← Quay lại trang sách

- 7 - (tt)

Tin tức sáng sớm đột nhiên làm tôi tỉnh giấc. "... hơn 20 người Ả Rập bị giết trong Hang các Tổ Phụ", phát thanh viên nói: "... thuật lại rằng vụ tấn công này được thực hiện bởi một người định cư Do Thái... quân đội đang điều tra... các lực lượng viện binh tăng cường đã được gửi đến Hebron..."

Tôi lái xe cùng một đồng nghiệp đến Hebron dọc theo con đường mà nay đã trở thành quen thuộc bởi vì ngày càng gia tăng các sự cố tại khu "Chị Gái" của Jerusalem. Qua những mảng sương mù mùa đông ấm ướt, chúng tôi bỏ lại phía sau Cổ Thành của Jerusalem và Núi Zion, đi qua Tu viện Mar Elias ở mép phía nam thành phố, vượt qua ngọn đồi Herodion trông giống miệng núi lửa trong vùng sa mạc Judea, ngang qua Mộ của bà Rachel và miền bán sa mạc Bethlelem. Chúng tôi gắn một tấm chắn (keffiyeh) phía trước xe để tránh những người ném đá khi chúng tôi đi qua trại tị nạn Deheisheh, sau đó vội vàng cất nó đi và cải trang thành người Do Thái để qua các trạm kiểm soát của quân đội. Khoảng một giờ sau khi khởi hành, chúng tôi đã mò vào được đất Hebron kỳ quái và đe dọa.

Dù chỉ nghe qua những thông tin rời rạc ban đầu, chúng tôi cũng hiểu rằng sự cố đã xảy ra ở thành phố là một kiểu tàn sát mới chưa từng thấy trong sáu năm trước của Intifada. Hồi ấy, 5 tháng sau khi ký thỏa ước Oslo, cảnh tàn nhẫn của những binh lính bắn vào những kẻ ném đá đã gần như được thay thế bởi các chiến dịch du kích cấp thấp bắn vào các binh lính và người định cư. Lần này thì khác: một người Do Thái sùng đạo đã tàn sát những người Hồi giáo sùng đạo đang cầu nguyện tại một nơi thánh vào tháng Ramadan thánh. Đây là bước ngoặt đưa cuộc đấu tranh chính trị cho Bờ Tây thành một cái gì giống như một cuộc thánh chiến.

Ngược lại với lệnh cấm người Do Thái cầu nguyện tại Núi Thánh. Moshe Dayan chịu sức ép phải cho phép người Do Thái cầu nguyện tại Hang Machpelah ở Bebron, được người Ả Rập gọi là đền thờ Ibrahimi. Tương truyền đây là nơi chốn cất các tổ phụ Abraham, Isaac và Jacop cùng các bà vợ của các ông. Dayan quyết định gỡ bỏ "lệnh cấm đáng xấu hổ" để cho người Do Thái được đi lên bảy bậc dẫn tới nơi thánh. Sau nhiều năm, các cuộc cầu nguyện riêng tư trở thành các buổi họp cầu nguyện, các buổi họp cầu nguyện lại cần có các sách nguyện, và dần dần, những người định cư đã biến một phần nơi này thành một nhà thờ Do Thái.

Sự bành trướng vô hạn của người Do Thái tại Hang Machpelah là một thế giới thu nhỏ của việc người định cư thuộc địa hoá Bờ Tây. Ở chỗ mà những nhà tiên phong của phong trào phục quốc nói đến "một sào đất khác, một con dê khác" thì hậu duệ của những người định cư sùng đạo lại làm việc dựa trên cơ sở của một nhà thờ khác, một khu định cư khác. Cầu nguyện trở thành một hành động chính trị rất cao. Tại nhà thờ Hồi giáo Ibrahimi, xung đột gia tăng. Bùng nổ chỉ là vấn đề thời gian.

Bất cứ cắt nghĩa nào về việc làm thế nào cái bắt tay hòa bình ở Oslo đã biến thành những trận đánh của Al-Aqsa Intifada, đều phải dựa trên các sự kiện tại Hebron ngày thứ sáu ấy, 25 tháng Hai 1994. Sự thay đổi thất thường trong các lịch Hồi giáo và lịch Do Thái đã khiến cho ngày lễ Purim của Do Thái trùng với lễ Ramadan, tháng chay của người Hồi giáo. Sự trùng hợp này là một điềm gở.

Sáng sớm hôm ấy, Baruch Goldstein, một bác sĩ Do Thái sinh tại Mỹ và sống tại khu định cư Kiryat Arba ở ngoại ô Hebron, đi vào Hang Machpelah. Ông mặc quân phục và mang một khẩu súng trường Galil, một loại súng AK-47 của Do Thái. Một người Hồi giáo bảo vệ hang nhớ lại rằng Goldstein đã dùng báng súng đẩy anh ra rồi xông thẳng vào buồng chính của hang, gọi là Tiền đường Isaac, nơi hàng trăm người Hồi giáo đang cầu nguyện. Goldstein bắn loạn xạ vào các tín đồ Hồi giáo trong khi họ đang cúi rạp xuống đất cầu nguyện. Giữa những tiếng kêu Allahu Akbar "Allah vĩ đại!" đám đông kinh hoàng vô vọng chạy tìm chỗ núp sau các cột đá và mộ của Isaac và Rebecca. Goldstein đã giết 29 người và làm bị thương nhiều người khác, trước khi bị chế ngự và bị đánh đập cho đến chết. Các nhân chứng sau này nhớ lại có quá nhiều máu dưới nền khiến họ bị trượt chân khi tìm cách thoát ra.

Khi tôi đến Hebron sáng hôm ấy, tôi tìm đến bệnh viện Al- Ahli, một tòa nhà đang xây dở trên đỉnh đồi. Đám đông rẽ ra khi người ta chở tới những người bị thương trên các xe cấp cứu, trên vai các bạn bè, trên các cốp xe ô tô. Khu cấp cứu gần như hỗn loạn. Một người đàn ông nằm chết trên nền một văn phòng, máu chảy lênh láng quanh đầu. Các bác sĩ cố gắng hết sức để giải quyết làn sóng những người chết và bị thương. Trước tiên là những nạn nhân của vụ tàn sát, rồi những nạn nhân của các cuộc bạo loạn trên các đường phố ở Hebron trong những cuộc đụng độ giữa người Palestine và quân lính Israel, sau cùng là những người bị thương trong cảnh hỗn loạn khi họ tìm cách gỡ những người thương vong ra và đưa đến bệnh viện. Những người bị giết bên trong nhà thờ Hồi giáo cũng nhiều bằng những người bị giết bên ngoài. Một cuộc đụng độ đẫm máu xảy ra ngay ở ngoài bệnh viện mà không hiểu vì lý do gì đã có một toán lính cố tình tới đó khiêu khích.

Ban nhân viên bệnh viện mau chóng mất dấu vết các nạn nhân đẫm máu của họ vì các người thân của họ đòi đưa họ về mai táng cho nhanh. Phải mất nhiều tuần để lên được một danh sách đầy đủ các nạn nhân vụ thảm sát này. Harbi Abu Sbeh, một thanh niên 26 tuổi nằm trên giường mặt tái mét và hai môi run rẩy thì thào câu hỏi mà mọi người ở Hebron muốn hỏi, câu hỏi vẫn tiếp tục được hỏi: "Họ đang nói đến hòa bình. Nhưng hòa bình kiểu này là hòa bình gì đây?"

Quân đội Israel để đầy lính vào Hebron nhằm ngăn chặn cơn giận dữ của người Palestine. Khi một người Ả Rập thực hiện một cuộc tấn công, quân đội Israel thường không chậm trễ đến bình địa nhà của kẻ phạm tội. Thường cả một cộng đồng của người này cũng bị trừng phạt bằng lệnh giới nghiêm. Nhưng bây giờ, đứng trước sự tàn bạo mà một người Do Thái gây ra, quân dội Israel đã cho thấy thứ đạo đức thiên vị của kẻ chiếm đóng: nó đặt thành phố Ả Rập trong tình trạng giới nghiêm trong khi hộ tống những đoàn xe chở người Do Thái định cư muốn đi khỏi Kirya Arba. Như với mọi chuyện khác ở Bờ Tây, có một luật cho người Do Thái và một luật khác cho người Ả Rập.

Ở ngoài Beit Hadassa, một khu định cư Do Thái nằm giữa lòng Hebron, không có dấu hiệu ân hận, mặc cảm tội lỗi hay sự ghê tởm nào đốì với tên sát nhân xuất thân từ thành phần những người định cư. Ngược lại là đàng khác. "Lẽ ra anh ta phải giết 500 người" một phụ nữ Do Thái bận váy dài và quân khăn đầu lẩm bẩm. Bà đang đi với hai đứa con của bà bận đồ hóa trang cho ngày lễ Purim. Một đứa hóa trang thành cướp biển, mặt vẽ những sọc màu. Không gì có thể làm ngưng lễ hội của họ, dù là một cuộc thảm sát trước cửa nhà họ.

Đối với nhiều người Do Thái ở Hebron, cuộc thảm sát là một sự diễn lại câu chuyện về ngày lễ Purirn trong sách Esther, kể lại việc người Do Thái ở Ba Tư được cứu khỏi một âm mưu tiêu diệt họ. Đối với những người định cư, người Ả Rập là hiện thân của viên quan Haman ác độc, người có kế hoạch tiêu diệt sạch người Do Thái tại Ba Tư. Goldstein đóng vai của Mordecai, người hùng Purim đã tiêu diệt những kẻ giết những người Do Thái. Sau vụ thảm sát Hebron, câu truyện lan nhanh giữa những người định cư rằng bác sĩ Goldstein tốt lành, người từng nhiều lần nhúng tay vào máu người Do Thái khi ông tìm cách cứu các nạn nhân khỏi các cuộc tấn công khủng bố, đã tự hy sinh để cứu cộng đồng Do Thái khỏi âm mưu của những người Ả Rập tại Hebron nhằm tiêu diệt người Do Thái.

"Đây là một cuộc thánh chiến" Aryeh Bar-Yoseph nói. Anh là một sinh viên thần học. "Tôi hy vọng sẽ có thêm nhiều người Do Thái nữa giống như Baruch Goldstein để giết cho tới người Ả Rập cuối cùng. Không chỉ họ, mà tất cả kẻ thù của Israel". Người ta gần như tôn Goldstein lên bậc thánh. Ngôi mộ "tạm thời" của ông tại khu định cư Kiryat Arba đã trở thành một nơi hành hương, được gắn thêm một khẩu súng thay cho sách kinh và các lời tán tụng như Baruch Ha-Gever, một kiểu chơi chữ có nghĩa vừa là "Baruch Người" vừa là "Phúc cho Người" cũng mang nghĩa của một "Anh hùng". Phải mất sáu năm chính quyền Israel mới đủ can đảm để triệt hạ những cạm bẫy dưới dạng của một tượng đài tại đây.

Goldstein là một người ủng hộ Giáo sĩ cực đoan người Mỹ đã quá cố Meir Kahane, ông tin rằng người Palestine là hiện thân của sự dữ ngoại đạo, một khối "ung thư" cần cắt bỏ bằng việc ném tất cả những người Ả Rập ra khỏi xứ sở. Bằng hành vi tuyệt vọng của mình, ông tin rằng ông đang cứu người Do Thái khỏi tai họa của việc chính phủ thương lượng với người Palestine, mà Goldstein coi là hóa thân hiện nay của Đức Quốc xã.

Những người Do Thái tự do thì cảm thấy kinh hoàng. Đối với tác giả, Arnos Oz, những người Do Thái định cư không hơn gì nhóm người Hồi giáo cực đoan trong thế giới A Rập. Những người định cư, ông viết, là những quân "Hizbollah có mũ chỏm". Thủ tướng Yitzhak Rabin kết án Goldstein là "một giống cây ngoại lai" và một "cây cỏ dại lạc loài". Ông chính thức cấm các nhóm người theo Kahane, có tên là Kach và Kahane Chai. Nhưng ông từ chối khuất phục sức ép từ một số bộ trưởng và trí thức đòi ông xóa bỏ khu định cư người Do Thái tại Hebron.

Chính tên gọi Hebron là một sự mỉa mai cho chính nó. Hevron trong tiếng Do Thái và Al- Khalil trong tiếng Ả Rập đều có gốc là những từ tương tự mang nghĩa là "Bạn" vì Abraham, vị tể phụ có quan hệ mật thiết với thành phố này, là "bạn" của Thiên Chúa. Nhưng Hebron là một thành phế của sự căm thù do chủ nghĩa cực đoan tôn giáo khơi dậy.

Đối với người Do Thái, Abraham là tổ phụ đầu tiên của người Israel, ông đã được Thiên Chúa hứa rằng dòng giống ông sẽ thừa hưởng đất Canaan. Sống ở Hebron là được vun tưới bằng dòng suối của lịch sử Do Thái. Đối với người Ả Rập, Abraham là người Hồi giáo đầu tiên. Hồi giáo là đức tin tinh tuyền mà Abraham đã lãnh nhận nhưng đã bị ô uế bởi những "lời nói láo" của Do Thái giáo và Kito giáo. Hầu như bất cứ người Hồi giáo nào cũng có thể trích câu kinh Koran: "ma kaana ibrahimu yahudiyyan wa-la nasraaniyyan wa-laakin kaana haniifan musliman wa-ma kaana min al-mushrikiina. (3:67)-"(Abraham không phải người Do Thái cũng không phải người Kito giáo. Ông là một con người chính trực, một người đã suy phục Đấng Allah [nghĩa là Hồi giáo]. Ông không phải một người thờ ngẫu tượng...)

Hebron bị ám ảnh bởi những hồn ma của các cuộc thảm sát nhân danh Thiên Chúa. Năm 1929, hơn 60 người Do Thái bị giết bởi một nhóm người bạo loạn Ả Rập ở đỉnh điểm tàn nhẫn của một cuộc cãi vã lâu dài về quyền kiểm soát Bức tường phía Tây của Jerusalem, tiếng Do Thái gọi là Kotel. Ngày lễ Yom Kippur năm trước đó, người Do Thái đã dựng lên ở bức tường này một tấm vách ngăn cách những người nam và nữ đến cầu nguyện. Cảnh sát Anh đã hạ bỏ tấm ngăn này, nhưng các lãnh đạo tôn giáo Hồi giáo là những người có quyền sở hữu chính thức bức tường này mà họ gọi là bức tường Al-Buraq và lối đi kế cận thì cho rằng động thái này là một bước đầu để người Do Thái chiếm lấy đền thờ Al-Aqsa.

Các giáo sĩ Hồi giáo tung ra một chiến dịch "bảo vệ" các nơi thánh Hồi giáo. Người ta bắt đầu xây dựng phía trên của một phần ba bức tường, những người Do Thái cầu nguyện ở phía dưới luôn luôn bị quấy nhiễu bởi những tiếng cồng chiêng và tiếng súc vật kéo xe ở lôi đi bên cạnh. Các lãnh đạo Do Thái trước kia từng có ý định "mua đứt" bức tường, nay đòi chính phủ Anh tịch thu của người Ả Rập và trao lại vĩnh viễn cho người Do Thái.

Tháng Tám 1929, hàng ngàn người Do Thái biểu dương lực lượng tại Tel Aviv, vừa đi vừa hát vang "Bức Tường của Chúng Ta!" Ngày hôm sau, hàng ngàn thành viên của nhóm trẻ Betar thuộc cánh hữu diễu hành tới Bức tường phía Tây và dựng cờ Do Thái. Người Hồi giáo đáp lại một ngày sau đó, từng đoàn lũ người để ra từ đền thờ Al-Aqsa sau buổi cầu nguyện ngày thứ sáu và đốt hết các sách kinh của người Do Thái tại bức tường. Các cuộc bạo loạn của người Ả Rập nổ ra tại thành phố Jerusalem tuần lễ tiếp theo và lan ra khắp nước. Cuối một tuần say sưa đổ máu, 133 người Do Thái và 116 người Ả Rập đã bị giết.

Cộng đồng Do Thái ở Hebron gồm khoảng 600 người sùng đạo phần lớn không thuộc phong trào Phục quốc nhưng đã sống tại Hebron từ nhiều thế kỷ dưới quyền cai trị của Thể Nhĩ Kỳ, họ từ chối không muốn nhận sự bảo vệ của chính quyền Do Thái nhưng trông cậy vào tình bạn của những người hàng xóm Ả Rập. Nhiều người Ả Rập từng che giấu và bảo vệ các gia đình Do Thái chống lại nhóm người bạo loạn mà trong đó đôi khi có cả những người thân của họ. Nhưng những hành vi đáng quý này cũng không ngăn cản được cuộc thảm sát.

Dân định cư ở Hebron ngày nay chỉ nhớ đến những kẻ giết người. Trong mắt họ, tất cả những người Ả Rập ở Hebron đều mang tội ác của cha ông họ, và ấn tượng này càng khó phai mờ khi chính người Palestine cũng không bao giờ tỏ dấu ân hận. Ngược lại, ba người Ả Rập bị chính quyền Anh treo cổ ở Acre vì tham gia vào vụ thảm sát đã được tán dương như là những anh hùng tử đạo trong thi ca và dân ca của Palestine, một số những ca khúc này vẫn còn được hát vào các lễ cưới ngày nay. Một bài hát có câu: "Họ là ba anh hùng, đối diện với cái chết dũng cảm như sư tử" và "Hỡi người Do Thái, chớ vội mừng vì họ bị giết. Hãy nhớ rằng thanh niên Ả Rập không có những vũ khí tối tân như các người, nhưng các người vẫn phải khóc than rằng họ mạnh hơn các người và đã tấn công được các người..."

Trong giới dân định cư Do Thái ngày nay, cuộc thảm sát 1929 là biểu hiện tính man rợ của người Ả Rập. Ở tầng trệt của khu chung cư Beit Hadassah vốn là một bệnh viện năm 1929, một phòng đã được dành để dựng tượng đài cho các nạn nhân của cuộc thảm sát. Tại đây có những bức ảnh chụp các cảnh đốt sách kinh và các trẻ em bị thương.

Chỉ là một thiểu số rất nhỏ sống giữa một thành phố Ả Rập uất ức, những người định cư Do Thái tin rằng một vụ thảm sát khác sẽ xảy ra khi người Ả Rập cảm thấy họ có đủ khả năng để thực hiện nó. Ngược lại, người Palestine tin rằng trong mỗi con người định cư có súng đều ẩn náu một tên Goldstein.

Đúng bốn mươi ngày sau vụ thảm sát của Baruch Goldstein, vào cuối thời kỳ để tang của Hồi giáo, một thanh niên 25 tuổi người Palestine Hồi giáo cực đoan tên là Raed Zakarne đánh bom tự sát đã bị nổ tung xác bên cạnh một chiếc xe buýt chở đầy người Israel ở thành phố Afula. Vụ nổ đã giết chết 7 người Do Thái và một phụ nữ Ả Rập ngồi trên xe, và làm bị thương hơn 50 người khác, gồm cả các học sinh đang từ trường trở về nhà.

Một tuần sau vụ tấn công ở Afula, một người, đàn ông cột chặt một quả bom trong người và lên một xe buýt ở thành phố Hadera và cho bom nổ, bản thân anh ta bị nổ tung xác, giết chết 5 hành khách và làm bị thương hơn 30 người khác. Các nhà thờ Hồi giáo ở Dải Gaza phát đi một thông điệp của những kẻ đánh bom: "Chúng tôi đã giết chết rất nhiều con cháu của bọn lợn và khỉ, và làm bị thương hàng chục đứa khác để báo thù cho các vị tử đạo của chúng ta tại Hebron".

Các cuộc tấn công không chỉ là các sự cố trả đũa lẻ tẻ, nhưng là khởi đầu của một chiến dịch đánh bom tự sát kéo dài, sẽ có tác động chính trị tai hại, hủy diệt lòng tin của người Israel vào hòa bình đồng thời làm cho Arafat bối rối và mất uy tín.

Hamas, phong trào Hồi giáo cực đoan Palestine, đã lấy các chiến thuật của nhóm Hizbollah ở Lebanon. Nhưng thay vì đánh các cơ sở quân sự, Hamas đánh bom các mục tiêu dân sự "mềm". Các xe buýt công cộng là những mục tiêu họ ưa thích nhất. Tuy được tô vẽ bằng những từ ngữ hoa mỹ như những "chiến dịch tử đạo" và tuy các chính quyền của Israel, Mỹ và (thỉnh thoảng) của Palestine cũng đổ các nguồn lực vào để ngăn chặn chúng, nhưng các cuộc tấn công tự sát vẫn là một hình thức chiến tranh sơ khai rất tàn bạo. Chúng nói lên rằng cách duy nhất mà người Palestine có thể đánh bom hiệu quả là cho một thanh niên tự làm nổ tung mình cùng với quả bom.

Hamas (từ viết tắt của Hnrakat al-Muqawama al-lslamiyya, hay Phong trào Kháng chiến Hồi giáo, chữ Ả Rập có nghĩa là "nhiệt thành") lấp đầy khoảng trống chính trị đã được bỏ lại sau khi PLO chuyển sang con đường dàn xếp ngoại giao. Với cao điểm của phong trào Intifada năm 1988, PLO lợi dụng cuộc nổi loạn bằng cách tuyên bố độc lập trong khi đồng thời nhìn nhận quyền tồn tại của Israel và "từ bỏ" khủng bố. Sự thay đổi này là bước đầu dẫn đến thỏa ước Oslo. Nhưng Intifada cũng là một kích thích cho sự cực đoan hóa nhóm Anh Em Hồi Giáo ở Plt, một phần của phong trào rộng lớn hơn cho sự phục hưng Hồi giáo được sáng lập tại Ai Cập năm 1928. Vì Arafat tuyên bố hiến chương của PLO đã hết hiệu lực, nên nhóm Hamas vừa thành lập đã phân phát cương lĩnh của riêng nó và đổi khẩu hiệu cách mạng cũ của PLO thành ngôn ngữ Hồi giáo.

Ở chỗ mà cương lĩnh PLO nói rằng cuộc đấu tranh vũ trang là phương tiện duy nhất để giải phóng Palestine, thì cương lĩnh của Hamas tuyên bố: "Không có giải pháp nào khác cho vấn đề Palestine ngoài giải pháp Jihad ("thánh chiến"). Các sáng kiến, chọn lựa, và các hội nghị quốc tế chỉ là phí thời giờ và là trò trẻ con". Thay vì khẳng định của PLO rằng Palestine "là một phần không thể chia cắt của quê hương Ả Rập" Hamas tuyên bố rằng "Đất Palestine là một waqf [tài sản uỷ thác] của Hồi giáo cho mọi thế hệ Hồi giáo cho tới ngày phục sinh". Thay vì tố giác "chủ nghĩa Phục quốc Do Thái và chủ nghĩa đế quốc" Harnas trừng trị "những kẻ ngoại đạo".

Hamas tuyên truyền các chủ đề Hồi giáo của nó với chủ nghĩa bài Do Thái của châu Âu. Ngôn ngữ của Hamas có thể khác, nhưng thông điệp của nó cũng là thông điệp của PLO: Israel phải bị tiêu diệt. Palestine phải được cứu rỗi bằng sức mạnh và không có chỗ cho thỏa hiệp dù chỉ là một tấc đất. Tuy nhiên có một sự khác biệt, đó là về bản chất của Palestine tương lai sau khi giải phóng. Hamas muốn tạo ra một xã hội Hồi giáo, và nó tin rằng quan niệm của PLO về một nhà nước thế tục là một sự báng bổ.

Trong nhiều năm, những khác biệt ý thức hệ này đã được lồng vào trong tổ chức hàng ngày của Intifada. Các phe nhóm kêu gọi các cuộc tranh giành và các ngày tưởng niệm, đôi khi cũng xung đột với nhau, nhưng phần lớn mỗi phe phái đều tôn trọng các "hoạt động" của phe phái khác. PLO ít can thiệp để ngăn cản Hamas áp đặt những quy luật xã hội báo thủ hơn, phải là một phụ nữ dũng cảm mới dám đi ra ngoài đường ở Gaza mà không có mạng che mặt.

Hamas cho rằng mình kế thừa cuộc đấu tranh Palestine, tự nhận là tổ chức xúi giục cuộc nổi loạn Intifada năm 1987 và là người thừa kế trực tiếp của Sheikh Izz al-Din al-Qassam, lãnh tụ đầu tiên của cuộc kháng chiến vũ trang Palestine vào thập niên 1930.

Nhưng việc Hamas sử dụng lực lượng vũ trang là một điều mới. Cho tới khi Intifada bùng nổ, nhóm Anh Em Hồi giáo phần lớn tránh các cuộc đối đầu quân sự với Israel. Khi Israel tìm cách tiêu diệt PLO và các phe dân tộc khác, phong trào tôn giáo được cho phép hoạt động tự do.

Anh Em Hồi Giáo gắn bó với quan điểm chính thống của nó là trước tiên phải đào tạo một "thế hệ Hồi giáo" bằng giáo dục và hoạt động xã hội như tiền đề cho Jihad ("thánh chiến" ). Jihad Hồi giáo được sáng lập vào thập niên 1980 như là một phản ứng trước chính sách hợp tác của Anh Em Hồi Giáo. Tuy nhiên, sau khi Hamas chọn cuộc đấu tranh vũ trang, nó trở thành nhóm chiến đấu có khả năng nhất. Trong khi các phe nhóm PLO dựa vào các quỹ tài chính của các nước Ả Rập cung cấp qua các tổ chức "quốc gia" thì Harnas tìm sức mạnh của mình trong mạng lưới các trường học, nhà trẻ, bệnh viện, và nhất là các nhà thờ Hồi giáo.

Cuộc nổi dậy đầu tiên của Intifada chủ trương một triết lý hành động bằng việc khích động sự giận dữ của quần chúng. Nó khuyến khích các cuộc bạo loạn bằng ném đá, đình công, và bất tuân pháp luật nhưng chủ yếu tránh các cuộc tấn công có vũ khí. Khi được dùng đến, súng thường được nhắm vào các kẻ "hợp tác". Phong trào Intifada suy tàn trong những tháng bị Israel áp đặt lệnh giới nghiêm ở Bờ Tây và Dải Gaza trong cuộc khủng hoảng Iraq xâm lược Kuwait năm 1990 và 1991 khi cuộc chiến Vùng Vịnh bùng nổ, những người Palestine ở trong nhà hoan hỉ chào mừng cảnh tượng các quả bóng lửa đỏ bừng-tên lửa Scud của Iraq-bắn vào Tel Aviv.

Các thương lượng với Israel bắt đầu sau chiến tranh, và khi PLO dần dần rút lui khỏi các cuộc bạo động, thì các cuộc tấn công của Hamas gia tăng. Ban đầu Hamas tấn công các người định cư Do Thái, sau đó các lính vũ trang Do Thái ở Bờ Tây. Các vụ đánh bom tự sát cũng được sử dụng cả trước khi có vụ thảm sát của Goldstein, nhưng thường chúng không hơn gì những vụ tự sát bằng thuốc nổ.

Vụ thảm sát Hebron là một bước ngoặt. Hamas và Jihad Hồi giáo bắt đầu đánh bom các xe buýt dân sự trên chính đất Israel. Vụ thảm sát của Goldstein có phải là nguyên nhân hay cái cớ để Hamas trở nên tàn bạo, thì vẫn là điều chưa rõ ràng. Một phần, chiến thuật mới có thể chỉ đơn giản là kết quả của khả năng chuyên môn hơn. Tháng Mười Hai 1992, Israel "tạm thời" trục xuất hơn 400 thành viên hoạt động của Hamas và Jihad Hồi giáo sang Lebanon để trả đũa hàng loạt các vụ tấn công mà đỉnh điểm là vụ bắt cóc và sát hại một cảnh sát biên phòng Israel.

Vụ trục xuất bị phản đối về tính hợp pháp của nó. Khi đoàn xe đi ngang qua biên giới phía bắc, chính quyền Lebanon quyết định không cho phép vào. Những người bị trục xuất bị nhốt trong một lều trại nằm giữa ranh giới Israel và Lebanon, và trước khi áp lực quốc tế buộc Israel phải đưa họ trở về trong vòng một năm, họ đã trở thành một biểu tượng về các hành động tàn nhẫn của Israel. Nhóm đầu tiên đã trở về chỉ ít ngày trước khi ký thỏa ước Oslo, và các cơ quan tình báo Israel từ lâu đã nghi ngờ rằng họ mang theo những kỹ thuật chế tạo bom mới họ học được từ các thành viên Hizbollah đã tới thăm trại giam của họ.

Vinh dự được chết vì Palestine, những đau khổ mà họ có thể giáng xuống Israel, và niềm tin chắc sẽ được hưởng Thiên đàng với các thú vui của rượu và gái, đã thúc đẩy nhiều thanh niên tình nguyện cho các chiến dịch ''tử đạo". Đôi khi các quân tình nguyện phải nằm trong các nấm mồ để làm quen với ý tưởng mình sẽ bị chết. Họ để lại các băng ghi video giải thích các hành động của họ.

Có lần tôi hỏi Sheikh Abdallah Shami, một lãnh tụ của nhóm Jihad Hồi giáo tại Dải Gaza rằng tại sao chính ông không tự nguyện hi sinh mà lại gửi các thanh niên khác đi hi sinh. Ông đáp: "Bạn không biết đâu, các thanh niên này đầy lửa. Họ sẽ chỉ trích tôi nếu tôi lấy mất chỗ của họ"

Yitzhak Rabin chưa bao giờ lộ vẻ thoải mái như đêm hôm 4 tháng Mười 1995.

Khoảng 100 ngàn người đã đến nghe ông nói lại Quảng trường Vua Israel ở Tel Aviv. Đây là một cuộc biểu dương niềm tin vào chiến thắng tất yếu của hòa bình sau một thời kỳ kinh hoàng vì các vụ đánh bom tự sát, các chiến dịch chống đối chính quyền của người định cư và các phản đối của cánh hữu.

Với vẻ rất lạc điệu, Rabin hăng hái nhập vào dòng người biểu tình và hát "Bài ca Hòa Bình". Bài ca này từng bị cấm hát trên làn sóng radio khi nó được viết ra sau Cuộc chiến Sáu Ngày, nhưng bây giờ được những người ủng hộ thỏa ước Oslo chọn làm quốc ca. "Hãy để mặt trời mọc lên, chiếu sáng buổi sáng. Mặt trời sẽ không trả lại những người mà ngọn đèn của họ đã bị thổi tắt. Nó cũng sẽ không trả lại những người đã bị chôn vùi trong tro bụi với những giọt nước mắt đắng cay. Hãy hát lên. Hát lên bài ca hòa bình".

Rabin đưa ra một lời cam kết rõ ràng là sẽ tìm kiếm hoà bình với người Palestine và kêu gọi người Israel từ bỏ bạo lực: "... chính bạo lực phá hủy nền móng dân chủ của Israel. Chúng ta phải lên án bạo lực, phải nhổ nó ra, phải cô lập nó..."

Đáp lại lời ông, ít phút sau người ta nghe thấy ba tiếng súng nổ khi Rabin tiến đến xe của ông, đang đậu sẵn ở phía sau khán đài. Yigal Amir, một tay cực đoan tôn giáo người Do Thái 27 tuổi và là một sinh viên luật tại Đại học Bar-Ilan, đã lẻn qua hàng rào bảo vệ của khu vực "an toàn" xung quanh Rabin và bắn ba phát đạn 9 ly từ khẩu súng lục Beretta ở cự ly rất gần. Hai viên đạn trúng lưng Rabin, viên thứ ba làm bị thương một cận vệ. Thủ tướng bị trọng thương và đã chết trong bệnh viện.

Bất chấp nhận được nhiều lời đe dọa đến tính mạng, Rabin luôn từ chối không mặc áo chống đạn. Một tờ giấy nhuốm đầy máu được lôi ra từ túi áo Rabin với những lời nói với "Bài ca Hòa Bình". Trong mấy ngày sau đó, các con đường gần đó trở nên phẳng phiu với chất sáp của vô số cây đèn cầy, trong khi các bức tường ngày càng được vẽ chi chít các hàng chữ nói lên sự thú nhận mặc cảm tội lỗi của những người Israel thuộc cánh tả tự cảm thấy họ đã không làm hết sức mình để bảo vệ hòa bình và bênh vực Thủ tướng.

Lời chia buồn nghẹn ngào của Tổng thống Bill Clinton- Shalom Haver, "Tạm biệt Bạn"-đã trở thành khẩu hiệu của trại hòa bình của Israel. Tại cuộc ký kết thỏa ước Oslo, Rabin đã cảm động đọc lên một câu trong kinh nguyện hàng ngày của người Do Thái: "Người là Dâng tạo dựng hòa bình tại các nơi cao của Người, xin Người tạo hòa bình cho chúng con và cho toàn thể Nhà Israel. Amen". Không quá hai năm sau, đến lượt con trai ông đọc lời kinh này, nhưng bây giờ như một lời than khóc, bên mồ của Thủ tướng tại Jerusalem. Trong cái chết, ông Rabin đã giành được một chiến thắng ngoại giao cuối cùng, đó là đưa đến Jerusalem Quốc vương Hussein của Jordan, là người đã trở về Jerusalem lần đầu tiên từ sau khi ông bị mất một nửa phía tây vương quốc của ông năm 1967; Tổng thống Hosni Mubarak của Ai Cập, là người chưa từng đặt chân lên đất Israel kể từ khi ông lên nắm quyền 15 năm trước; cũng như các bộ trưởng từ Qatar, Oman, và Mauritania, là những nhân vật chưa từng có quan hệ ngoại giao với Israel.

Mười bốn năm sau khi Anwar al-Sadat hy sinh, mạng sống mình vì muốn có hòa bình với Israel, Rabin bị ám sát vì muốn tìm kiếm một cuộc sống chung hòa bình với người Israel và từ bỏ mảnh đất Kinh thánh mà ông trong chức vụ tham mưu trưởng năm 1967 đã vạch ra kế hoạch chinh phục.

Các cuộc đánh bom tự sát của Hamas đã phân tán tinh thần của Israel và giúp cô lập thủ tướng. Như phe cánh tả đã làm mất tinh thần của Menachem Begin bằng việc phản đối về con số thương vong tại Lebanon, thì phe cánh hữu cũng đã biểu tình phản đối bên ngoài nhà tư của Rabin tại Jerusalem về con số quá nhiều người Do Thái bị giết bởi các phần tử khủng bố. Những người Do Thái cực đoan tức giận vì các vụ nhường đất và các cuộc tấn công của quân Palestine, đã cho rằng Thủ tướng Yitzhak Rabin phải chịu trách nhiệm về những cái chết của người Do Thái và việc nhường đất thánh. Tại các cuộc biểu tình của cánh hữu, người ta mang các tấm biển vẽ hình Rabin như một tên Đức Quốc xã và như một người đang bắt bàn tay nhuốm máu của Arafat.

Trong những ngày sau cuộc ám sát, bộ trưởng ngoại giao và người cùng được giải Nobel với Rabin lên nắm quyền. Ông ra lệnh cho quân đội rút khỏi các thành phố Palestine. Oslo phải được coi là dứt khoát và không thể đảo ngược. Tên sát nhân Amir không được phép chiến thắng.

Lần lượt từng thành phố một, Jenin, Tulkarm, Kalkiliya, Nablus, Bethhelem và Ramallah được trao trả cho "cảnh sát" Palestine. Người Israel thường rút lui về ban đêm để giảm rủi ro đụng độ với các đám đông Palestine. Người Palestine thức giấc thì đã thấy thành phố của mình được "giải phóng" với lá cờ của mình bay phất phới trên các mái nhà và họ đổ xô đến các căn cứ quân sự mà Israel đã bỏ lại. Một số người tới thăm các nhà giam quét vôi trắng nơi họ từng bị giam giữ. Palestine tổ chức các cuộc bầu cử "quốc hội" và Arafat được bầu làm "Tổng thống" với sự ủng hộ tuyệt đối của dân chúng.

Trong khi là một người lên kế hoạch cho thỏa ước Oslo, Peres cũng muốn là một "Ông An Ninh" giống như Rabin. Rabin luôn nói rằng Israel sẽ "tìm kiếm hòa bình như thể không có khủng bố, và chiến đấu chống lại khủng bố như thể không có hòa bình".

Khoảng 9 giờ sáng ngày 5 tháng Giêng 1996, có tiếng điện thoại reo trong một căn nhà bê tông tại Dải Gaza. Khi Yihya Ayyash nhấc điện thoại lên, máy điện thoại nổ tung, đầu ông văng đi xa. Là một chuyên gia chế tạo bom bậc thày của Hamas, Ayyash hẳn phải đánh giá rất cao cái máy quá thanh lịch đã giải quyết đời ông một cách gọn gàng. Israel không giấu giếm việc họ đứng đàng sau vụ ám sát này. Ayyash là người hùng đầu tiên của cánh vũ trang Hamas. Cả tên gọi lẫn tên họ của ông đều có gốc là một động từ Ả Rập mang nghĩa là "sống" nhưng ông lại là kẻ cung cấp cái chết. Trong thời gian hai năm, tên Ayyash 29 tuổi này đã bị Shin Bet truy lùng rất gắt, người ta tin rằng các quả bom của hắn đã giết khoảng 50 người Israel.

Tuy việc khử trừ "Nhà Chế Tạo" đã được thực hiện xuất sắc và mang tính chiến thuật, nhưng về nhiều phương diện nó là một sai lầm chiến lược. Phản ứng của Hamas và của nhóm Jihad Hồi giáo rất nhanh và tai hại. Các kẻ đánh bom tự sát đã thực hiện bốn vụ tấn công trong hai tuần lễ, giết chết hơn 50 người Israel.

Peres không bao giờ gặp thuận lợi với cử tri đoàn, đã thử lợi dụng sự thiện cảm của dân chúng đối với Rabin bằng cách quyết định có cuộc bầu cử sớm. Bây giờ những kẻ đánh bom đã làm tiêu tan cố gắng củng cố quyền lực của ông, và đã làm mất chức một vị Thủ tướng Israel nữa. Không gì có thể cứu Peres khỏi thất bại, dù là "Cuộc họp thượng đỉnh hòa bình" khẩn cấp được triệu tập ở Al-Sheikh để biểu dương sự ủng hộ quốc tế đối với Peres, hay là vụ Israel không may thả bom xuống Nam Lebanon vào tháng Năm 1996 (giết chết khoảng 100 dân tị nạn Lebanon ở một căn cứ của Liên Hiệp quốc ở Qana).

Binyamin Netanyahu, lãnh tụ trẻ và rất lôi cuốn của đảng Likud, đã đắc cử với lời hứa mạnh tay với Arafat và bảo đảm Palestine phải thực hiện cam kết chống lại khủng bố. Nhưng Netanyahu, người trước kia có lần ví Rabin với Chamberlain, giờ phải đối diện với thực tế của Oslo. Tuy lãnh tụ Likud này gây thất vọng cho quốc tế, nhưng cái tệ hại chính là ở chỗ không phải ai khác mà là Netanyahu đã trao trả cho Palestine phần lớn đất Hebron, "Thành phố của các Tổ phụ". Chính Netanyahu là người đã miễn cưỡng đồng ý tiếp tục giai đoạn xa hơn trong việc tái bố trí quân đội ra khỏi Bờ Tây. Bằng những hành động này, ông đã để mất các đồng minh về Cánh Hữu. Cuối cùng ông buộc phải tổ chức bầu cử sớm vào năm 1999 và bị đánh bại bởi Ehud Barak của đảng Lao động. Nhưng Barak, tuy mang đầy hào quang của một chiến binh Israel nhiều chiến công nhất, và tuy là người thừa kế chính trị của Yitzhak Rabin, phải cố gắng lắm mới giữ được quyền lực trong không đầy hai năm, để rồi cũng để mất các đồng minh chính trị, chính sách hòa bình của ông sụp đổ, và cuối cùng mất quyền lực.

Sharon là thủ tướng thứ năm của Israel trong vòng sáu năm. Rõ ràng Oslo đã làm cho sự bất ổn của hệ thống chính trị trở thành chứng bệnh trầm kha, khiến cho các đảng phái nhỏ-đặc biệt các đảng phái tôn giáo-có một quyền lực không tương xứng trong việc tạo nên và phá vỡ các chính phủ. Di sản bất ngờ của Oslo là ảnh hưởng quá to lớn mà người Palestine có thể tác động trên hệ thống chính trị Israel-một sức mạnh mà họ chỉ hiểu biết một cách rất khiếm khuyết.

Nhà tù trung tâm của Gaza sơn một màu trắng “ngây thơ”. Cờ Palestine phất phới trên mái nhà đã thay cho cờ Ngôi sao David, trong khi một bức tường kiên cố thay thế cho hàng rào mong manh vào thời Israel chiếm đóng. Những tấm biển quảng cáo lớn cho Pepsi, 7-Up, và kem địa phương che khuất quang cảnh nhà tù, như thể giễu cợt người dân Gaza tin rằng chính quyền Palestine có thể được nguy trang bằng ảo tưởng về sự giàu sang và văn hóa tiêu thụ.

Tuy nhiên, một số thay đổi trong nhà tù trung tâm này phải mất một thời gian lâu. Sau một năm kể từ khi Palestine tiếp quản, người ta lại thấy xuất hiện vẫn những người phụ nữ với khăn trùm đầu đứng xếp hàng ở ngoài cổng nhà tù, chờ để được phép vào thăm các con trai của họ bị giam trong đó. "Khi người Israel còn nắm quyền ở đây, chúng tôi đến thăm các anh em chúng tôi. Và bây giờ khi người Palestine nắm quyền ở đây, chúng tôi vẫn đến nhà tù. Họ bắt đứa em trai 19 tuổi của tôi mới 48 ngày trước. Họ đánh đập nó dữ lắm". Đó là lời của một phụ nữ 38 tuổi, bà Sahira Abul-Saroya; bà đang đứng dưới bóng cây, tay bế đứa con còn nhỏ.

Nhà tù chỉ được hưởng bầu khí tự do thoáng qua, đó là thời gian giữa lúc người canh tù Israel cuối cùng ra đi và lực lượng Palestine đầu tiên tới tiếp quản. Đó là một ngày tháng Năm 1994, ngày hôm đó bạn có thể đi thơ thẩn trong nhà tù như thế để chiêm ngắm những phế tích khảo cổ của một nền văn minh đã mất.

Bên trong nhà tù, những tù nhân chính trị người Palestine trước đây đang giữ chìa khóa trong khi chờ đợi ban nhân viên tới tiếp quản. Họ vui vẻ dẫn khách đi thăm các nơi. Người Israel đã dọn các nơi, nhưng trong một xà lim ở một gian phòng gần đấy vẫn còn tên của các tù nhân được viết bằng vỏ cam đốt cháy. Người ta kể cho tôi rằng hai mươi lăm tù nhân thường bị nhét vào một xà lim dài ba yard và rộng hai yard. "Họ phải đổi nhà tù này thành một bảo tàng để trẻ em thấy được điều gì đã xảy ra trong 27 năm chiếm đóng". Người vừa nói với tôi là Nafez, một cựu chiến binh đã ba lần bị giam ở đây.

Các tù nhân ấy luôn đầy hy vọng. Một người nhớ lại vụ xét xử anh: "Tôi nói với người xét xử rằng một ngày kia chính chúng tôi sẽ cai trị. Một ngày kia chúng tôi sẽ đổi vị trí; tôi sẽ là người xét xử còn anh ta sẽ là tù nhân" Muhammad al-Ghazzawi kể lại.

Ở cổng chính bên ngoài, một anh lính Israel đơn độc thỉnh thoảng nhặt lên những viên đá do bọn trẻ ném vào khi chúng đi học về. "Em không muốn họ đi" một đứa trẻ nói. "Nếu họ đi thì chúng em còn ai để ném đá?"

Những lời đứa bé nói hàm chứa nhiều sự thật hơn nó tưởng. Những ngày bạo loạn của thời Intifada rất tàn nhẫn, nhưng làm người ta phân khích. Nó tạo cho người Palestine sự ý thức rằng họ có một mục đích, sức mạnh, một sự ý thức rằng họ nắm vận mệnh của chính họ trong tay. Kẻ thù hiển nhiên là: Israel.

Nền hòa bình nửa chừng của Oslo và dẫn tới một sự tự do nửa chừng tại Gaza và Bờ Tây, làm cho bức tranh trở nên mập mờ. Người Palestine không có một nhà nước đầy đủ, nhưng họ không còn bị lính Israel trực tiếp chiếm đóng các thành phố của họ nữa. Chính quyền Palestine đứng ở giữa tình thế mập mờ này, vừa đòi hỏi độc lập nhưng cũng vừa phải thực hiện cam kết kiềm chế những ai muốn sử dụng bạo lực để đạt sự độc lập ấy. Yasser Arafat một phần trở thành lãnh tụ giải phóng Palestine, một phần là chư hầu của Israel.

Israel không giấu giếm điều họ mong đợi ở người Palestine. Năm 1993, ngay trước khi ký thỏa ước Oslo, Rabin giải thích: "Người Palestine sẽ có điều kiện tốt hơn chúng tôi [trong việc thiết lập an ninh nội bộ], vì họ sẽ không cho phép kháng cáo lên Tòa án Tối cao và sẽ ngăn cản [các nhóm như] Tổ chức Nhân quyền ở Israel phê bình các điều kiện sống tại đó. [...] Họ sẽ cai trị bằng phương pháp riêng của họ, giúp binh lính Israel được rảnh tay để làm những điều họ cần phải làm".

Trong nhiều thập niên, Arafat biểu thị những nguyện vọng của cả một dân tộc. Bây giờ ông phải có sự điều chỉnh và cố gắng cân bằng những đòi hỏi trái ngược nhau của dân tộc ông và của đối tác hòa bình Israel của ông, thường ông làm mất lòng cả hai. Các cánh cửa nhà tù ở Gaza nói lên tình trạng vật vờ kỳ lạ này. Vào những thời điểm hợp tác với Israel, các phòng giam chật ních những người Hồi giáo bị tình nghi, trong số họ nhiều người từng ngồi tù trong các nhà tù của Israel. Vào những thời điểm đối đầu, như thời kỳ Al-Aqsa Intifada, khi các phe phái Palestine cùng hợp lại chống Israel, nhà tù không còn một tù nhân.

Khi Israel khử được Yihya Ayyash, đám tang của nhà chế tạo bom giết người này được đưa bởi hàng ngàn người Palestine ở Gaza và chính quyền Palestine thương tiếc sự ra đi của vị "tử đạo". Chỉ trước đó mấy tuần, Arafat đã gọi điện chia buồn với người vợ góa của Rabin tại Tel Aviv, nay ông lại lên đường tới chia buồn với người phát ngôn của Hamas, Mahmoud al- Zahhar, đã từng ngồi tù nhiều lần trong các nhà tù của Arafat.

Nhưng khi Hamas khởi sự báo thù bằng các vụ đánh bom, các lực lượng an ninh của Arafat đã phải làm việc rất vất vả. Các vụ tấn công của Hamas ác liệt đến mức suýt làm tiêu tan trò chơi ngoại giao của Arafat.

Đột nhiên, sau vụ thảm sát năm 1996, Hamas bỗng trở nên yên tĩnh một cách kỳ lạ. Ngoài một số vụ tấn công ngắn ngủi vào mùa hè 1997, những kẻ đánh bom đã hầu như hoàn toàn yên lặng cho tới thời kỳ Al-Aqsa Intifada, dù là tiến trình hòa binh bị ngưng trệ trong thời chính phủ Netanyahu hay có tiến bộ trong thời của đảng Lao động, dưới sự lãnh đạo của Ehud Barak. Việc phóng thích Sheikh Ahmad Yassin tháng Mười 1997-để đổi lấy việc trả tự do cho hai nhân viên tình báo Mossad bị bắt ở Jordan sau một vụ ám sát bất thành một lãnh tụ chính trị Hamas-có thể đã có một tác động xoa dịu tình hình.

Người Palestine từ lâu vẫn than phiền rằng Hamas bị Jordan giật dây hầu làm suy yếu chính quyền Palestine, và họ phần nào có lý, vì Jordan vốn được coi là người bạn tốt nhất của Israel trong thế giới Ả Rập. Nhưng khi Quốc vương Abdallah lên trị vì tại Jordan năm 1999 có vẻ như khiến cho Hamas khó hoạt động tự do tại Amman hơn.

Như Rabin đã dự báo trước, lực lượng an ninh Palestine hoạt động một cách còn thô thiển về pháp luật hơn là người Israel. Các quan án dân sự thường bị gạt ra ngoài, các tòa án của lực lượng an ninh kết án tử hình mà không cần nhiều thủ tục. Tra tấn là chuyện thường xuyên. Trong bốn năm tự trị đầu tiên, những tù nhân Palestine chết trong nhà tù Palestine nhiều hơn trong các nhà tù Israel.

Một số nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng tại Gaza từng chỉ trích các vi phạm của Israel-như Eyad Sarraj, một nhà tâm bệnh học ở Gaza và Raji Sourani, một luật sư danh tiếng-cũng đã từng bị bắt giam và quấy nhiễu liên tục. Năm 1996, Sarraj phải ngồi tù một tuần vì đã tuyên bố trên New York Thời báo: "Người ta bị đe dọa. Ai ai cũng có cảm giác sợ hãi. Chế độ đầy tham nhũng, độc tài, áp bức. Tôi rất buồn phải nói lên điều này, nhưng vào thời quân Israel chiếm đóng, tôi còn được tự do hơn gấp trăm lần". Hồi ấy nhiều người nghĩ rằng những lời chỉ trích của Sarraj là quá cường điệu, nhưng không lâu sau, các phê bình giống như thế đã trở thành phổ biến.

Trong bầu khí cai trị vừa hỗn độn vừa chuyên chế như thế, Edward Said, một nhân vật thuộc giới khoa bảng của Đại học Columbia, mô tả chế độ của Arafat như là mang "những tính chất của một cuộc hôn nhân không hạnh phúc giữa sự rối ren của cuộc nội chiến Lebanon và chế độ độc tài của Saddam Hussein tại Iraq".

Phải mất một thời gian dài bộ máy nhân quyền quốc tế mới có thể lưu tâm tới những gì đang được thực hiện bởi lực lượng an ninh Palestine. Người Palestine từ lâu đã được coi là những nạn nhân của Israel khiến bây giờ thật khó để người ta bắt đầu tin rằng chính họ là kẻ áp bức. Nhóm Quan sát Nhân quyền có trụ sở tại New York, trong báo cáo thường niên năm 2000, đã nói: "Bắt giữ người tùy tiện mà không kết án hay xét xử, tra tấn và ngược đãi trong khi hỏi cung, xét xử một cách bất công, và hạn chế tự do lập hội đoàn và tự do ngôn luận, những vi phạm này vẫn tiếp tục diễn ra".

Arafat đã cho phép có một vẻ dân chủ bề ngoài. Hội đồng lập pháp Palestine, được bầu ra cùng lúc với Arafat, đã tranh luận và than phiền về tình trạng tham nhũng, thiếu trách nhiệm, phung phí quỹ công và nhu cầu cai trị bằng luật pháp. Nhưng Arafat đã làm ngơ không biết đến "quốc hội" của ông và để bản dự thảo luật mà ông không thích phải nằm yên dưới lớp bụi dày trên bàn làm việc của ông. Arafat tự coi mình là người cha già của Palestine, một hình ảnh người cha đòi hỏi lòng kính trọng và thỉnh thoảng đánh vài đòn để làm cho bộ tộc vô kỷ luật của ông trở lại trật tự.

Nhưng khi ông trở về Gaza, hình ảnh huyền bí của Arafat bị lật tẩy. Người Palestine biết rõ hơn ai khác các lỗi lầm của con người kỳ lạ có dáng vẻ trầm lặng khiêm tốn này, mà có người cho rằng ông nói tiếng Ả Rập cũng dở như ông nói tiếng Anh, đã trở nên ngày càng yếu.

Abdel-Shafi, một thành viên sáng lập PLO, được kính trọng tại Dải Gaza như một con người nguyên tắc. Ông từng là thương thuyết gia chính tại cuộc hòa đàm Madrid, nhưng đã từ chức để phản đốì tiến trình hòa đàm đang diễn ra song song sau lưng ông tại Oslo. Ông nói thỏa ước mà Arafat ký là một sai lầm. Nó đánh lừa thế giới để họ tin rằng vấn đề Palestine đã được giải quyết xong và không còn áp lực quốc tế đối với Israel nữa.

Chính quyền Palestine cho rằng dân chủ thực sự chỉ có được sau khi có độc lập. Nhưng theo Abdel-Shafi, Palestine chỉ có hi vọng được độc lập nếu thiết lập được một mô hình dân chủ để khơi dậy sự ủng hộ và thiện cảm nhiều hơn ở trong nước và quốc tế. "Tiến bộ chỉ có thể đạt được thông qua một thay đổi dân chủ. Chúng ta cần một xã hội có tổ chức để khai thác mọi tiềm năng chúng ta có. Chúng ta cần sắp xếp lại trật tự trong nhà Palestine". Abdel-Shafi nói trước khi có cuộc nổi dậy Intifada mới nhất, "Tôi nghĩ điều này khó có thể xảy ra dưới quyền cai trị của Arafat".

Bản thân rất khắc khổ, nhưng Arafat thường bị để chỉ trích vì cho phép một hệ thông ô dù và tham nhũng. Với một tổ dịch vụ dân sự kềnh càng và các lực lượng an ninh, chính quyền Palestine đã trở thành nguồn phân phát việc làm và đặc quyền chính tại Dải Gaza. Trong thời kỳ tranh đấu vũ trang, Arafat sử dụng quỹ Ả Rập để mua chuộc sự trung thành và tạo các mối quan hệ lệ thuộc. Trong thời kỳ sẽ có nhà nước độc lập, chính các viện trợ của phương Tây nuôi dưỡng Arafat và hệ thống của ông.

Trước cuộc nổi dậy mới của Intifada, người Palestine thường giải khuây nỗi thất vọng của họ bằng cách kể những câu truyện cười nhắm vào ông Arafat. Một câu truyện kể về một con lừa đứng cản đường một cỗ xe đang chở các lãnh tụ cao cấp Palestine. Một người tìm cách lôi con lừa ra chỗ khác nhưng nó vẫn ương ngạnh đứng giữa đường. Một người khác lấy đá ném vào nó nhưng cũng không làm sao đuổi nó đi. Cuối cùng Arafat bước xuống xe, đến bên con lừa và nói thầm vào tai nó một câu gì đó và lập tức nó tránh đi.

_"Ông đã nói gì với con lừa?" một bộ trưởng hỏi.

_"Tôi đề nghị cho nó một chức trong chính quyền Palestine" Tổng thống trả lời.

Mặt trời lên dần trong đám sương mờ của bình minh. Dưới đất vẫn còn chạng vạng tốì, nhưng đã rất ồn ào với tiếng gầm của xe cộ trên đường tới Erez, cửa ngõ từ Dải Gaza tới Israel. Hàng ngàn người trên các chiếc xe Peugeot chạy bằng ắc qui đang đổ xô tới phía mặt trời đỏ ửng. Các ánh đèn xe chiếu vào đám bụi bị hất tung lên bởi các bánh xe, các chiếc giày và các đám lửa của những người bán hàng đốt lên, tạo sức sống cho người lao động trước khi bắt đầu một ngày vất vả ở bên kia biên giới.

Các sĩ quan cảnh sát Palestine chặn lại đoàn xe ngay sát biên giới. Các công nhân-tất cả đều là đàn ông, nhiều người giữ chặt những túi nhựa đựng thức ăn và các đồ cần thiết-mau chóng đi dọc theo mấy trăm mét cuối cùng của một lối đi có rào kín. Phía bên kia là hơn hai chục lằn đường, mỗi lằn đường có một cái lồng sắt bảo vệ một nhân viên Israel kiểm tra giấy phép của các công nhân. Đây là một trại người giống như trại súc vật. Các cửa quay lách cách đều đặn trong khi các anh lính đeo súng bước đi lững thững giữa các hàng công nhân.

Đối với Gaza, thì đây là một sự bùng nổ kinh tế-một đoàn lũ công nhân lem luốc đang làm những công việc nặng nhọc và bấn thỉu cho Israel. Những công nhân này cảm thấy mình may mắn vì có việc làm. Được phép làm việc ở Israel đáng giá bằng mọi của cải ở Gaza, một bảo đảm cho đời sống của cả một gia đình lớn.

Erez là mạch máu chính của Gaza. Nếu con số công nhân ở Erez gia tăng, đời sống kinh tế Palestine sẽ phát triển nhanh; nếu Israel chặn lại, Gaza sẽ khốn đốn. Trong thời kỳ bạo động của Al-Aqsa Intifada, người Israel sử dụng đạn cao su, súng máy, ném bom và ám sát. Niềm hy vọng cuối cùng của họ để phục hồi quyền kiểm soát là làm tê liệt nền kinh tế của Palestine để bắt buộc họ từ bỏ bạo loạn.

Kể từ khi ký thỏa ước Oslo, phần còn lại của thế giới Ả Rập, nhất là giới trí thức, cố gắng kìm lại xu huớng tiếp xúc văn hoá hay kinh tế với Israel. Mốì nghi ngờ của thế giới Ả Rập về tiến trình hòa bình được tóm lược bởi một bức hí hoạ của Ai Cập vẽ một lính Israel đánh đổi bộ quân phục của anh lấy bộ quần áo của một người lái buôn trên con đường chinh phục thế giới Ả Rập. Tuy nhiên, đối với người Palestine, hợp tác kinh tế với Israel không phải là một vấn đề để tranh luận mà là một vấn đề của nhu cầu. Một trong những công việc kinh doanh nhiều lợi nhuận nhất cho Palestine là khu casino tại Jericho nhằm thu hút các tay chơi Israel. Trước cuộc nổi dậy của Intifada, ngày càng có đông dân làm ăn Israel vượt qua biên giới Bờ Tây để mua lương thực và hàng hoá của người Palestine. Một nguồn thu nhập không được nói ra là việc tổ chức ăn cắp xe ô tô của người Israel, nhiều xe được sơn lại màu xanh lơ và người lái xe không ai khác hơn chính cảnh sát Palestine.

Năm 1990, có đến một phần ba lực lượng lao động của Gaza làm việc tại Israel. Tiền của kiếm được tại Israel và do những người Gaza từ nước ngoài gửi về nước chiếm hơn một nửa tổng sản lượng quốc gia của Dải Gaza, trong khi sản xuất nông nhiệp ở Gaza, đặc biệt về cam, ngày càng sa sút. Đa số người Palestine lao động tại Israel trong nghề xây dựng-tại Tel Aviv, tại các thành phố vệ tinh đang bùng nổ của Israel và thậm chí tại các khu định cư Do Thái đang từng ngày gặm nhấm nốt chút ít còn lại của Palestine Ả Rập. Đó là một dấu hiệu của sự lệ thuộc rõ rệt của người Palestine vào nền kinh tế của Israel, vì trong ba thập niên kể từ khi Israel chiếm bờ Tây và Dải Gaza, nhà nước Israel đã được xây dựng chủ yếu bằng sức lao động của người Palestin. Trong một số trường hợp, người Gaza cũng đi làm công việc nông nghiệp, gặt hái trên các mảnh đất mà trước kia là của gia đình họ.

Ở cực nam của Dải Gaza, Ai Cập ra luật hạn chế khắt khe việc đi lại của người Palestine. Những người này phải được cảnh sát đi kèm dù chỉ muốn đến sân bay Cairo. Bên trong Dải, quân đội Israel kiểm soát các giao lộ và các con đường chiến lược, chủ yếu nhằm bảo vệ mấy ngàn dân định cư đang chiếm khoảng một phần tư số đất của Dải Gaza và giành nguồn nước uống.

Arafat đã xây một sân bay quốc tế trang bị đầy đủ gần Rafah, nhưng trong suốt bốn năm nó phải nằm yên bất động. Người Do Thái không muốn cho phép sân bay này hoạt động vì họ sợ mất kiểm soát sự lưu thông của người và hàng hóa tại Gaza. Cuối cùng, năm 1998, sân bay đã được mở, hãng Hàng không Palestine đã có thể đi từ nơi lưu đày của nó ở Cảng Said thuộc vùng Sinai tới Gaza, phục vụ bảy tuyến bay trong vùng với một đội ba chiếc máy bay. Khi cuộc nổi dậy xảy ra, các tuyến bay này cũng thường xuyên bị cắt. Tuy nhiên, cả khi nó hoạt động, người Israel vẫn điều khiển ở phía sau.

Dải Gaza "giải phóng" là một nhà tù lớn. Kích thước: dài 28 dặm, rộng 3 đến 8 dặm. Dân số: 1.040.000 người Palestine không có quốc tịch, hai phần ba trong số này là dân tị nạn. Là thành phố lớn nhất của Palestine, Gaza được coi là thủ đô tương lai của nhà nước Palestine. Nhưng ở thời điểm này nó chỉ hơn một ngôi làng của người Bantustan, một hình thức chính quyền từng bị người Nam Phi xóa bỏ vào đầu thập niên 1990 và được Israel tái sáng chế năm 1993 theo thỏa ước Oslo-với sự đồng ý của người Palestine và sự tán thành của cộng đồng quốc tế.

Nhưng đối với Arafat, Gaza là hạt nhân của nhà nước tương lai. Nó từng là thủ phủ của Chính quyền Toàn-Palestine của Haj Amin al-Husseini, được thiết lập năm 1948 dưới sự bảo trợ của Ai Cập và bị Cairo xóa bỏ năm 1952. Nó là nơi khai sinh phong trào Intifada. Gaza là phần đất duy nhất của Palestine không bị phía nào đòi quyền sở hữu. Khác với Bờ Tây từng bị Jordan thôn tính, Dải Gaza được Ai Cập cai trị như một loại đất để dành; Cairo không muốn có quan hệ quá mật thiết với nó. Đối với người Israel, Gaza không có sức khơi dậy tình cảm tôn giáo bằng Bờ Tây.

Gaza đã luôn luôn có người ở từ hơn ba ngàn năm. Nó được xây dựng như một trạm chiến lược trên đường Via Maris, đường biển lớn của Địa Trung hải thời cổ. Người ta nghĩ rằng vải sa có xuất xứ từ đây, lấy tên gọi từ Gaza. Kinh thánh nói Samson bị chết tại Gaza khi phá sập đền thờ của người Philitine, từ đó có tên gọi Palestine và người Palestine ngày nay. Người ta cũng cho rằng Gaza là nơi chôn cất ông nội của Muhammad, là nơi sinh của Al-Shafi ở thế kỷ VIII, người sáng lập trường phái Shafi’it về ngành pháp luật Hồi giáo.

Arafat từng dự báo chắc như đinh đóng cột rằng Gaza sẽ trở thành một Singapore của Trung Đông. Nhưng các điều kiện kinh tế yếu kém-do những sự siết chặt của Israel và sự quản lý kém của Palestine-khiến các nhà đầu tư liều lĩnh nhất cũng không dám nhảy vào.

Khi lần đầu tiên tới Trung Đông, Dải Gaza hầu như không có đường biên giới rõ rệt nào. Erez không có trên bản đồ. Kể từ khi Israel chiếm Bờ Tây và Dải Gaza năm 1967, các đất này đã bị coi là "được quản trị" hơn là "chiếm đóng". Chúng không được sát nhập hợp pháp vào Israel, nhưng các nhà vẽ bản đồ không dám vẽ các ranh giới. Chỉ gần đây thôi, sau thỏa ước Oslo, các đường biên giới mới xuất hiện trên bản đồ.

Vào thời cao điểm cuộc nổi dậy của Intifada, các lái xe Israel vô ý có thể bị lạc vào một cuộc bạo loạn ở Gaza. Sau nhiều khủng hoảng an ninh liên tiếp và việc thiết lập quyền tự trị của Palestine, Israel đã có những biện pháp an ninh xiết chặt hơn ở Erez. Đường biên giới