ chúng ta sẽ chiến đấu vì Sharon/ Và chúng ta trở về trong cỗ quan tài".
Tuy nhiên, việc phá hoại cơ sở hạ tầng cơ sở của PLO ở Lebanon không loại bỏ được vấn đề của phong trào dân tộc Palestine. Trên thực tế, có lẽ còn giúp người Israel hiểu rõ hơn. Với sự sụp đổ giấc mộng giải phóng từ nước ngoài, hoặc bởi các chiến binh PLO ở Lebanon hoặc bởi quân đội của các nước Ả Rập, người Palestine ở Bờ Tây và Dải Gaza bắt đầu nhìn vào trong. Suốt năm 1987, có sự gia tăng mạnh những cuộc biểu tình và bạo loạn của người Palestine, được nhấn mạnh bằng những cuộc tấn công của chiến sĩ du kích. Ngày 8 tháng Mười Hai 1987, bốn công nhân ở Dải Gaza bị giết chết trong một tai nạn giao thông. Tin đồn lan nhanh là họ bị quân Israel chủ tâm giết. Dải Gaza náo loạn lên và nhanh chóng lan tới Bờ Tây. Cuộc nổi dậy ồ ạt, được gọi là Intifada, phát sinh.
Chính quyền Israel, và cả PLO, không hiểu ý nghĩa của những phản kháng đã nổ ra, hầu như hoàn toàn bất ngờ. Sự nổi dậy hoành hành khoảng năm năm trước khi đuối dần hồi thập niên 1990. Intifada là một chiến dịch rộng lớn của nhưng cuộc bạo loạn, đình công, và tẩy chay hàng ngày. Những vụ việc xảy ra có thể là những khẩu hiệu xịt bằng sơn hay ném đá vào binh lính Israel được viện lẽ là giết những kẻ cộng tác. Cuối cùng nó biến thành cuộc đấu tranh vũ trang. Intifada thường gây tổn thất cho người Palestine hơn là cho người Israel, nhưng nó tạo nên cảm thức dân tộc đang thức tỉnh vạ chuyển thành trung tâm thu hút của hoạt động chính trị của Palestine tới Bờ Tây và Dải Gaza. về phần họ, người Israel bị choáng váng vì ảo tưởng mà người Palestine đã chịu chấp nhận là sự chiếm đóng "khai sáng."
Cuộc chiến Yom Kippur khiến người Israel vấn nạn về năng lực của quân đội và chính quyền của họ, cuộc chiến Lebanon làm họ ngờ vực đạo lý của nó, và Intifada khiến họ thừa nhận sự vô ích của nỗ lực chối bỏ sự tồn tại của người Palestine như một dân tộc riêng.
Những cảnh ném đá binh lính xảy ra hàng ngày làm cho người Israel hết sức lo lắng. Khi Yitzhak Rabin, bộ trưởng quốc phòng trong chính phủ thống nhất, kêu gọi binh lính "bẻ xương bọn chúng", nhiều lính đã làm thế trước ống kính truyền hình. Là lực lượng được trang bị mạnh nhất ở Trung Đông, hiện thân của mọi thứ được coi là cao cả trong phong trào Phục quốc Do Thái-một quân đội của "chủ nghĩa nhân văn và chiến binh" như Ben-Gurion đã diễn tả-bị buộc phải săn đuổi, đánh đập, và bắn giết những trẻ em cùng cực Ả Rập khắp các khu ổ chuột của Gaza. Sự nhẫn tâm của việc chiếm đóng quân sự, sự tra khảo được hợp pháp hóa được Shin Bet (cơ quan tình báo quốc nội) và tình trạng dơ bẩn của các trại tị nạn Palestine thúc giục nhiều người Israel tái thẩm tra lời biện hộ của họ khi nắm giữ các lãnh thổ bị chiếm đóng. Những người ném đá không làm cho người Israel phải chết và sự chiếm đóng dường như chỉ làm đồi bại xã hội Israel. Con số đáng kể những binh lính, thường là quân dự bị, đã cự tuyệt phục vụ ở Lebanon hay các lãnh thể chiếm đóng. Nhiều người đã bị tù tội vì sự bất tuân của họ, nhiều người khác tìm cách trốn chui trốn nhủi ở nhà.
Các sử gia, các văn sĩ, những nhà làm phim, các phóng viên và nhiều người khác-chủ yếu là những người Israel trần tục nằm ở phía trái phạm vi-bắt đầu thách thức những điều chắc chắn, những giáo điều, và những huyền thoại xa xưa trong quá trình được dán nhãn "hậu-Phục quốc" (thuật ngữ xuất hiện lần đầu vào thập niên 1960). Những thần tượng như Ben-Gurion, Moshe Dayan, và Trumpeldor đã bị đánh bại. Cuộc chiến giành Độc lập, Masada, Ha-Tikva (quốc ca), và cả nạn tàn sát người Do Thái được xem xét lại theo ánh sáng mới khắc nghiệt và phê phán. Khảo cổ học mà các phát hiện của nó ủng hộ rộng rãi những trình thuật truyền thống về việc chinh phục vùng Đất Hứa của dân Do Thái, cũng được đưa ra khảo sát kỹ lưỡng hơn, với những nghi vấn được nêu lên về tính xác thực của David và Solomon, trong số những người khác. Việc tự cho là đúng nhường chỗ cho sự tự ngờ vực. Thay vì vững vàng như tấm gương về lòng nhân đạo, ngày nay người Israel hấp thu vội vã những xu hướng mới nhất từ phương Tây. Nhiều người Israel mệt mỏi vì chiến tranh và không còn muốn là dân tộc anh hùng.; họ muốn hưởng những thú vui vật chất của cuộc sống trong một đất nước "bình thường" hơn được hòa nhập với thế giới phương tây.
Sức mạnh quân sự của Israel bảo đảm sự tồn tại của đất nước, nhưng hòa bình và sự ổn định không thể duy trì lâu dài được mà không chịu chấp nhận phong trào dân tộc của Palestine. Sức mạnh làm thoái chí được tán tụng rất nhiều của nó trở thành vấn đề trong Cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1991 khi Israel bị nhiều tên lửa Scud được lắp các đầu đạn thường tan công. Mặc cho những lời đe dọa úp mở của Thủ tướng Yitzhak Shamir trả đũa bằng vũ khí hạt nhân nếu cần, quân đội Israel chí có thể co cụm trong thất vọng và nhìn các đồng minh do Mỹ chỉ huy đánh tan tác các lực lượng của Baghdah.
Cuối thập niên 1990, con số đáng kể những người Israel bắt đầu suy nghĩ về điều không thể hình dung nổi-những cuộc thương lượng với PLO và một loại nhà nước Palestine nào đó ở Bờ Tây và Dải Gaza. Nói cách khác, họ đã quay về điểm xuất phát, trở lại với ý tưởng của sự chia cắt, được Liên Hiệp quốc đưa ra lúc đầu vào năm 1947. Phong trào hòa bình vận động để Israel rút khỏi Bờ Tây và Dải Gaza. Sự đánh giá lại này được trợ giúp nhờ sự tiết chế của PLO, được nói rõ hơn bao giờ hết ý tưởng về giải pháp hai quốc gia thay vì ảo tưởng tiêu diệt Israel. Năm 1992, những ý tưởng như thế đã trở thành xu thế chủ đạo trong cánh tả-trung tâm. Yitzhak Rabin được bầu với hứa hẹn giảng hòa với người Palestine và những người Ả Rập khác trong khi vẫn duy trì an ninh.
Trong số các thành viên mới của quốc hội có Yael Dayan, con cả trong số ba người con của Moshe Dayan và là thế hệ thứ ba của dòng tộc làm việc trong Hội đồng Lập hiến Israel. Chị từng là người tham gia nhiều chiến dịch hòa bình lỗi lạc. Chị phê bình Rabin đã trục xuất 400 nhà hoạt động xã hội Hồi giáo người Palestine hồi cuối năm 1992. Trong khi Moshe Dayan muốn người Israel sống và tiến dần lên những vùng biên giới nguy hiểm của Israel, con gái ông bảo rằng họ biết rõ phải bỏ trốn khỏi Tel Aviv lúc tên lửa Scud tấn công. Đầu năm 1993, Yael bay tới Tunis để gặp Yasser Arafat. Chị tuyên bố rằng ông ta không phải là hiện thân của Hitler như nhiều người Israel nghĩ, nhưng là "biểu tượng của hòa bình và thỏa hiệp”. Có lúc chị đã xúc phạm đảng của chị, nhưng trong vòng vài tháng chính phủ của đảng Lao động đã ký hòa ước Oslo với PLO cho phép Arafat thiết lập “quyền hành" ở Gaza và thành phố Jericho thuộc Bờ Tây. Trong nghi lễ ở tòa Bạch Ốc hồi tháng Chín 1993, không có gì hồ hởi hơn khi ba người Cater, Begin, Sadat bắt tay nhau thân thiện ở sân cỏ phía nam. Tổng thống Bill Clinton đứng lùi lại để các bên bắt tay nhau. Arafat tươi cười như đứa trẻ trong cửa hàng đồ chơi, trong khi Rabin trông như thể ông ta vừa nuốt viên dầu cá thu. Bộ trưởng ngoại giao của ông, Simon Peres, kiến trúc sư chính của bản hiệp ước, thân thiện bắt tay Arafat, như thể ông ta là Thủ tướng của Israel. Sau này, cuốn sách của Peres về tiến trình hòa ước Oslo có hình Clinton, Peres, và Arafat ở bìa, cùng với Rabin-sự kình địch lâu đời của ông ta với Peres là chất liệu của huyền thoại của đảng Lao động-trồi lên. Trong vòng một năm, Vua Hussein của Jordan cũng hòa hoãn, không muốn người Palestine tiến quá xa trước ông ta.
Sự thỏa hiệp lịch sử với người Palestine đưa đến cực điểm hung bạo những chia rẽ giữa những người Israel, ở đó một bộ phận quan trọng những người Do Thái trần tục đang trôi về "hậu-Phục quốc” nửa kia của Israel ngày càng mang tính dân tộc và tôn giáo, nhiệt tâm gắn với khái niệm ổn định khu trung tâm thánh kinh của "Judea và Samaria” Giờ nó diễn biến thành những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan khước từ gia nhập quân đội. Nhiều người coi những người cánh tả như Yael Dayan là kẻ thù. Chị đã xúc phạm những tình cảm tôn giáo của họ bằng những điệu bộ như huênh hoang đi tới bờ biển vào ngày Yom Kippur, gọi Vua David là người đồng tính luyến ái khi phát biểu ở Hội đồng Lập hiến Israel, và đòi quyền cho phụ nữ cầu nguyện theo kiểu không Chính thống ở Bức Tường phía Tây.
Khi cánh Tả bỏ rơi các thần thoại của chủ nghĩa Phục quốc Do thái, Cánh Hữu thừa nhận những biểu tượng khai phá cũ của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái của đảng Lao động-ổn cư, nghĩa vụ quân sự, và say mê khảo cổ học-và ấp ủ tính chiến đâu tôn giáo gợi nhớ chủ nghĩa cực đoan của Hồi giáo.
Người Do Thái phát triển thái độ trái ngược với Lực lượng Phòng thủ Israel. Họ lo lắng về chứng cứ định kỳ gây suy sụp các tiêu chuẩn và đạo lý, nhưng họ ngày càng do dự hy sinh bản thân để phục vụ trong quân đội. Động cơ thúc đẩy của các thanh niên, được đo lường bằng sự tự nguyện rời ghế nhà trường để gia nhập các đơn vị chiến đấu, đã sút giảm ghê gớm vào giữa thập niên 1990. Những đơn vị ưu tú, như không quân và lính dù, còn có được rất nhiều người tình nguyện, còn các đơn vị ít thanh thế hơn ít được quan tâm.
Việc trốn tránh nghĩa vụ quân sự trở nên dễ hơn, và người trốn quân dịch cảm thấy ít xấu hổ hơn. Gần nửa số người trong độ tuổi đi lính vì nhiều lý do không chịu lên đường; trừ những lý do đặc biệt như là người Ả Rập, hoặc những người không đủ điều kiện sức khỏe.
Chắt trai của Moshe Dayan, Aviv Geffen, thẳng thắn thừa nhận rằng anh đã trốn nghĩa vụ quân sự bằng cách dọa tự tử nếu anh ta bị bắt đi lính. Việc này đã có chút ảnh hưởng lên sự thành công của anh giữa những thanh thiếu niên hâm mộ, những người đều đặn đưa các kỷ lục của anh ở đầu bảng. Mặc cho bị phê phán là trốn nghĩa vụ, anh ta được mời để trình diễn ở buổi mít tinh nguy hiểm, nơi Yitzhak Rabin bị giết năm 1995. Bài hát của Geffen về người bạn đã chết, "Khóc thương anh" trở thành lời cầu nguyện lúc tang lễ cho lớp trẻ bị chấn thương bởi sự giết chóc.
Trong số những người Israel có tuổi hơn có sự do dự rõ ràng khi phải làm bổn phận dự phòng. Phần lớn gánh nặng đổ lên số tương đối ít những người đủ điều kiện nhập ngũ. Sự mất cân đối rành rành như thế đã gây ra sự oán giận gay gắt giữa những người còn đang hy sinh thời gian, nghề nghiệp, và cả sự sống của họ. Nhiều quân dự bị dứt khoát từ chối lệnh triệu tập. Không thể nói người Israel là không yêu nước. Họ chỉ không muốn bị cho là những thằng khờ (freierim).
Ngay cả các đơn vị đặc công đã sản sinh ra nhiều tướng lãnh của Israel thì xem chừng đã mất đi nét bí mật bộc lộ ởmnhững cuộc hành quân tài tình như vụ giải cứu Entebbe. Năm 1992, năm thành viên của nhóm bí mật Sayeret Matkal thời ấy, tương đương lực lượng không quân đặc nhiệm (Special Air Service-SAS) của Israel, bị giết chết khi nỗ lực ám sát mắc sai lầm. Các báo cáo mâu thuẫn nhau nói mục tiêu là nhắm vào Tổng thống Saddam Hussein của Iraq, hoặc có khi là lãnh tụ phong trào Đảng của Chúa của Li Băng, lãnh tụ Hồi giáo Hassan Nasrallah. Nhưng dù là bất kỳ ai là nạn nhân được dự tính, việc tiến hành bị bãi bỏ và các tướng lãnh Israel hục hặc với nhau, tìm cách tránh trách nhiệm.
Cơ quan tình báo Mossad đã một thời là truyền thuyết- "cánh tay dài" đáng gờm của Israel đã từng bắt cóc lãnh tụ Đức Quốc xã Adolf Eichmann ở Argentina năm 1960 và sục sạo khắp thế giới để ám sát các lãnh tụ của Palestine-đã bị coi là kém hơn các mật thám Keystone sau một loạt hoạt động vụng về hồi cuối thập niên 1990.
Tháng Chín 1997, hai nhân viên mật vụ Mossad tổ chức cuộc tấn công kỳ quái nhằm giết Khaled Meshal, lãnh tụ chính trị của Hamas, nhóm chiến binh Palestine lãnh trách nhiệm đánh bom tự sát ở Israel. Dự tính là sẽ lướt qua Meshal rồi xịt chất độc vào ông ta. Hai nhân viên này mang hộ chiếu giả của Canada, đã bị bắt sau khi cãi nhau inh ỏi với tài xế của Meshal. Israel bị buộc phải nộp tiền chuộc hai nhân viên bị cầm tù bằng cách trưng ra cái trừ tà để cứu sự sống của Meshal và giải thoát lãnh tụ tinh thần của Hamas, giáo chủ Ahmad Yassin. Tin tệ hại hơn xảy ra ba tháng sau, khi có tin là Yehuda Gil, một trong những sĩ quan được trọng vọng nhất của Mossad, đã trình bày những báo cáo giả về Syria trong hơn hai thập niên. Sự dối trá của ông ta có thể tìm thấy từ cuốn Người của chúng ta ở Havana của Graham Green, bao gồm những báo cáo cho rằng Damacus đang huy động quân ở Cao nguyên Golan và đưa ra lời báo động chiến tranh hồi năm 1966.
Những rủi ro không được biết đến ngay trong thời thần thoại về quân lực Israel. Chúng được che dậy bằng sự thông đồng của báo chí dễ sai khiến. Ngày nay, những thất bại của tể chức an ninh được phơi bày và công khai hóa trong xã hội chứ không còn chấp nhận lớp phủ bí mật của chính quyền và không còn coi các tướng lãnh và điệp viên là những á thần.
Salah Ta'mari nhớ rõ cái ngày định mệnh hồi tháng Sáu 1967 khi ông mở đài BBC. Thay vì tin đại thắng của đài phát thanh Ả Rập, anh ta nghe giọng của Moshe Dayan phát từ cổ Thành Jerusalem, thành phố đã rơi vào tay quân Israel.
Ta'mari nhớ lại, đó là giây phút choáng ngợp và hoài nghi, bước ngoặt của cuộc đời của anh. Phần cuối cùng của Palestine đã bị mất. Người Ả Rập đã thất bại; thuyết liên-Ả Rập của Gamal Abdel-Nasser, thuyết đã mê hoặc cả một thế hệ, chứng tỏ là rỗng tuếch. Người Palestine chỉ còn cậy nhờ vào chính họ. Ta'mari dẫn giải: “Thế giới của chúng ta bị đảo lộn, các giấc mơ của chúng ta bị tan tành chỉ trong vài giờ. Tôi rời Đại học Cairo khi đang học năm cuối và cầm súng. Tôi trở thành người làm việc trọn ngày ở Al-Asifa, cánh quân của Fatah. Nếu không có sự cố năm 1967, chẳng bao giờ tôi nghĩ đến chuyện gia nhập quân đội. Tôi muốn ở lại Bethlehem nơi tôi đã sống. Tôi muốn trở thành một thầy giáo, có thể là nhà văn. Phần lớn những người cầm súng như chúng tôi là giới trí thức”.
Lần đầu tiên tôi gặp Ta'mari ở con dốc lộng gió thuộc Jabal Abu Ghneim, ngọn đồi rậm cây ở ranh giới Jerusalem và Bethlehem do Israel kiểm soát, khi vào những năm đó anh lãnh đạo cái còn được gọi là những cuộc tuần hành hòa bình phản kháng việc xây dựng vùng lân cận mới Har Homa của Israel.
Với vóc dáng to khỏe ấy, Ta’mari, một chỉ huy quân sự thâm niên của PLO ở Jordan và Lebanon, giờ là nhà hoạt động chính trị. Sau hơn ba thập niên bị lưu đày, Ta'mari trở về Bờ Tây với những người tùy tùng của Arafat sau hiệp ước Oslo. Anh bị loại khỏi danh sách chính thức của Fatah trong cuộc tuyển cử hội đồng Palestine năm 1966, nhưng trở thành người độc lập và đứng đầu danh sách ứng cử ở Bethlehem.
Tuần qua tuần, anh lãnh đạo các nhóm tuần hành phản kháng từ Bethlehem lên đỉnh đồi Jebal Abu Ghneim để biểu thị sự thất vọng của người Palestine về "việc Do Thái hóa" Jerusalem. Và việc mở rộng khu định cư nói chung. Anh dẫn giải: "Khi còn là những đứa trẻ, chúng tôi thường chơi ở ngọn đồi này". Thật là một nỗ lực vô cùng khốn khổ và thất bại. Dù là điều sỉ nhục quốc tế, Israel đưa vào những chiếc xe ủi đất để chia cắt ngọn đồi rậm cây. Ta'mari luôn được coi là một trong vài nhân vật có uy tín của PLO ở Bờ Tây, con người hành động hơn là đưa ra những lời buộc tội dài dòng.
Ta'mari đúng là nhà lãnh đạo nổi tiếng. Cái tên Salah Ta’mari được bắt nguồn từ Saladin (Salah al-Din, người đã tái chiếm Jerusalem từ tay quân Thập tự chinh). Trong lời nói đầu cho cuốn Cô bé bán hàng rong, John Le Carré tán dương lòng dũng cảm của Ta'mari và cám ơn anh vì "đã cho tôi thấy trái tim của người Palestine". Aharon Barnea, nguyên phóng viên sự vụ về Ả Rập của đài phát thanh Israel, và vợ ông ta là Amalia, đã viết cuốn Kẻ thù của tôi, một trình thuật nói lên sự mê hoặc và tình bạn của họ với Ta'mari sau khi quân Israel bắt anh ta ở Lebanon.
Ý thức chính trị của anh được hình thành ở Quảng trường Manger ở Bethlehem, tỉnh được pha trộn tư tưởng Kito-Hồi giáo trong thuở thiếu thời của anh. Ở đó, lúc là cậu bé năm tuổi, anh đã thấy những người tị nạn Palestine chạy trốn cuộc giao tranh giữa Ả Rập và Israel. Trong thập niên 1950, các cư dân tập trung ở quảng trường để gây quỹ cho cuộc cách mạng Algeria, các phụ nữ tháo nữ trang của họ vì đại nghĩa. Được kích thích bởi chủ nghĩa dân tộc Ả Rập, năm 1955 ông gia nhập hội cựu sinh viên biểu tình chống Hiệp ước Baghdah do Mỹ sản sinh ra, một liên minh địa phương phò-phương tây trải dài từ Pakistan tới Thổ Nhĩ Kỳ để kìm chân Liên Xô. Cảnh sát Jordan nổ súng bắn chết các bạn của Ta’mari. Anh nói: "Ngày đó chúng tôi được thanh tẩy trong lửa đạn và thành người trưởng thành". Một năm sau, anh bị cảnh sát tống ra khỏi quảng trường để chuẩn bị cho Nữ hoàng Dina của Jordan tới. Ta'mari nhắc lại: "Tôi ghét bà ta", mà lúc đó không nhận ra rằng một ngày nào đó bà ta sẽ trở thành vợ của anh.
Năm 1963 Ta'mari tới đại học ở Cairo, nơi anh đã học văn chương Anh và trở thành tổng thư ký của Liên hiệp Sinh viên Palestine, tổ chức hợp pháp duy nhất của Palestine lúc ấy. Trước đó nó được sinh viên khoa công trình tên là Yasser Arafat lãnh dạo. Năm 1953, Arafat ướm thử bước vào vũ đài chính trị với tờ kiến nghị màu mè được viết bằng máu, nói với lãnh đạo Ai Cập: "Đừng quên Palestine."
Ta'mari theo dõi hội nghị thành lập Tổ chức Giải phóng Palestine vào tháng Năm 1964 ở khách sạn Đại sứ, nằm ở Đông Jerusalem do quân Jordan kiểm soát. Tổ chức được Liên minh Ả Rập dựng nên, theo chỉ thị của Tổng thống Nasser của Ai Cập, để đại diện quyền lợi của người Palestine. Đối với nhiều người, đó quả là giây phút sôi nổi, dù rằng PLO, trong chính hiện thân gốc của nó, là một lực lượng không mạnh được một luật sư và là nhà ngoại giao, Ahmad Shukayri, lãnh đạo.
Yasser Arafat hình thành nhóm "Fatah" của ông (từ cấu tạo bằng những chữ đầu có nghĩa là "sự Chinh phục"), được bắt nguồn bởi sự đảo ngược các chữ đầu của Phong trào Giải phóng Palestine) năm 1959 với một nhóm nhỏ bạn bè ở Kuwait, nơi ông hành nghề kỹ sư trong ban công trình công cộng của tiểu Vương quốc Ả Rập. Họ thành lập một ấn bản nhỏ, Filastinuna, "Palestine của chúng ta," đòi giải phóng Palestine, phê phán các chế độẢ Rập không dám hành động, và kêu gọi người Palestine cầm súng. Fatah tin rằng các bài học đấu tranh vũ trang đánh đuổi người Pháp ra khỏi Algeria có thể áp dụng cho Palestine được, nhưng ý tưởng của nó đi ngược lại niềm tin hiện hành là trước hết các nước Ả Rập phải đoàn kết lại trước khi họ có thể tính đến chuyện giải phóng Palestine.
Fatah có các cuộc tiếp xúc sơ bộ với các tổ chức cách mạng anh em ở châu Âu, Algeria, Trung Hoa và cả với Che Guevara. Nhưng Fatah vẫn là một nhóm tương đối mờ nhạt, nghèo về ngân quỹ cũng như vũ khí, dù nó đã kêu gọi sự giúp đỡ cho cuộc chiến tranh nhân dân chống lại chủ nghĩa Phục quốc Do Thái. Những cuộc tấn công băng qua biên giới hồi đầu vào năm 1965 còn yếu. Cuộc đột kích đầu tiên bị chính quyền Lebanon chặn đứng, mặc dù tờ truyền đơn trang trọng loan báo rằng "quân tiên phong cách mạng của chúng ta đã xuất kích", "Liệt sĩ" đầu tiên của Fatah không bị quân Israel giết chết mà là các lính biên phòng Jordan.
Chiến dịch vũ trang, được trù tính phần nào để khiêu khích cuộc chiến Ả Rập-Israel, đã kéo sự đáp ứng thù địch từ nhiều chính phủ Ả Rập. Một số coi những kẻ nổi dậy là các mật vụ của Cộng sản; Ai Cập tố giác họ là bộ phận của âm mưu quỷ quyệt của các lực lượng phương tây và tổ chức Phục quốc Do Thái để cho Israel cái cớ tấn công các nước Ả Rập. Nhưng rồi những cuộc tấn công bắt đầu lôi cuốn óc mường tượng của một số nước Ả Rập, và các lãnh đạo đã mở hầu bao của họ. Cách riêng các lãnh đạo Saudi, cảm kích trước những mối quan hệ trước đây của Arafat và những lãnh đạo khác của Fatah với hội Ái hữu Hồi giáo, phong trào phục hưng Hồi giáo. Nhưng Syria, nước đã bảo trợ các hoạt động lúc đầu của Fatah, giờ quay ra chống Arafat và năm 1966 đã bắt ông ta ở Damacus.
Những nhà cách mạng Palestine nhanh chóng khám phá ra rằng họ không chỉ phải đánh nhau với quân Do Thái; họ còn phải vận động những cơn thủy triều của đời sống chính trị Ả Rập đầy bất trắc. Đôi khi những kình địch giữa các chế độ Ả Rập có thể mang lại cho người Palestine những cơ hội quan trọng; lúc khác chúng lại có thể gây ra sự đe dọa còn nguy hiểm hơn các lực lượng vũ trang Israel.
Cuộc chiến Sáu Ngày đã làm biến đổi bản đồ chính trị của Palestine. Trong một lần gặp Arafat, George Habash, lúc ấy là mọi nhà hoạt động xã hội trẻ, đã chán chường thốt lên: "Thế là mất tất cả". Arafat đã trả lời một cách khác thường: "George, anh sai rồi. Đấy chưa phải là kết thúc. Đấy là khởi đầu".
Nỗi nhục của người Ả Rập do Israel gây ra là cơ hội để người Palestine lên tiếng đòi độc lập. Chủ nghĩa dân tộc của Nasser bị tiêu tan. Trong những ngày kết thúc cuộc chiến, các lãnh đạo của Fatah đã gặp nhau ở Damacus và quyết tâm tiếp lục cuộc đấu tranh vũ trang. Arafat và những người theo ông lén qua phòng tuyến của Israel và thâm nhập Bờ Tây, tìm cách thành lập các nhóm du kích bí mật dọc theo phòng tuyến theo học thuyết của Mao Trạch Đông cho rằng cách mạng phải có thể hoạt động giữa nhân dân "như cá ở trong nước".
Tuy nhiên, phần lớn Bờ Tây quá ấn tượng vì sự chiếm đóng để tính chuyện vũ trang chống lại quân Israel. Sau khoảng một năm không tính được, Fatah đã thay đổi chiến thuật và thử bằng cách đánh rồi rút từ bên ngoài biên giới của Israel. Hành động thách thức của nó đã có tác dụng kích động lên những người Palestine thoái chí. Các chí nguyện quân và tiền bạc bắt đầu đổ vào các nhóm Palestine đang phát triển nhanh, Nhóm này ganh đua với nhóm kia đua nhau báo cáo thành tích quân sự anh hùng của mình, dù là thật, được thổi phồng, hoặc là hư cấu. Các chính phủ Ả Rập dần dần bị cuốn hút vào sự xung khắc, mở các biên giới và kho bạc của họ cho các nhà cách mạng Palestine.
Ngày 18 tháng Ba 1968. một chiếc xe buýt của Israel bị đánh bom do những chiến binh Palestine gài ở phía nam của đất nước. Một bác sĩ và một huấn luyện viên có mặt trong bữa tiệc của học sinh trung học đã bị chết cùng một số học sinh bị thương. Đó là vụ việc thứ 38 của Fatah trong vòng chưa đầy ba tháng. Israel quyết dạy cho người Palestine một bài học để làm gương. Sự thách thức cuối cùng của Arafat đã tới.
Những nhà cách mạng Palestine đã đọc những sách về chiến thuật du kích, như cách ngôn của nhà lãnh đạo quân sự của Bắc Việt Nam, Võ Nguyên Giáp. "Khi địch mạnh, ta tránh nó. Còn khi địch yếu, ta tấn công nó". Sau cuộc chiến Sáu Ngày, quân Israel rõ ràng đang mạnh. Nhưng người Palestine, biết thế nào Israel cũng sẽ tấn công, đã quyết định đánh vào sở chỉ huy chính của họ ở Jordan, Karameh. Họ đang phá vỡ mọi quy luật của chiến tranh du kích, nhưng Fatah buộc phải hành động.
Ta'mari nói trong cuộc họp các chỉ huy của Fatah: "Giờ chúng ta có nhiệm vụ phải đem lại tấm gương cho thế giới Ả Rập nói chung và cho nhân dân Palestine nói riêng. Nếu chúng ta còn và chiến đấu, chúng ta có thể thuyết phục thế giới là, chúng ta không chỉ là "những tên khủng bố" mà còn là các chiến binh, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho tổ quốc. Nếu chúng ta bỏ trận địa từ đầu, nó sẽ là tai họa cho hình ảnh của chúng ta".
Rạng sáng ngày 21 tháng Ba quân Israel thả các tờ truyền đơn khắp Karameh. Lính dù của họ không thể hạ xuống đất đúng lúc vì sương mù, và không thể cắt đứt những con đường thoát trước khi Arafat trốn vào chiếc xe mô tô. Quân dù bất ngờ xuất hiện dưới làn đạn của những người của George Habah đang ẩn trong các hang, trong khi lực lượng chính đương đầu với hỏa lực mạnh kinh khủng của các đơn vị Jordan. Hơn nữa, Fatah buộc quân Israel chiếm từng con đường của Karameh. Cuối cùng, quân Israel phá thành phố, giết chết 120 người của Fatah và bắt đi cũng khoảng số tù binh như thế. Isarel bị chết 28 người trước khi thoát ra, bỏ lại một số tử sĩ và thiết bị trên chiến trường. Ta'mari thoát chết nhờ ẩn dưới cái bàn trong nhà khi các công binh Israel cho nổ tòa nhà.
Karameh liền trở thành điển hình về lòng dũng cảm trong huyền thoại Palestine. Chưa đầy một năm sau, quân phối hợp của Ả Rập bị quân Israel áp đảo trong Cuộc chiến Sáu Ngày, các chiến binh Palestine đã cầm cự chống lại kẻ thù mạnh hơn. Các du kích cách mạng nắm Tổ chức Giải phóng Palestine, hạ bệ lãnh tụ của nó, Ahmed Shukayri và "thế hệ chủ bại", viết lại tuyên ngôn: "Đấu tranh vũ trang là con đường duy nhất để giải phóng Palestine". Arafat trở thành lãnh tụ của PLO, và là lãnh tụ lịch sử thứ hai của người Palestine sau Haj Amin al-Husseni.
Karameh không phải chiến thắng ở trận địa, nhưng là sự sống sót chống lại sự chênh lệch áp đảo. Nó đặt người Palestine trở lại bản đồ chính trị của Trung Đông. Chiến dịch du kích thực ra chẳng bao giờ là nỗ lực để chinh phục Palestine: nó là lời tuyên bố về sự tồn tại của người Palestine như một dân tộc bị tước quyền sở hữu.
Đấu tranh vũ trang trở thành một thứ gần như tôn giáo đối với người Palestine lưu vong, luôn hy vọng rằng một ngày nào đó họ trở về quê nhà. Nó ban cho họ cảm thức rằng họ còn có thể làm chủ vận mệnh của họ. Hàng ngàn người Palestine, nhiều người trong số họ đã bỏ học, hăng hái tình nguyện tham gia cách mạng. Những chính phủ mà cho đến nay vẫn nản chí sẵn sàng bảo trợ và góp tiền bạc cho những vị anh hùng mới. Sau Karameh, Vua Hussein của Jordan tuyên bố: "Tất cả chúng ta là du kích quân Palestine" (tedayin).
Nhưng hai năm sau, quyền hành đang vuột khỏi tay của quốc vương vào vô số nhóm cách mạng Palestine, các thành viên của họ với vũ khí trong tay nghênh ngang qua các đường phố Amman, treo các biểu ngữ Marx trên các nhà thờ Hồi giáo và bắt đầu chiến dịch không tặc và bắt cóc. Người Palestine công khai nói về việc tiếp quản đất nước như một phần của Palestine.
Sự đối đầu bất khả kháng đã diễn ra vào tháng Chín 1970. Vua Hussein lệnh cho quân đội của ông tiêu diệt người Palestine và hàng ngàn người chết trong cuộc nội chiến được gọi là "Tháng Chín Ảm đạm". Lực lượng Syria dọa can thiệp đứng về phe người Palestine, nhưng đã bị các xe tăng Jordan chặn lại, trong khi Israel huy động quân đội của nó để cảnh cáo Damacus đừng có mạo hiểm. Người Israel tự thấy mình rơi vào thế lạ khi nhận những tay súng Palestine thoát khỏi lực lượng của nhà vua.
Lúc đỉnh cao của cuộc chiến ở Amman, Ta'mari cưới Dina Abdel-Hamid, người đã bị Vua Hussein ly dị sau cuộc hôn nhân ngắn. Người Palestine thất trận trút cơn giận dữ lên thế giới bằng làn sóng khủng bố quốc tế dưới tên mã "Tháng Chín Ảm đạm". Các mục tiêu đầu tiên của nó là chế độ của Vua Hussein, nhưng các hoạt động còn trải rộng kể cả việc bắt con tin và giết các vận động viên ở Thế vận hội 1972 tại Munich. Cùng lúc đó, cuộc biến động, do Cuộc chiến Yom Kippur gây ra, cú sốc do lệnh cấm vận dầu của Ả Rập, và sự ủng hộ ngày càng tăng của các nước thuộc Thế giới Thứ Ba đem lại những kết quả ngoại giao quan trọng cho Arafat. Trong đợt tuyên truyền chính trị, ông được mời đọc bài diễn văn trước Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc năm 1974.
PLO xây dựng lại lực lượng của nó ở Lebanon nhưng thúc đẩy đất nước trượt theo hướng nội chiến. Với sự xâm chiếm Lebanon của Israel, PLO bị buộc phải rời Beirut, Khi lên tàu, Arafat nói với đám thính giả hoài nghi của ông: "Chúng ta sẽ về Jerusalem".
Ta'mari đã đầu hàng quân Israel ở Sidon, và sớm đặt mình là lãnh đạo của những người phản đối nhà tù trong trại Ansar. Trong cuốn Người Ả Rập và người Do Thái, tâm trạng đau buồn ở vùng Đất Hứa, David Shipler, nguyên phóng viên của tờ Nữu ước Thời báo, mô tả Ta'mari là tuyên truyền viên Palestine yếm thế và hời hợt. Khi gặp ông lúc thăm Ansar, ông cảm thấy bị xúc phạm bởi cảnh tượng các tù nhân đang hát "Ansar là Auschwitz".
Suy tàn trong cảnh lưu vong ở Tunis, PLO lại hoạt động bằng cuộc Nổi dậy Palestine, cuộc nổi dậy đã lôi cuốn PLO, chẳng khác gì sự ngạc nhiên của người Israel và phần còn lại của thế giới. Người Palestine lại đưa những bất bình của họ vào các bản tin truyền hình hàng ngày. Năm 1988, PLO công bố quái gia không hiện tồn của nó và Arafat bắt đầu thực hiện
năng kiến ngoại giao mới trong đó ông thừa nhận quyền tồn tại của Israel và thừa nhận thái độ hoài nghi phổ biến, phản đối công khai chính sách khủng bố.
Trong tiếng Anh nói sai của Arafat lại như thể là phản đối "ngành du lịch".
Mỹ mở cuộc đối thoại chính thức với PLO, nhưng vào năm 1990, Arafat hầu như làm sụp đổ PLO do ủng hộ Saddam Hussein xâm chiếm Kuwait, cho rằng người Palestine ở "cùng chiến hào" với người Iraq. Đề nghị của Saddam là sẽ rút khỏi Kuwait một khi Israel rút khỏi những lãnh thổ chiếm đóng đã biến ông thành vị cứu tinh giả của người Palestine. Nhưng Arafat đánh cược vào con ngựa tồi. Khi quân đội của Saddam bị liên minh quốc tế do Mỹ lãnh đạo đẩy lùi, nguồn tài chính quan trọng từ các quốc gia dầu hỏa vùng Vịnh bị cắt. Hàng trăm ngàn người Palestine bị đuổi khỏi Kuwait được giải phóng, nơi khai sinh phong trào Fatah của Arafat.
Nhưng Cuộc chiến Vùng Vịnh là khởi điểm cho một quá trình chính trị đã đưa ông Arafat tới gần việc thành lập một nhà nước nhỏ, nhưng có thật. Người Mỹ lôi kéo Thủ tướng Israel, Yitzhak Shamir, tới hội nghị hòa bình Madrid. Nó là cái giá chính trị cho sự ủng hộ của Ả Rập trong cuộc chiến chống lại Iraq, nhưng sau đó vị Thủ tướng lỡ lời nói rằng ông sẽ kéo dài cuộc thương lượng mười năm nếu cần nhưng ông đã thất cử vào năm sau.
Chính Thủ tướng Yitzhak Rabin đã ném dây an toàn cho Arafat. Cuộc bầu cử của chính phủ đảng Lao động ở Israel năm 1932 đã lót đường cho hiệp ước Oslo vào năm sau. Sự thỏa thuận yêu cầu một giai đoạn năm năm tự trị tạm thời và được phỏng theo sát với hiệp ước Trại David năm 1978 giữa Israel và Ai Cập, một lần nữa đã bị người Palestine chửi rủa một cách chua chát. Thành phần mới chủ yếu để Arafat có thể chấp nhận được là Israel thừa nhận PLO một cách chính thức như đối tác thương lượng của nó.
Đối với tất cả các năm đấu tranh vũ trang, Palestine có vài, nếu có thể nói được như thế, anh hùng quân đội theo nghĩa thông thường của từ này. Lịch sử của họ không là một lịch sử gồm những chiến thắng tự hào, nhưng là lịch sử gồm những thất bại quả cảm. Không có những Dayan, Rabin, hay Sharon cho một động thái không thắng trận đánh quy ước hay giải phóng bất kỳ phần lãnh thể nào của Palestine bằng sức mạnh quân sự.
Bài thánh ca của Palestine, "Quê hương ta, Quê hương ta" được dựa trên bài hát của Fatah, "Đặc công, Đặc công" Nhưng không có những người tinh thông quân sự trong số tập thể lãnh đạo của Palestine. Người Palestine nhìn họ không, như người Israel, là một dân tộc có những chiến binh xuất sắc, nhưng là dân tộc của những liệt sĩ.
"Hãy nhìn ngắm thân thể của liệt sĩ..." thi sĩ Abdel-Rahim Mahmoud đã viết trong tiền bán thế kỷ XX:
... nằm ườn trên cát, bị kền kền tấn công,
máu họ nhuộm đỏ trái đất,
những làn gió bấc thổi tới mang theo hương thơm.
Vầng trán rạng rỡ của họ phủ cát hình như chỉ tỏa sáng hơn.
Nụ cười trên môi họ
xem khinh cuộc sống trần thế,
còn giấc mơ về vĩnh cửu
định hình những cảnh mộng hạnh phúc.
Tôi bảo đó là cách con người PHẢI chết...
Nhiều trong những nhân vật được ngưỡng mộ nhất của Palestine hiện nay thì đã có thời phục vụ trong các nhà tù Israel. Theo định nghĩa họ là những người tồi, nhưng người Palestine quả cảm là người rút ra được một loại chiến thắng biểu tượng nào dó từ sự thất bại. Sự sống sót chống lại sự chênh lệch là sự thành công lớn nhất của phong trào Palestine.
Năm 1998, khi ngồi ở văn phòng tại Bethlehem, tôi hỏi Ta'mari là liệu sự chiến đấu, đổ máu và đau khổ có bõ công không. Anh ta bảo, trước hết học cách sử dụng các loại vũ khí là điều quan trọng cho sự sống còn của người Palestine. vấn đề huấn luyện quân sự cho trẻ em từng là điều cấm kỵ cho tới năm 1976, khi các du kích quân Kito giáo tàn sát hàng ngàn người Palestine ở trại tị nạn Tel al-Zaatar. Sau đó, cả trẻ em cũng trở thành chiến binh.
"Mọi người trên 14 tuổi đều được huấn luyện quân sự để bảo vệ trại tị nạn của họ" Ta'mari nói. "Ở Sabra và Shatila chúng tôi có một trại thanh niên lớn. Chúng tôi đã thành lập một trong những ban kèn hay nhất, và họ bị giết trong cuộc tàn sát. Nhưng thanh niên trong đội quân sự đã sống sót".
Thứ nữa, những năm tháng đánh bom và tấn công du kích đã có mục đích chính trị. "Cuộc đấu tranh vũ trang" Ta'mari nói, "là con đường của người trẻ để lôi kéo sự chú ý đến tình cảnh của họ, nhất là khi một người bị choáng ngợp bởi sự tuyên truyền để biến trắng thành đen và đen thành trắng. Đôi khi ông không thể chịu đựng được để xem truyền hình vì hình ảnh của chúng tôi hiện ra như bức tranh kỳ cục. Ông chỉ gào lên và bứt tóc. Những người trẻ Palestine gào lên khi đánh bom. Đôi khi việc đánh bom thì dễ hơn việc phải đau khổ để giải thích cho một người Mỹ hay châu Âu ngu ngốc nào đó là người Palestine có những quyền hợp pháp.
"Sự thể là chúng ta ở đây là bằng chứng để chúng ta làm cho thế giới nghe chúng ta. Sự thể là các quốc gia trên thế giới thừa nhận PLO là chứng cứ nói lên rằng chúng ta đúng"
Khi tôi gặp Ta'mari năm 1998, trạng thái hớn hở của người Palestine trước đột phá ngoại giao đã nhường chỗ cho sự mệt mỏi vì sự cực nhọc thương lượng, và sự vỡ mộng trước nạn tham nhũng, những lề thói độc đoán, và tình trạng bất tài của chính quyền Palestine của Arafat. "Có lẽ chúng tôi đã quá tiểu thuyết hóa mọi sự. Khi nó suy đồi như thế, nó không còn là cách xử sự lãng mạn trước các vấn đề như nước thải, thuế má, tiền lương, và nạn thất nghiệp" Ta'mari trầm ngâm nói.
Ta'mari chậm rãi nói, nhìn lên trần nhà để tìm những từ cho đúng. Anh bảo, Oslo vẫn khó hiểu với sự bất công. "Ông không thể hiểu nó khó và khắc nghiệt thế nào để mặc cả vùng đất nơi anh được sinh ra và trải qua thời thơ ấu. Họ đang mặc cả với ông điều gì đó chính là con người của ông; nó khác gì yêu cầu ông cắt cánh tay hay ngón chân. Sự thể khi chúng tôi tán thành Oslo không có nghĩa là họ đúng. Chúng tôi chịu sự áp lực lớn. Chúng tôi muốn làm cho con cháu của chúng tôi tránh được những gì chúng tôi đã trải qua."
Theo quan điểm của Ta'mari, giải pháp hai quốc gia tự nó là bước chuyển tiếp. "Tôi không từ bỏ giấc mơ về một nhà nước dân chủ trên khắp Palestine nơi người Palestine-Do thái và không phải Do Thái-chung sống".
Ta'mari đã nổi tiếng là nhà phê bình "xây dựng" chính quyền Palestine. Anh than phiền về sự bất tài và biếng nhác của những nhà cầm quyền, nhưng rõ ràng vẫn tỏ ra kính trọng bản thân Arafat. Ta'mari đã lên tiếng cảnh báo, điều mà lúc đó tôi coi thường, là sự tận tụy của Arafat với giải pháp hòa bình là có điều kiện. Chiến tranh còn lâu mới chấm dứt. Ta'mari nói, "Giây phút ông ta mất niềm tin về thỏa thuận này, Arafat không thiếu dũng cảm khi bảo, ‘thỏa thuận đã không xong, chúng ta chẳng làm gì phải tuân thủ nó.’ Ông có lòng dũng cảm tuyệt vời, cả trong chiến tranh lẫn trong hòa bình."
Metulla là một trong những khu định cư xưa nhất của người Do Thái trên đất Israel, cuối dải hình ngón tay của lãnh thổ nhô vào Lebanon. Những ngôi nhà nhỏ của nó xây bằng gạch sẫm và lợp ngói đỏ có dáng vẻ châu Âu, hay ít ra khác với những ngôi nhà không phải của người Do Thái. Trung tâm thể thao của nó lộ ra sân băng trượt patanh trên tuyết là sự đố kỵ cho cả nước. Nó phình ra như một khu định cư chiến lược ở vùng biên giới hỗn loạn của Israel với Lebanon, một tiểu Việt Nam của Israel. Tôi ngạc nhiên trước khả năng của người Israel khi họ tỏ ra vẫn sinh sống bình thường trước sự khủng hoảng an ninh triền miên. Tôi từng ở Metulla nhiều lần để theo dõi sự xung đột kéo dài của Israel ở Lebanon.
Lebanon từng là chiến trường ủy thác cho cuộc chiến của Israel với Syria. Nơi là biên giới yên tĩnh nhất của Israel thuộc Cao nguyên Golan, Syria đã khuyến khích Đảng của Chúa (Hizbollah) gây rối người Israel ở Nam Lebanon. Các chuyên viên Israel bảo rằng quân Syria "sẽ đánh Israel cho tới người Lebanon cuối cùng". Israel không thể đánh bại Đảng của Chúa. Nó chỉ có thể giữ vững các vị trí của nó và cố hạn chế những tổn thất. Đảng của Chúa hoạt động trên lãnh thổ của nó và có được sự thừa nhận của dân chúng như một phong trào chiến đấu để giải phóng đất của người Lebanon bị chiếm. Hơn nữa, nó được Iran tiếp tế thông qua Syria. Nếu các thường dân Lebanon bị giết, Hizbollah có quyền trả đũa bằng các tên lửa Katyusha đánh vào các tỉnh thành của Israel.
Năm 1993 và 1996, Israel thử thay đổi "luật chơi" bằng cách bắn phá ồ ạt và có hệ thống miền nam Lebanon. Ngày 18 tháng Tư 1996, trong đợt bắn phá 16 ngày, đạn của Isarel rơi trúng khu của những người gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp quốc ở làng Qana, giết hại khoảng 100 người tị nạn Lebanon đang trú ở đó. Chính quyền Israel vặn vẹo bằng nhiều cách. Lực lượng Phòng thủ Israel nói rằng họ không nghĩ là có người tị nạn ở trong đó mà chỉ cố bắn phá những tay súng của Hizbollah gần đó. Việc sát hại chỉ là do sai lầm về tọa độ.
Anh lính 19 tuổi mà tôi gặp ở ổ pháo bảo, "Khi tôi nghe chuyện về Qana tôi hơi cảm thấy buồn, còn ông phải học để sống với nó. Một người khác nói chêm vào, "Rồi người ta quên nó thôi"
Hizbollah còn kinh khủng, kỷ luật, và tận tâm hơn các nhóm Palestine. Đúng đường lối giải phóng đất Lebanon của nó, nó không cố đột kích qua biên giới như kiểu Palestine, dù có khả năng nó đã thâm nhập vùng biên giới. Các mục tiêu của nó là quân sự, làm suy yếu tuyên bố của Israel là đánh "những kẻ khủng bố”.
Hizbollah bắn súng máy và súng cối vào những tiền đồn vững chắc, đặt bom điều khiển từ xa để phục kích các đoàn xe và nhóm tuần tra, có khi còn tìm thấy điểm yếu của xe tăng Merkava để đánh. Trung bình một năm Hizbollah giáng lên quân Israel từ 20 đến 30 tai họa. Tháng Tư 1999 nó công bố chiến tích quan trọng nhất của nó khi giết được thiếu tướng Erez Gerstein.
Cuộc tranh luận đụng phải các đường lối của đảng. Ngay cả Ariel Sharon, người đã ném Israel vào bãi lầy trước hết và nhiều năm chỉ trích đảng Lao động về chuyện rút khỏi Vùng An ninh hồi năm 1985, đã đưa ra những kế hoạch rút quân đơn phương từng giai đoạn khỏi Vùng An ninh. Vào cuối thập niên 1990, vấn đề không còn là liệu Israel nên rút quân hay không mà là rút khi nào và rút ra sao.
Người chỉ huy toàn diện phân khu Galilee chịu trách nhiệm về an ninh ở biên giới phía bắc Israel là Thiếu tướng Ephraim "Effi" Fein, người lâu nay được gọi bằng tên họ là Eitam, có vóc dáng to khỏe và hãnh diện với chòm râu đen dầy, cặp mắt nghiêm khắc. Nếu ông không mang phù hiệu của Lực lượng Phòng thủ Israel thì có thể nhầm ông ta là một chiến binh của Hizbollah.
Là chỉ huy Lữ đoàn Givati, ông tránh bị tố cáo là để xảy ra việc đánh chết người Palestine. Năm 2001, Effi từ chức sau khi không được thăng cấp và không đánh đổ được chính sách hòa bình của chính phủ, và bắt đầu thành lập một đảng chính trị mới.
Khi tôi gặp ông ta năm 1998, Effi Fein hãnh diện vì là một sĩ quan cao cấp sùng đạo ở Israel. Đất nước này đang chấm dứt giai đoạn thuộc "quyền lãnh đạo của chủ nghĩa tự do", trong đó các quyền cá nhân đang được đưa đến các thái cực và gia đình bị gièm pha. Giờ thì những người Do Thái mộ đạo đang chiếm những vị trí của tầng lớp ưu tú, và sẽ giúp xã hội Israel "có quan điểm cân bằng hơn về bản sắc dân tộc". Effi không phải lúc nào cũng tuân thủ. Ông được sinh ra ở một khu kiều dân biên phòng thế tục. Ông sống ở khu kiều dân biên phòng Kin Gev, nằm giữa Biển Galilee và chân Cao nguyên Golan. Lên bốn tuổi, ông đã biết cách gấp chăn và chạy vào các đường hầm để trốn đạn của quân Syria. Ông gợi nhắc là Golan được chúng tôi gọi là núi máu và lửa.
Ông thừa nhận: "Hizbollah đúng là một lực lượng đáng gờm bởi những chuẩn mực của lực lượng du kích mà chúng ta từng biết đến ở Trung Đông. Nhưng nếu ông so sánh nó với quân đội của Cộng hòa Ireland hay Việt cộng thì nó lại chẳng đáng gì".
Vấn đề chính của việc rút quân đơn phương là nó tỏ ra yếu kém, có khi còn là sai lầm chết người. "Chúng ta đâu có đang chiến đấu để giành đất, nhưng để giành thời gian. Từng ngày, từng giờ, từng phút trôi qua, chúng ta giành thời gian cho các chính khách. Tôi tin rằng đó là tiến trình để năng lực đốt hết sự xung khắc. Tôi rất lạc quan. Tôi nhìn Ai Cập và Jordan. Công việc của chúng ta là đánh trả và cho bên kia biết rằng những hoạt động thù nghịch chỉ mang lại cho họ con đường cùng. Nếu chúng ta bỏ cuộc, nếu chúng ta rút lui, nếu chúng ta đi ra bằng hai đầu gối, câu chuyện đâu phải thế là xong".
Những lời của Effi mạnh mẽ như những lời của nhà truyền giáo. Thực chất chúng là sự lập lại quan điểm của Vladimir Jabotinsky từ hồi năm 1923, là người Do Thái chẳng bao giờ có thể hy vọng là được chấp nhận một cách tự nguyện trong thế giới Ả Rập. Mọi người ở đó từng chống lại những kẻ đi giành đất, từ thời Joshua đi ngang qua Jordan tới thời chinh phục vùng Tây Mỹ. Câu trả lời duy nhất là dựng lên "bức tường sắt" gồm những binh lính Do Thái, và đợi cho tới ngày sau này khi người Ả Rập miễn cưỡng chịu chấp nhận sự hiện diện của người Do Thái và lập nên một tập thể lãnh đạo ôn hòa hơn. Ông viết:
Miễn là người Ả Rập cảm thấy rằng có ít hy vọng tống khứ chúng ta, họ sẽ khước từ việc bỏ đi hy vọng này để đổi lại hoặc những lời nói tử tế hoặc bánh mì và bơ, vì họ không là đám đông hỗn độn, nhưng là một dân tộc hiện tồn. Và khi một dân tộc hiện tồn chịu thua về ý lực sống còn như thế là chỉ khi không còn tí hy vọng nào tống khứ chúng ta được, vì họ không chọc thủng được bức tường sắt.
Mặc cho ở Lebanon bức tường sắt đã quá han gỉ và yếu. Sau nhiều năm tranh luận vô ích thì Thủ tướng của đảng Lao động, Ehud Barak, đã quyết định chấm dứt nỗi đau. Con người đã trở thành nổi tiếng khi một tay đặc công ám sát các nhà lãnh đạo Palestine ở Beirut, đã ra lệnh cho quân đội rút lui khỏi Vùng An ninh vào cuối tháng Năm 2000. Dưới bóng đêm, các xe tăng Israel gầm rú trên đường quay về ngang qua đường biên quốc tế. Khi những tiếng nổ lóe lên bầu trời đêm nơi các công binh Israel phá hủy các vị trí cũ của họ, những người lính cười vang, giơ cao cờ Israel và các dấu hiệu chiến thắng. Các bà mẹ Do Thái thở ra nhẹ nhõm. Người Palestine nhìn, và học bài học là Israel không thể chịu được những thương vong.
Trong vòng vài tháng sau khi rời khỏi Lebanon, cuộc Nổi dậy Al-Aqsa nổ ra. Một số lính Israel đã giơ ra các dấu hiệu Chiến thắng khi họ rời Lebanon sau đó bị giết hay bị thương ở các lãnh thổ chiếm đóng.