← Quay lại trang sách

- 7 - (tt)

Vương cung Thánh đường Truyền Tin trông giống như một tên lửa sắp sửa được bắn lên từ bệ phóng trung tâm ọp ẹp Nazareth. Người ta có thể nhìn thấy nó từ mọi góc của thành phố, nhưng vẻ bề ngoài uy nghi của nó mang dáng thô kệch của kiểu kiến trúc ở quê Đức Giêsu. Thế nhưng nhà thờ này là niềm tự hào của thành phố và đặc biệt của các tu sĩ dòng Phan Sinh, những người được vinh dự "trông nom" các nơi thánh của Giáo hội Công giáo Roma ở Đất Thánh. Được xây dựng trên cái hang mà từ xưa vẫn được tôn kính như là nơi mà Thiên sứ Gabriel đã báo tin cho Maria rằng bà sẽ sinh ra Con Thiên Chúa, nội thất của thánh đường hiện nay được thiết kế cực kỳ hiện đại. Cấu trúc bê tông đơn sơ của nó được làm dịu đi bởi những bức tranh bằng đá ghép vào những tấm biển nghệ thuật được dâng tặng từ các công đoàn rất xa như Venezuela và Nhật Bản, nó biểu thị tính phổ quát của Giáo hội Roma.

Đây là ngôi thánh đường lớn nhất ở Trung Đông và kiến trúc kiểu pháo đài của nó phù hợp với vị trí của nó là một thành luỹ phòng thủ của Kito giáo ở vùng Cận Đông. Tầm quan trọng của Nazareth đối với thế giới Kito giáo có nghĩa là thành phố không phải chịu số phận mất mát mà người Ả Rập phải chịu ở Jaffa, Haifa, Lod và Ramla. Sau 1948, Nazareth trở thành thành phố Ả Rập lớn nhất ở Israel, một thánh điện cho những người Palestine còn sót lại tại nước này, một "thủ đô" Ả Rập trong một nhà nước Israel.

Các công trình xây dựng Vương cung Thánh đường mới được khởi công năm 1955, vào thời mà người Ả Rập tại Israel, tuy được coi là công dân, nhưng phải sống dưới chế độ thiết quân luật và phải có phép mới được đi lại trong nước. Người Palestine ở Israel bị đối xử như một tập thể bạo loạn nguy hiểm, một nhóm nội gián Ả Rập trong lòng nhà nước Do Thái. Đồng thời họ bị cô lập bởi thế giới Ả Rập bên ngoài vì họ bị coi những người Israel đáng nghi. Họ sống trong một nền dân chủ nhưng dưới quyền cai trị quân sự từ 1948 tới 1966. Họ bị từ chối tư cách Palestine và tư cách thành viên của xã hội Israel.

Những người Israel Palestine, hay người Ả Rập Israel, theo ai thích tên gọi nào, đã được quan hệ lại với nhưng người thân tộc Palestine ở Bờ Tây và Dải Gaza sau chiến thắng của Israel năm 1967. Nhưng con số khoảng một triệu người Ả Rập Israel này, vốn chiếm một phần năm dân số, vẫn còn bị coi như một bộ tộc đã mất của dân Palestine, bị bỏ rơi trên mảnh đất vô chủ của cuộc xung đột giữa Israel và Ả Rập, giữa quốc tịch của họ và lai lịch của họ. Với thời gian, tiếng Ả Rập mà người Israel Palestine nói đã bị pha lẫn những từ Do Thái.

Adeeb Daoud, một kiến trúc sư sống tại Nazareth nói: "Khi tôi ra nước ngoài, tôi gặp rất nhiều lẫn lộn. Nếu tôi nói tôi người Palestine, người ta sẽ tưởng tôi sống ở Bờ Tây. Nói tôi là người Israel, họ nghĩ tôi là người Do Thái. Có lần tới Ai Cập và người ta tưởng tôi là một người Do Thái Yemen. Bạn luôn luôn phải giải thích lai lịch của bạn".

Cha mẹ ông sinh tại nơi mà bây giờ là ngôi làng Iqrit đã tàn phá, một ngôi làng của giáo phái Kito giáo Maron, ở sát biên giới với Lebanon. Gia đình ông âm thầm mừng ngày Độc Lập của Israel, là ngày mà đa số người Ả Rập Israel không phải nó là ngày duy nhất trong năm mà người Iqrit được phép về thăm những ngôi nhà đổ nát của họ. "Khi tôi còn bé, chúng tôi không được phép đến Iqrit," Daoud nói. "Những ngày Độc Lập là một ngày tự do. Mọi khu vực quân sự đóng cửa được mở vào ngày này. Bạn có thể đến Iqrit và than khóc ngôi làng của bạn vào ngày mà Israel mừng ngày Độc Lập".

Iqrit đã trở thành một đề tài tranh cãi đối với người Palestine Israel. Ngôi làng không bị phá hủy trong sự sôi sục của chiến tranh, nhưng là kết quả của những tính toán thời hậu chiến tranh lạnh về ước muốn của Israel là có một dải lãnh thổ gần biên giới không có bóng dáng người Ả Rập. Người ta bảo với dân làng rằng họ sẽ được di tản tạm thời vào tháng Mười Một 1948, và tuy có lời hứa họ sẽ được trở lại, nhưng Iqrit đã bị phá hủy vào đêm Giáng sinh 1951.

Chỉ còn lại ngôi thánh đường Đức Mẹ có mái vòm màu xanh là còn nguyên vẹn. "Ngôi thánh đường này là chứng tích của Thiên Chúa về tội ác tầy trời mà người Israel đã phạm" theo lời Aouneh Sbeit, một nhà thơ dân gian và là một phát ngôn viên cho chiến dịch tranh đấu đưa người Iqrit trở về và tái thiết làng mạc của họ. Ở đây, giữa các bức tượng của ngôi nhà thờ Công giáo Hy Lạp, các gia đình Iqrit tụ tập lại vào các dịp lễ Giáng sinh và Phục sinh, lễ tang và lễ cưới. Vị linh mục của làng đã qua đời nhiều năm rồi, vì vậy giáo dân bây giờ phải mượn một giáo sĩ từ các cộng đoàn Kito giáo Ả Rập khác tại Galilee. Chỉ người chết mới được phép trở lại đây: năm 1972, Israel cho phép dân làng đưa người chết về chôn cất trong làng.

Cuối thời chính quyền Anh cai trị, có khoảng 500 người sinh sống tại đây. Số dân còn sống sót và con cháu họ bây giờ ở rải rác khắp nước Israel. Năm 1995, chính quyền chỉ cho phép một số dân làng trở về và lấy lại phần đất xưa kia của họ, nhưng cộng đồng từ chối đề nghị này vì họ coi là không đủ.

Các cộng đồng Do Thái cũng phản đối. "Nếu cho phép họ trở về, thì hàng ngàn người từ các làng khác cũng đòi trở về" theo lời của Avi Krampa, chủ tịch hội đồng miền và là một cư dân ở Shomera, cách Iqrit khoảng vài trăm mét. Ông không thấy hối hận vì đã chiếm đất của người khác sao? "Tôi thấy rất tốt, rất tốt. Tôi không cảm thấy có lỗi. Tôi không nghĩ người Do Thái phải cảm thấy có lỗi vì sống trên đất Israel".

Tuyên ngôn độc lập của Israel long trọng cam kết rằng nhà nước Do Thái sẽ cổ vũ việc phát triển đất nước vì lợi ích của mọi dân cư của nó; nó sẽ dựa trên tự do, công bằng và hòa bình như lời dạy của các tiên tri của Israel; nó sẽ bảo đảm đầy đủ các quyền bình đẳng về chính trị và xã hội cho mọi công dân bất luận thuộc tôn giáo, chủng tộc hay giới tính nào; nó sẽ bảo đảm quyền tự do tôn giáo, lương tâm, ngôn ngữ, giáo dục và văn hóa..." Thế nhưng các số liệu thống kê vẽ trên một bức tranh kỳ thị có hệ thống chống lại dân A Rập Israel. Cho dù người Ả Rập có cải thiện đến đâu mức sống, sức khỏe và giáo dục của họ, thì những thành tựu của họ vẫn thua xa những thành tựu của người Do Thái.

Người Ả Rập chiếm 20 phần trăm dân số Israel, nhưng năm 1999 chính phủ nhìn nhận rằng họ chỉ nắm giữ 5 phần trăm các công việc dịch vụ dân sự. Chỉ có 70 người Ả Rập trong số 3.386 viên chức thuộc bốn cấp cao nhất, trong khi người Ả Rập chiếm đa số trong các công việc có mức lương thấp. Kể từ khi thành lập nhà nước Israel, không người công dân Ả Rập nào được bổ nhiệm vào những chức vụ tổng giám đốc hay phó tổng giám đốc trong một bộ của chính phủ. Một thẩm phán Ả Rập đã giữ chức một năm trong Tòa án Tối cao Israel, nhưng sau đó bị thay thế bởi một thẩm phán người Do Thái.

Năm 1997, Công ty Điện Israel nhìn nhận nó chỉ có 5 người Ả Rập và "một số người Druze và Circassian" trong tổng số 10 ngàn nhân viên của công ty. Vì việc phát điện và phân phối điện được coi là một ngành kỹ nghệ chiến lược, mỗi người làm đơn xin việc phải trải qua một cuộc đánh giá về an ninh.

Việc chia đất có lẽ là bằng chứng ấn tượng nhất về sự bất công. Trong ba thập niên đầu tiên sau khi tuyên bố nhà nước, số đất do người nông dân Do Thái canh tác tăng gần gấp đôi, trong khi số đất canh tác của người Ả Rập thu nhỏ đi rất nhiều. Những thành phố mới được xây dựng cho người Do Thái, trong khi người Ả Rập phải chịu đủ thứ hạn chế về xây dựng. Nazareth và các cộng đồng Ả Rập khác bị mất đất để nhà nước có thể thiết lập các thành phố mới của người Do Thái gọi là Natzeret Illit hay "Nazareth Thượng" ở vùng cao trên thành phố Ả Rập. Không phải đợi lâu cũng có thể thấy thành phố Nazareth nào nhận được ngân quỹ lớn hơn của nhà nước.

Năm 1976, một cuộc tổng đình công để phản đối việc trưng thu đại trà đất đai của người Ả Rập ở Galilee đã trở thành một cuộc bạo động: sáu người Ả Rập bị giết và nhiều người khác bị thương trong các cuộc đụng độ với lực lượng an ninh. Kể từ đó, "Ngày Đất Đai" đã trở thành một điểm biểu dương lực lượng của người Ả Rập Israel, một thời gian để khẳng định căn tính dân tộc.

Người Palestine ở Bờ Tây và Dải Gaza mới đây cũng đã bắt đầu tổ chức Ngày Đất Đai để biểu dương tình liên đới với "những người Palestine của năm 1948." Ngoài ra, vào năm 2000, lần đầu tiên các thị xã của người Druze tại Israel cũng góp thêm tiếng nói của họ cho các cuộc kỷ niệm này. Việc dần dần bình thường hoá các quan hệ giữa Israel và Plt trong tiến trình Oslo đã dẫn đến những cố gắng thiết lập sự bình đẳng ngày càng nhiều hơn cho các công dân Ả Rập. Ngày 8 tháng Ba 2000, Tòa án Tối cao quy định rằng việc nhà nước chỉ cấp phát đất đai cho người Do Thái là bất hợp pháp, và bênh vực đôi vợ chồng người Ả Rập khi họ phàn nàn về việc họ không được phép xây nhà tại khu định cư Do Thái ở Katzir. Quyết định này là một cú đòn đánh vào một cột trụ nền tảng của chủ nghĩa Phục quốc Do Thái-đất do nhà nước chiếm được cho người Do Thái phải nằm trong tay người Do Thái vĩnh viễn. Nhiều tháng sau, với cao trào nổi dậy của người Palestine vượt qua biên giới ở Bờ Tây, các cư dân Do Thái đã có một hành động tập hậu hiệu quả chống lại việc chấp nhận người Ả Rập.

Nhưng cũng như ở Bờ Tây, "tiến bộ" này đã không ngăn cản được người Ả Rập Israel mạnh mẽ bày tỏ sự thất vọng của họ khi phong trào Al-Aqsa Intifada bùng nổ. Đã xảy ra các cuộc bạo loạn tuy ngắn nhưng mãnh liệt chưa từng thấy trong các cộng đồng người Ả Rập Israel. Cảnh sát Israel đã bắn chết 13 người Ả Rập Israel, và đám đông người Do Thái ở Nazareth Thượng đã tràn xuống thành phố Ả Rập và giết chết hai người. Có vẻ như người Israel cũng đã kết luận rằng người Ả Rập Israel thực sự không phải là người Israel mà là người Ả Rập. Hành động quá nặng tay của cảnh sát đã phá hủy niềm tin về khả năng có sự bình đẳng cho người Ả Rập. Tuy có lời xin lỗi của Ehud Barak ngay trước ngày bầu cử, ông đã mất sự ủng hộ quan trọng của người Ả Rập và đã thất cử.

Trong nhiều năm, sinh hoạt chính trị dân tộc của người Palestine ở Israel xoay quanh đảng Cộng sản, là đảng liên hợp duy nhất giữa người Ả Rập và Do Thái, đảng này chủ trương bình đẳng cho người Ả Rập và một giải pháp hai nhà nước cho vấn đề Palestine. Bên cạnh những cây thánh giá và những tháp nhà thờ hình xoắn ốc, cũng phất phới bay các lá cờ đỏ, mặc dù chế độ cộng sản đã sụp đổ tại Liên Xô.

Tawfiq Zayyad, nhà thơ và đảng viên cộng sản kỳ cựu người Hồi giáo và là thị trưởng Nazareth đã viết:

“Chúng ta sẽ ở lại đây...

... Như bức tường gạch trên ngực các ngươi

và trong cổ họng các ngươi

như một mảnh kính vỡ, như cây gai nhọn

và trong mắt của ngươi

một khối lửa loạn xạ

Chúng ta sẽ ở lại đây

Như bức tường trên ngực các ngươi

Rửa chén đĩa, lau chùi song cửa

Rót rượu cho các lãnh chúa của chúng ta

Lau chùi nền nhà bếp bẩn thỉu

Để giành giật một mẩu bánh cho con cái chúng ta

Từ chính những chiếc răng nhọn của các ngươi.

Một số người Palestine ở Israel công khai nhận mình thuộc PLO, bỏ nước để gia nhập cuộc đấu tranh vũ trang ở nước ngoài. Nhưng với đa số còn lại, điều chính yếu họ đòi hỏi là được bình đẳng với người Israel hơn là bị tiêu diệt. Tuy họ rất có thiện cảm với những người Palestine ở Bờ Tây và Dải Gaza, nhưng rất ít người Palestine ở Israel ủng hộ Yasser Arafat hay tỏ ý định muốn sống dưới chế độ của ông.

Năm 1998, Azmi Bishara, một trong những thế hệ mới của phong trào dân tộc, đã có một quyết định đơn sơ nhưng ngược đời là ra tranh cử Thủ Tướng người Ả Rập đầu tiên của Israel. Phe Do Thái cánh hữu tức giận trước thái độ ngông nghênh của ông và tìm cách tạo áp lực để có một đạo luật đòi hỏi chức vụ Thủ Tướng của Israel phải là người Do Thái. Phản ứng của nhiều người Ả Rập cũng rất ấn tượng. Khi Bishara đi vận động tranh cử trong nước trước cuộc bầu cử năm 1999, những người A Rập cả đối thủ lẫn bạn bè của ông đều tìm cách thuyết phục vị giáo sư triết học tự phụ này từ bỏ ý định. Các nhà lãnh đạo người A Rập Israel khác thì lên án cuộc vận động tranh cử của ông là "vô trách nhiệm", "tự sát chính trị" và "phí phạm lá phiếu Ả Rập" họ cho rằng, vì làm chia rẽ liên minh cánh tả truyền thống giữa phe Ả Rập và phe phục quốc, nó sẽ là một món quà biếu không cho đảng Likud. Ngay cả Yasser Aratat cũng tỏ ra tức giận.

Bishara tự biết mình không thể nào thắng cử, nhưng ông thích so sánh cuộc vận động tranh cử của mình với cuộc vận động của Jesse Jackson ở Mỹ. Ông lý luận rằng sự thay đổi trong hệ thống bầu cử tại Israel, theo đó bây giờ có các cuộc bầu phiếu riêng rẽ cho thủ tướng và cho quốc hội, và như thế tạo cơ hội cho người Ả Rập để có tiếng nói trong các chương trình nghị sự chính thức. Bishara hy vọng có được sự ủng hộ đủ để khiến cho cả đảng Lao động lẫn đảng Likud đều không thể giành được chiến thắng tuyệt đối, để buộc phải có một vòng bầu cử thứ hai, và đảng nào muốn nhận được sự ủng hộ của ông, đảng ấy phải có những nhượng bộ chính trị.

Tuy nhiên, cuối cùng Bishara đã rút lui trước khi có cuộc tranh cử vòng đầu và giúp cho lãnh tụ đảng Lao động Ehud Barak sự ủng hộ để ông này có thể thắng Binyamin Netanyahu. Trò chơi của ông thất bại, nhưng về một phương diện nào đó, Bishara đã cho thấy quan điểm của ông-phơi bày sự mâu thuẫn giữa Israel như một nhà nước Do Thái và Israel như một nền dân chủ.

Quan điểm chính trị của Bishara là sự kết hợp kỳ lạ các yếu tố đối chọi nhau. Mặc dù là công dân Israel, nhưng ông đã có một thời gian dài làm giáo sư tại Đại học Bir Zeit ở Bờ Tây. Mặc dù ra tranh cử Thủ tướng Israel, ông không nghĩ rằng người Ả Rập Israel nên gia nhập quân đội Israel. Ông đòi hỏi chấm dứt sự phân biệt đối xử với người Ả Rập Israel, nhưng lại tin rằng điều này không thể nào xảy ra trong nhà nước theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Mặc dù gốc là người Palestine, ông không còn tin vào đòi hỏi tiêu chuẩn hiện nay của Palestine- một nhà nước độc lập ở Bờ Tây và Dải Gaza. Cuối năm 2001, ông từ bỏ quyền miễn trừ của mình trong quốc hội để đổi sang ủng hộ các tổ chức khủng bố sau khi ông hô hào người Ả Rập "mở rộng phạm vi kháng chiến" trong một cuộc thăm viếng Syria của ông.

"Đời sống tại đây đầy mâu thuẫn" Bishara nói với tôi vào năm 2000, miệng phì phào điếu xì gà ưa thích của ông tại văn phòng ông ở Nazareth. "Dân là người Ả Rập, người Palestine, nhưng họ khao khát được bình đẳng với các công dân Israel. Bạn sẽ không bao giờ có bình đẳng với người Do Thái. Bạn đang tự lừa dối chính mình nếu bạn nghĩ bạn có thể bình đẳng-trừ phi bạn cải đạo để theo Do Thái giáo".

Đòi hỏi để được bình đẳng, để được đồng hoá với người Israel, sẽ chỉ dẫn đến sự chia rẽ giữa những người Ả Rập với nhau, là một bước thụt lùi. "Nếu bạn đánh mất bản sắc dân tộc của mình, bạn sẽ không trở thành người Thuỵ Điển. Bạn sẽ trở thành người Kito giáo, người Druze, người Hồi giáo. Đó sẽ là tiền-dân tộc". Như để chứng minh quan điểm của ông, những thành viên hoạt động trong phong trào Hồi giáo đã cắm trại tại một khu đất trống đối diện với văn phòng của ông để đòi xây dựng một nhà thờ Hồi giáo mới to lớn ngay dưới chân Vương cung Thánh đường Truyền Tin.

Cuộc tranh cãi này đã gây ra sự rạn nứt tệ hại nhất giữa người Kito giáo và Hồi giáo trong thành phố đầy kỷ niệm này, dẫn đến các cuộc bạo động tranh giành vào lễ Phục sinh 1999. Người Kito giáo coi đòi hỏi này là một sự khiêu khích cố tình, một cố gắng của người Hồi giáo nhằm giành giật quyền sở hữu đất thánh Nazareth của họ. Người Hồi giáo trả lời rằng khu đất này ở gần một đền thờ Hồi giáo, dù sao ở Nazareth vẫn còn thiếu nhiều nhà thờ Hồi giáo. Sau khi chấp thuận cho xây đền thờ Hồi giáo, chính phủ Israel đã cho ngưng việc xây cất tại đây vào tháng Giêng 2002 vì có những lời cảnh cáo của Vatican rằng nếu xây nhà thờ Hồi giáo sẽ tạo ra một "khối ung" trong mối quan hệ giữa Vatican và người Do Thái.

Nhóm Hồi giáo xuất hiện ở Israel từ thập niên 1990. Dân biểu Hồi giáo đầu tiên, Abdulmalik Dehamshe, được bầu vào viện Knesset năm 1996, đồng thời với Bishara. Ông ngay lập tức cho thấy sự hiện diện của mình bằng cách đọc bài diễn văn đầu tiên bằng tiếng Ả Rập và đã thành công trong việc đòi hỏi rằng phải xây một nhà thờ Hồi giáo trong khu vực viện Knesset. Là một luật sư đại diện cho các tù nhân Palestine ở các lãnh thổ bị chiếm, ông từng là một cảm tình viên của đảng Cộng sản vào các thập niên 1960 và 1970. Sau khi ngồi tù 7 năm vì là thành viên đảng Fatah, ông trở thành một tín đồ Hồi giáo nhiệt thành và là đại diện cho Sheikh Ahrnad Yassin, lãnh tụ tinh thần của Hamas.

Người Kito giáo ở Palestine từ xưa vốn coi mình chủ yếu là người Palestine. Hoàn toàn hội nhập vào văn hoá Ả Rập, họ đóng một vai trò nổi bật trong những cuộc gây náo động ban đầu chống lại chương trình định cư của chủ nghĩa phục quốc và cuộc đấu tranh vũ trang theo sau. George Habash, "Cha đẻ của hoạt động cướp máy bay" và Naif Hawatmeh-cả hai đều là Kito giáo-cầm đầu các phe nhóm Mác xít cực đoan khiến họ lập tức trở thành những đốì thủ quyết tâm nhất chống lại Israel. Nhưng ngày nay người Kito giáo chỉ còn là một thiểu số bị đánh bại trong cộng đồng thiểu số Ả Rập.

Có khoảng 150 ngàn người Kito giáo ở Palestine năm 1947, chiếm gần 13 phần trăm dân số Ả Rập tại đây. Khi cuộc chiến Ả Rập-Israel đầu tiên nổ ra, các gia đình Kito giáo giàu có là những người đầu tiên bỏ đi và khi cuộc chiến kết thúc, có khoảng 50 ngàn người Kito giáo trở thành dân tị nạn trong thành phần người Ả Rập di tản khỏi Palestine. Người Kito giáo không luôn luôn bị trục xuất một cách có hệ thống như người Hồi giáo, đặc biệt tại Galilee. Các con số thống kê của chính phủ Israel cho thấy năm 1949, người Kito giáo chiếm khoảng 21 phần trăm trong số xấp xỉ 150 ngàn người Ả Rập còn ở lại Israel.

Người Kito giáo, phần lớn thuộc phái Chính Thống giáo Hy Lạp, tiếp đến là Công giáo Roma, ngày nay chiếm khoảng 11 phần trăm dân số không phải Do Thái của Israel, họ có đời sống khá hơn so với những đồng đạo của họ đang sống tại Bờ Tây và Dải Gaza, ở đó họ chỉ chiếm 2 phần trăm dân số của nước Palestine vừa ra đời. Tại Bethlehem, các nhà thờ thường kéo chuông để tang khi có thiếu nữ Kito giáo lấy chồng Hồi giáo.

Tại Jerusalem, người Kito giáo từ con số 29 ngàn dưới thời cai trị của Anh năm 1944, rớt xuống khoảng 15 ngàn dưới thời cai trị của Jordan năm 1966 và xuống còn 10 ngàn người dưới thời cai trị của Israel ngày nay. "Tôi sợ rằng sau 15 năm nữa, Jerusalem và Bethlelem sẽ trở thành một thứ công viên Kito giáo kiểu Walt-Disney, một nơi để người Kito giáo tới tham quan xem thời xưa người Kito giáo ở đây đã giữ đạo thế nào" theo lời Tổng Giám Mục George Carey của Canterbury, khi ông đến thăm Trung Đông năm 1992. "Tôi muốn người Kito giáo có thể đến đây và chứng kiến một Kito giáo sống động".

Người ta thường cho rằng nguyên nhân sự sa sút con số người Kito giáo tại đây là do sự áp bức của chính quyền Israel.

Chắc chắn cuộc xung đột với Palestine (đặc biệt các xáo trộn ở Bờ Tây và Dải Gaza), các chính sách quan liêu nhằm giảm bớt con số người Ả Rập ở Jerusalem, hàng loạt các biện pháp an ninh của Israel cũng như các chính sách đối xử ưu đãi với người Do Thái là lý do khiến cho người Kito giáo không muốn ở lại. Nhưng đây chỉ là một phần của bức tranh phức tạp. Các khó khăn mà người Kito giáo phải đốì phó thì người Palestine Hồi giáo cũng gặp phải, thậm chí còn nhiều hơn. Nhưng người Hồi giáo tỏ ra dũng cảm hơn. Người Kito giáo tại khắp vùng Trung Đông đều gặp rắc rối, từ những người Chaldea ở Iraq tới những người Copt ở Ai Cập. Cố gắng nhằm đạt được một nhà nước Kito giáo ở Lebanon đã gặp thất bại thảm hại và kết thúc bằng một cuộc nội chiến khủng khiếp.

Là thành phần trung lưu và học thức hơn trong xã hội, người Kito giáo tại khắp vùng đều đấu tranh chống lại hai kẻ thù dân số-một tỉ suất sinh đẻ thấp hơn người Hồi giáo và một tỉ suất di dân cao hơn. Người Kito giáo có tỉ lệ di cư cao hơn bởi vì họ dễ làm điều này hơn-họ có học, có nghề nghiệp, và có các bà con họ hàng của họ ở nước ngoài để giúp họ nhập cư và định cư ở một nước mới. Người Kito giáo bắt đầu bỏ di cư trong thế kỷ trước và các tên nước ngoài được họ ưa thích-George, Albert, Jimmy, v.v...là bằng chứng sống động cho thấy họ cảm thấy dễ hòa đồng với thế giới Kito giáo rộng lớn hơn.

Nguyên đơn Số" 11, Su'ad Srour al-Meri, nhớ lại ngày thứ sáu, 17 tháng Chín 1982, khi những tên lính dàn hàng tiến vào trại tị nạn Sabra và Shatila ở Beirut. Cô làm chứng trước tòa bằng bản viết tay của cô:

“Họ bắt chúng tôi đứng thành hàng trong phòng và họ bắt đầu bàn xem có giết chúng tôi không. Rồi họ bắt chúng tôi đứng thành hàng áp mặt vào tường và bắn chúng tôi. Ai chết thì chết; tôi còn sống sót cùng với mẹ tôi. Các em trai tôi là Maher và Ismail đang núp trong buồng tắm. Khi bọn lính ra khỏi nhà, tôi gọi to tên hai em tôi; khi một đứa đáp lại, tôi biết nó không chết. Mẹ tôi và em gái tôi thoát được ra khỏi nhà, nhưng tôi thì không. Một lát sau, khi tôi đang đi, bọn chúng quay lại, chúng nói với tôi, "Mày còn sống hả?" rồi bắn tôi lần nữa. Tôi giả vờ chết. Đêm hôm ấy tôi tỉnh dậy và thức cho tới thứ bảy. Tôi cố bò vào giữa phòng và đậy các xác chết lại. Khi tôi giơ tay tìm bình nước, chúng bắn vào tôi ngay lập tức. Tôi chỉ cảm thấy viên đạn ở bàn tay và tên lính bắt đầu chửi thề. Một tên lính thứ hai lại gần và lấy báng súng đập vào đầu tôi; tôi ngất đi. Tôi bất tỉnh như thế cho tới thứ bảy, khi người hàng xóm đến và cứu tôi.”

Su'ad mười bốn tuổi khi xảy ra vụ thảm sát ấy. Cô mất cha, ba em trai (11, 6 và 3 tuổi) và hai em gái (18 tháng và 9 tháng tuổi). Câu chuyện của cô là một trong nhiều câu truyện kinh hoàng về cuộc thảm sát hàng trăm, thậm chí hàng ngàn người Palestine. Một viên đạn vẫn còn nằm trong cột sống cô, và cô phải đi bằng nạng. Tháng 6 năm 2001, cô sang Brussels đại diện cho 23 người Palestine và Lebanon đứng nguyên đơn kiện con người mà họ cho là chịu trách nhiệm về vụ thảm sát tàn khốc; Ariel Sharon, Thủ tướng Israel, từng là Bộ trưởng Quốc phòng vào thời quân Israel xâm lăng Lebanon. "Tôi rất sốt ruột đợi chờ ngày hôm nay" Su'ad nói với giới báo chí.

Dựa vào một luật của Bỉ cho các toà án của mình quyền xét xử các tội ác chiến tranh bất luận xảy ra ở đâu, các nguyên đơn đã tố cáo Sharon và ba sĩ quan cao cấp khác về các hành vi diệt chủng vào thời chiến tranh Lebanon, các tội ác chống lại nhân loại, và các tội ác chống lại con người và đồ vật được bảo vệ bởi các Quy ước Geneva.

Hơn một nửa thế kỷ sau vụ xét xử tại Nuremberg, bốn mươi năm sau vụ xét xử Eichmann của Israel, cánh tay nối dài của luật nhân quyền quốc tế đã vươn tới chỗ nó đang thách thức vị Thủ tướng Israel đương quyền. Ariel Sharon, theo lời các nguyên đơn, bây giờ phải được xếp ngang hàng với cựu tổng thống Nam Tư Slobodan Milosevic, nhà độc tài Chilê, Tướng Augusto Pinochet, và các tên tội phạm khác trên thế giới. Theo hệ thống pháp luật Bỉ, Sharon ở trong cùng một vị trí giống như Hissène Habre, nhà độc tài trước kia của Chad, và Hashemi Rafsanjani, cựu tổng thống Iran, là những người cũng phải chịu các vụ xét xử nhân quyền tương tự.

Một ít ngày trước khi vụ án Sharon được trình bày tại Brussels, một tòa án của Bỉ đã kết tội hai nữ tu Ruanđa và hai người khác vì dính líu trong vụ thảm sát khoảng 7 ngàn người sắc tộc Tutsi trong vụ diệt chủng 1994.

Nhưng năm 2002, vụ án chống lại Sharon gặp hai rắc rối lớn. Tháng Giêng, tư lệnh đội quân giết người trước đây, Elie Hobeika, bị giết trong một vụ nổ bom xe ở Beirut trong khi có những tin đồn rằng hắn sẵn sàng ra làm chứng trong vụ Sharon.

Một tháng sau, Tòa án Quốc tế để giải quyết các tranh cãi giữa các nước, đã ra lệnh cho Bỉ hủy bỏ một lệnh bắt Adbylaye Yerodia Ndombasi, nguyên bộ trưởng ngoại giao của Cộng hòa Dân chủ Congo, vì các cáo buộc tội các chiến tranh và diệt chủng do bị tố cáo là gây ra cuộc đổ máu chống lại các người sắc tộc Tutsi năm 1998. Tòa án cho rằng bộ trưởng này được miễn trừ vì đang là một bộ trưởng tại chức, và các chuyên gia nghĩ rằng kết luận này là hồi chuông báo tử để đóng lại vụ án chống lại Sharon và các lãnh đạo khác.

Chính phủ Bỉ thở phào nhẹ nhõm vì các quan hệ ngoại giao của họ đã bị xấu đi bởi các vụ xét xử tội phạm chiến tranh. Theo ý kiến của Jan Devadder, tư vấn pháp luật cho bộ ngoại gia Bỉ, "Vụ xét xử Sharon đã bị đóng lại rồi". Nhưng các nguyên đơn nói họ sẽ tiếp tục tranh đấu đến cùng.

Cuối cùng, nội các Israel buộc Sharon từ chức, nhưng vẫn ở lại trong chính phủ như một bộ trưởng không bộ. Sharon luôn khăng khăng nói rằng ông vô tội hay không chịu trách nhiệm vì bất cứ điều gì đã xảy ra. Ông đã phải chống trả trong hai thập niên chống lại những vụ tố tụng bôi nhọ ông ở Israel và Mỹ do các nhà báo mà ông cho là họ bịa đặt.

Trong tất cả sự nghiệp quân sự và chính trị của ông, Sharon luôn cảm thấy các kế hoạch táo bạo và có tầm nhìn xa của ông luôn luôn bị người khác ngáng trở, dù họ là những viên tướng bất tài, những đối thủ chính trị ganh tị, những bộ trưởng không xương sống hay những người nước ngoài không đáng tin cậy. Năm 1973, khi thiếu tướng Sharon rời bỏ quân ngũ vì ông được cất nhắc lên cấp lãnh đạo, Uri Dan bạn ông đã dự báo: "Những người không muốn Sharon làm tham mưu trưởng sẽ thấy ông làm bộ trưởng quốc phòng. Những người không muốn ông làm bộ trưởng quốc phòng sẽ thấy ông làm thủ tướng".

Lời tiên tri đã thành hiện thực, nhưng Sharon đã phải mất hai thập niên và nhờ cuộc nổi dậy của Al-Aqsa Intifada để lấy lại được uy tín đối với dân Israel sau vụ thảm sát Sabra và Shatila. Trong nhiều năm ông là khẩu đại bác trong chính trị cánh hữu của Israel. Khi làm bộ trưởng nhà ở trong chính quyền của đảng Likud vào đầu thập niên 1990, Sharon được biệt danh là "xe ủi" hết mình lo việc phát triển các khu định cư Do Thái ở Bờ Tây và Dải Gaza.

Năm 1990, ông đã có cuộc cãi cọ to tiếng với thủ tướng diều hâu của đảng Likud, Yitzhak Shamir, tại một cuộc họp của đảng Likud trong một cuộc tranh cãi về các biện pháp ngoại giao tối thiểu của Shamir trong việc thương thuyết với Mỹ và Ai Cập về vấn đề Palestine. Ông tự hào rằng ông biết cách đánh bại khủng bố, chỉ cần các lãnh đạo có can đảm chính trị để làm những điều cần làm. Luôn luôn là người đứng ngoài tranh chấp, Sharon được một số người sùng bái, họ chào ông bằng những tiếng hô to "Arik-Vua Israel." Nhưng nếu Sharon có thể hưởng sự ủng hộ của một số người sùng bái ông như thế, ông cũng bị khá nhiều người Israel chán ghét.

Thế rồi khoảng 1996, Sharon có vẻ đã thay đổi. Vì được bổ nhiệm những chức vụ cao trong chính phủ Netanyahu, trước tiên là bộ trưởng hạ tầng quốc gia và rồi làm bộ trưởng ngoại giao, Sharon có vẻ như đã dịu xuống. Ông trở nên ít gay gắt và hung hăng hơn, ra dáng một nhà chính trị lão thành Israel. "Ariel Sharon đã mềm rồi?" tờ Jerusalem Report nêu câu hỏi năm 1997. Một năm sau, báo chí bắt đầu đặt câu hỏi phải chăng Sharon sắp trở thành một nhà "kiến tạo hòa bình" một nhân vật giống như Moshe Dayan, thay đổi từ một con diều hâu an ninh thành một con bồ câu trong các cuộc thương thuyết hòa bình với Ai Cập. Con người từng lý luận rằng "Jordan là Palestine" nay được tiếp đón nồng hậu tại Amman. Dần dần hình ảnh con quái vật của vụ thảm sát Sabra và Shatila đã tan biến thành con người Sharon thực dụng trước kia, người đã từng ra lệnh rút khỏi khu định cư Yamit ở Sinai theo những điều khoản hoà bình với Ai Cập.

Khi Netanyahu thất cử năm 1999, Sharon được bầu làm lãnh tụ đảng Likud. Với tuổi thất tuần của ông, người ta nghĩ ông chỉ là một lãnh tụ trám chỗ trong khi các đảng viên có thế giá của Likud tranh giành quyền tối thượng. Nhưng rồi xảy ra sự thất bại trong các cuộc đàm phán Trại David vào tháng Bảy 2001, và chuyến viếng thăm của Sharon tới Haram al-Sharif đã làm dấy lên làn sóng bạo động Intifada. Sẽ không ai biết tại sao Sharon đã lao vào một hành vi khiêu khích như thế. Ở Israel người ta bây giờ chỉ nói đến khả năng có cuộc bạo động Palestine. Phải chăng ông đã cố tình tạo ra một cuộc bùng nổ?

Giải thích phổ biến nhất rất đơn giản: Sharon sợ bị gạt ra ngoài cánh hữu bởi sự tái xuất của Binyamin "Bibi" Netanyahu, người đang có dấu hiệu trở lại chính trường. Còn hành vi nào tốt hơn là có một lập trường về tính bất khả phân chia của thành thánh Jerusalem? Có thể là tầm thường, nhưng người ta không thể coi thường tầm quan trọng của những cuộc tranh giành chính trị tầm thường về các vấn đề sống còn của Israel là chiến tranh và hoà bình. Cũng thế, việc Barak từ chối ngăn chặn cuộc viếng thăm có thể có nguyên nhân vừa là do ông sợ bị lợi dụng về vấn đề Jerusalem, vừa vì ông ý thức rằng ông có nhiều cơ may thắng cử chống lại Sharon hơn là chống lại Netanyahu. Là một trong những bậc lão thành của thế hệ cuối cùng, Sharon phải biết ơn Intifada mà ông đã kích nổ để đưa ông lên nắm quyền.

Nhiều người bỏ phiếu cho Sharon có thể hy vọng sự trở lại của một Arik cũ ở Beirut, sẵn sàng đáp lại mỗi viên đạn bằng một tên lửa và bắt người Palestine trở về vị trí của họ. Thế giới Ả Rập lên án việc lên nắm quyền của con người mà họ gọi là "Tên Đồ tể ở Beirut" nhưng Sharon đã tiến tới một cách thận trọng. Có thể Sharon đã bênh vực hành động của ông trong cuộc chiến Lebanon, nhưng hình như ông đã học được rằng cần phải tranh thủ được sự đồng tình của công chúng Israel trong việc thực hiện các chiến dịch quân sự. Các nguy cơ chia rẽ trở nên còn rõ ràng hơn do vụ ám sát Yitzhak Rabin, người mà Sharon từng phục vụ trong tư cách một cố vấn về chủ nghĩa khủng bố.

Sharon đã thành lập một chính phủ thống nhất dân tộc rộng rãi, đặt các nhân vật của đảng Lao động vào các chức vụ trọng yếu. Binyamin Ben-Eliezer trở thành bộ trưởng quốc phòng và Shimon Peres là bộ trưởng ngoại giao-một người để đánh mặt trận Intifada, người kia để bênh vực các hành động của Israel trên trường quốc tế. Sharon, con người từng được coi là nhà vô địch của "Nước Israel Lớn" và từng nói rằng mọi nhân nhượng về đất đai sẽ chỉ dẫn tới nhiều khủng bố hơn mà thôi, nay lại tuyên bố rằng ông sẵn sàng có những "nhân nhượng đau đớn" vì hoà bình nếu phía Palestine từ bỏ bạo động. Một ít tháng sau, ông thậm chí nói đến khả năng có thể thiết lập một nhà nước Palestine.

Trong ít tháng, phương pháp của Sharon nhằm tiêu diệt Intifada ít có khác biệt với phương pháp của người tiền nhiệm ông, đó là sử dụng trực thăng, súng máy và xe tăng, đóng cửa các khu vực và bứng gốc cây. Từng là viên tướng cầm đầu Đơn vị 101 nổi tiếng tiến vào Dải Gaza trong chiến dịch chống quân nổi dậy vào thập niên 1950, ông có vẻ cũng khập khiễng như viên tướng sắp rời chức vụ Ehud Barak, một biệt kích rất nhiều huân chương đã cải trang làm phụ nữ để ám sát các lãnh tụ Palestine ở Beirut vào thập niên 1970.

Nhưng khác với Barak, người thương thuyết với Palestine hầu như cho tới hết nhiệm kỳ, Sharon từ chối thương thuyết với Palestine ngay năm đầu tiên nhậm chức. Ông đã kiên quyết từ chối bắt tay với Arafat. Sharon đòi một thời gian bảy ngày yên tĩnh trước khi bắt đầu một loạt các bước nhằm xây dựng lòng tin tưởng của Mỹ là nước trung gian trước khi nối lại các cuộc thương thuyết. Các nhà phê bình tố cáo ông là để cho hoà bình trở thành con tin của các tay súng và các kẻ đánh bom tự sát. Nhưng trong năm đầu nhiệm kỳ của ông, do sức ép trong nước, Sharon không có đủ yên tĩnh để nối lại các cuộc đàm phán với Palestine.

Rõ ràng Sharon gặp rắc rối với các đối tác của ông trong đảng Lao động về hình thức của bất cứ thoả thuận hòa bình nào trong tương lai. Ồng nói sẽ chỉ nhường dưới một nửa số đất ở Bờ Tây, khác với đề nghị của chính phủ Barak là trao trả một con số tương đương là 97 phần trăm. Thủ tướng đòi rằng Jerusalem phải nằm trong tay người Israel. Đảng Lao động không dám rời bỏ chính quyền bởi vì điều này sẽ buộc phải có một cuộc tuyển cử mới mà họ sẽ có khả năng thua đậm hơn. Về phần mình, Sharon không muốn giải tán chính phủ liên hiệp vì sợ như vậy sẽ tạo cơ hội cho Netanyahu thách thức vị trí của ông. Một viên chức cấp cao trong bộ ngoại giao nói: "Mỗi ngày khi đến văn phòng, Sharon đều nhìn thấy chân dung của các cựu thủ tướng. Mỗi ngày ông đều nhìn thấy ảnh của Bibi Netanyahu và nghĩ cách làm thế nào có thể loại trừ ông ta ra khỏi quyền lực".

Đầu năm 2002, Sharon gửi quân đội ngày càng mạnh và sâu hơn vào lãnh thổ Palestine, và gần đi đến chỗ giải giáp chính quyền Palestine. Nhưng đột nhiên vào cuối tháng Giêng 2002, Sharon bí mật gặp các phụ tá thân cận của Yasser Arafat và chỉ ít ngày sau ông sang Hoa Kỳ. Đây có phải là một sự thay đổi chiến lược, hay chỉ là một bước chiến thuật?

Ông tướng Arik Sharon cũ của thời Beirut đang nói cho ông rằng đã đến lúc khử trừ Arafat và đưa ông ta đi lưu vong; nhà chính trị lão thành Arik mới lại khuyên ông kiềm chế, thậm chí có những cố gắng mới để tìm ra một sự dàn xếp với Palestine. Người nào sẽ quyết định?

Có một cái gì vừa ghê sợ vừa khó hiểu nơi tấm hình chụp Yasser Arafat nằm trên một giường bệnh viện, đang hiến máu cho những nạn nhân của vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 tại Mỹ. Trong suốt những năm nổi dậy của người Palestine, Arafat luôn luôn bị Israel tố cáo là xúi giục khủng bố, hay ít là che giấu những tên khủng bố. Hồi còn là sinh viên vào thập niên 1950, Arafat đã gởi cho chính phủ Ai Cập một thỉnh cầu viết bằng máu: "Xin đừng quên Palestine". Bây giờ bằng chính máu mình, nhà lãnh tụ Palestine đang vô vọng gửi cho các lãnh đạo Mỹ thông điệp của ông: "Tôi không phải là một kẻ khủng bố".

Một ngày trước đó, ngay sau vụ phá hủy Trung tâm Thương mại Thế giới và các vụ tấn công khác, Arafat đã ra lệnh cho các lực lượng an ninh của ông phải dẹp ngay các đám đông đang tự phát tụ tập đề mừng tai họa của nước Mỹ. Họ tìm cách ngăn chặn việc phổ biến các tin tức về các cuộc biểu tình, thậm chí tịch thu các cuộn phim và đe doạ các người quay phim. Arafat ngay lập tức gửi điện chia buồn với dân chúng Mỹ và nói: "Thật là một tai họa không thể tin nổi. Nó làm trái tim chúng tôi đau nhói. Thật rất khó diễn tả những tâm tình của tôi. Xin Chúa giúp họ, xin Chúa giúp họ". Khi các hình ảnh phô bày những tình cảm chống Mỹ của Palestine được phổ biến, nó đã khiến cho lãnh tụ Palestine bối rối. Arafat vội vàng cho phát lên truyền hình hình ảnh cuộc hiến máu của ông.

Arafat quyết tâm không lặp lại sai lầm ông đã mắc phải hơn mười năm trước, khi ông dại dột vào hùa với Saddam Hussein sau khi Iraq chiếm Kuwait. Khi Washington muốn biết ai theo Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố và ai chống lại Mỹ, Arafat đã không ngần ngại đứng về phía Tổng thống George w. Bush. Lãnh tụ Palestine biết rằng một vài tuần trước sự kiện 11 tháng 9, chính phủ Mỹ đã chuẩn bị "dấn mình" một lần nữa vào Trung Đông với một bài diễn văn quan trọng đọc trước Liên Hiệp quôc và có thể có một cuộc họp giữa tổng thống Mỹ và lãnh tụ Palestine.

Trong sáu tháng đầu của nhiệm kỳ tổng thống, các phụ tá của Tổng thống Bush đã nói rõ rằng tổng thống không có ý định trực tiếp tham gia vào các chi tiết đàm phán hoà bình giữa Israel và Palestine như Tổng thống Bill Clinton đã làm cho tới cuối nhiệm kỳ của ông. Các viên chức cũng nói rằng Tổng thống Bush không có niềm say mê như Tổng thông Clinton và dù sao ông cũng không muốn đánh liều uy tín của mình trừ khi vai trò trung gian của ông có cơ may thành công. Văn phòng đặc sứ của Clinton tại Trung Đông được trả về lại cho Bộ Ngoại giao. Ưu tiên lúc này của chính quyền Bush là Iraq. Nhưng như Washington mau chóng phát hiện, khả năng nước Mỹ chấm dứt sự xói mòn của các lệnh trừng phạt hàng chục năm nay của Mỹ chống Iraq đang bị cản trở bởi sự thù ghét của người Ả Rập đối với nước Mỹ, được khuấy động bởi phong trào Intifada.

Tổng thống Bush đã từng tuyên bố cam kết bảo vệ an ninh của Israel, và cũng giống như các vị tiền nhiệm, ông nói ông muốn đưa tòa đại sứ Mỹ về Jerusalem. Bộ Ngoại giao, dưới quyền Colin Powel, vị tướng đã vang dội tên tuổi khi chỉ huy cuộc chiến chống Iraq năm 1991, thì có thái độ phê phán hơn. Bộ Ngoại giao đã nhiều lần chỉ trích các hành động của Israel, như vụ Israel tiến vào Dải Gaza vào hồi tháng Tư, và vụ phá hoại nhà cửa của người Palestine. Tháng Sáu, Povvell đưa ra ý tưởng có các quan sát viên quốc tế để giúp theo dõi một cuộc ngưng bắn, là điều mà Israel luôn luôn chống đối.Với việc Mỹ rút chân ra khỏi cuộc tranh chấp Israel-Ả Rập,bây giờ đến lượt các nước châu Âu chủ yếu gánh vác vai trò cầm cân nảy mực cho các bên tranh chấp. Các nhân vật như Javier Solana, nhà hoạch định chính sách ngoại giao của Liên minh châu Âu; Ngài Levy, đặc sứ của Thủ tướng Anh; và một loạt các bộ trưởng ngoại giao châu Âu có các cuộc thăm viếng liên tục được gọi là chính sách "ngoại giao tiếp sức". Họ tin rằng sự có mặt của nước ngoài là một "liều thuốc aspirin" giúp làm giảm nhiệt cuộc xung đột cho dù chỉ Mỹ mới có thể chữa trị được. Một điều gây ngạc nhiên là Đức đã đóng một vai trò tích cực trong chuyện này, bất chấp gánh nặng lịch sử mà Đức Quốc xã đã để lại. Tháng Sáu 2001, ngoại trưởng Đức Joshka Fischer đang ở khách sạn tại Tel Aviv thì một kẻ đánh bom liều chết đã bị tung xác tại một quán nhạc gần đó, giết chết 21 thanh niên Israel. Fischer tức giận nói rằng ông sẽ đến gặp Arafat tại Ramallah sau vụ đánh bom này và sẽ "đập bàn để nói lên tính nghiêm trọng của tình hình". Đe dọa sẽ cắt viện trợ của châu Âu cho Palestine,ông đòi Arafat phải công khai tuyên bố ngừng bắn và buộc ông ta phải có những thay đổi trong phát biểu của ông ta.

Vụ khủng bố 11 tháng 9 đã buộc chính quyền Bush phải xác định lại chính sách Trung Đông của họ, như nó đang làm ở những nơi khác. Hòa bình trong khu vực không chỉ là một mục tiêu cao quý của chính sách ngoại giao, mà còn là một ưu tiên trong cố gắng xây dựng một liên minh ngoại giao để có hành động chống lại Osama bin Laden và mạng lưới al-Qa'ida của ông. Hoa Thịnh Đốn cần sự ủng hộ của các nước Ả Rập và Hồi giáo, không chỉ để truy lùng các thành viên al-Qa'ida, nhưng quan trọng hơn còn là để bác bỏ những cáo buộc rằng cuộc chiến sắp tới tại Afghanistan là một cuộc chiến chống Hồi giáo. Một thập niên sau khi liên minh lớn của 30 nước châu Âu và Ả Rập đã buộc quân Iraq rút khỏi Kuwait, Mỹ không muốn vướng vào một liên minh lớn nữa. Nhưng Mỹ thấy các nước Ả Rập do dự dù chỉ là trong việc công khai tán thành "cuộc chiến chống khủng bố". Sự hợp tác tình báo không có gì đáng khích lệ. Ả Rập Saudi, nước đã được Mỹ bảo vệ trong Cuộc chiến Vùng Vịnh, không cho phép Mỹ sử dụng các căn cứ không quân cho các cuộc hành quân tại Afghanistan. Các lãnh đạo Ả Rập hầu như đồng loạt đưa ra hai điều kiện để họ hợp tác, dù chỉ là ở mức tối thiểu: Mỹ không được tấn công các nước Ả Rập, đặc biệt Iraq, và phải có nỗ lực mới để thúc đẩy Ariel Sharon có những thương lượng tích cực với phía Palestine.

Arafat đang rình thời cơ để lấy lại sáng kiến. Intifada bị mắc kẹt vào cái vòng đổ máu và hao mòn đang bóp nghẹt xã hội Palestine và làm suy yếu chính quyền Palestine, cả trong nước cũng như ở nước ngoài. Các nước phương Tây chỉ trích việc Israel sử dụng "vũ lực quá mức cần thiết", nhưng các cuộc tấn công của Palestine vào thường dân Israel đang làm nhơ bẩn chính nghĩa của Palestine. Ngay cả việc Ariel Sharon với lập trường cứng rắn được bầu làm thủ tướng Israel cũng không đảo ngược được vị trí ngoại giao thuận lợi cho Palestine. Niềm hy vọng mà Arafat trông chờ ở Intifada để lôi kéo sự ủng hộ của các nước Ả Rập cũng trở thành vô ích. Các nguồn lực Ả Rập, vì muốn tránh một sự leo thang chiến tranh với Israel, nên từ lâu vẫn chỉ là những lời hứa suông mà không có sự giúp đỡ vật chất hay ngoại giao gì cho người Palestine. "Arafat giống như một con chó bị bỏ rơi" một nhà báo Palestine nói như thế. Ở phía hậu trường, một số lãnh đạo Ả Rập tìm cách làm dịu các hành động của Palestine vì sợ rằng sự bất ổn có thể lan ra toàn vùng. Dù sao, sự giận dữ của dân chúng đối với Israel và Mỹ có thể dễ dàng chuyển thành sự thù ghét đối với hành vi "phản bội" của các chính phủ Ả Rập khi họ không ủng hộ chính nghĩa Palestine. Đây là một trong những nhân tố cắt nghĩa tại sao các chính phủ Ả Rập bị tê liệt khi đứng trước các yêu cầu ủng hộ cuộc chiến tranh của Mỹ tại một nước Hồi giáo khác, Afghanistan.

Sharon hy vọng rằng sau vụ 11 tháng 9, toàn thế giới sẽ thiện cảm hơn với "cuộc chiến chông khủng bố" của chính Israel. Nhưng cũng như thường xảy ra trong quá khứ, cuộc khủng hoảng bất ngờ đã cho Arafat một chút thư giãn, một cơ hội để xóc lại một con bài nghèo nàn với hi vọng tìm ra được một con ách hiếm có. Việc nước Mỹ cần được sự ủng hộ của các nước Ả Rập và Hồi giáo, cũng như việc làm dịu Intifada, đã cho Ả Rập một cơ hội để đặt các yêu cầu của Palestine trở lại tâm điểm các vấn đề quốc tế. Trong một chuỗi các hành động có vẻ được phối hợp, chính phủ Bush tiết lộ rằng nó đã từng có ý định tung ra một sáng kiến mới về Trung Đông trong tháng Chín, giá như đã không xảy ra vụ khủng bố ở Mỹ. Vào ngày tin này được đưa ra, Bush xác nhận rằng ông ủng hộ một nhà nước Palestine. “Ý niệm về một nhà nước Palestine luôn luôn là một phần của sáng kiến, miễn là quyền tồn tại của Israel được tôn trọng” Bush nói với các nhà báo sau cuộc họp với các thành viên quốc hội.Một nhà nước Palestine từ lâu đã được bao hàm trong mục tiêu của kế hoạch Oslo, và đã được Tổng thống Clinton công khai hô hào một ít tháng trước, nhưng ý tưởng này chưa từng được ủng hộ bởi một tổng thống Cộng hòa.

Nhận định của Tổng thống Bush tuy có vẻ tình cờ, nhưng được một số lãnh đạo Ả Rập coi là một sự thay đổi đường hướng quan trọng. Một bài xã luận viết trên nhật báo al-Nahar của Lebanon nói rằng tuyên bố này đồng nghĩa với cách hiểu của Mỹ về Tuyên ngôn Balfour, thiết lập một nhà nước Do Thái. Nhưng tại London, một bài xã luận trên tờ nhật báo Ả Rập tỏ dấu hoài nghi. Bài báo hỏi, "Phải chăng chúng ta đã phải hy sinh 6 ngàn người Mỹ vô tội và một trăm tỉ mỹ kim trước khi Bush "Con" 'lẩm bẩm" một vài lời mơ hồ về một nhà nước Palestine?"

Tại Jerusalem, người ta lo ngại rằng, theo cách nói của Sharon, Israel sẽ phải "trả giá" cho việc xây dựng liên minh của Mỹ chống lại Bin Laden. Sharon đã phản ứng lại lời kêu gọi của Washington: "Tôi kêu gọi các nước phương Tây và đặc biệt nước lãnh đạo thế giới tự do, Hoa Kỳ: đừng lặp lại sai lầm đáng sợ của năm 1938, khi các nền dân chủ sáng suốt của phương Tây quyết định hy sinh Tiệp Khắc để có một “giải pháp tạm thời thuận tiện”. Đừng tìm cách xoa dịu người Ả Rập bằng việc hy sinh chúng tôi-đây là điều chúng tôi không thể chấp nhận. Israel sẽ không thể là Tiệp Khắc". Nhà Trắng ngay lập tức nói rõ sự tức giận trước lời tố cáo này bằng cách tuyên bố rằng Bush, nhà lãnh đạo của một nước hoàn toàn đứng bên cạnh Israel về chính trị và quân sự, đang hành động như một Neville Chamberlain, người đã từng làm cho Hitler phải hòa dịu. "Theo ý kiến tổng thống, những lời bình luận của thủ tướng là không thể chấp nhận" người phát ngôn Nhà Trắng nói thẳng như vậy. "Israel không thể có người bạn nào tốt hơn và mạnh hơn là Hoa Kỳ và không có người bạn nào tốt hơn là Tổng thống Bush".

Trong khi Sharon rơi vào thế bị động và chính phủ liên hiệp của ông rối loạn, Yasser Arafat sau một năm bị cô lập ngoại giao đã lấy lại được uy tín ở phương Tây khi ông được Thủ tướng Anh Tony Blair mời tới Downing Street. Arafat đáp lễ Blair bằng việc công khai bác bỏ lời tuyên bố của Osama bin Laden rằng ông này đang chiến đấu vì người Palestine. "Chính nghĩa Palestine là chính nghĩa đúng đắn..." Arafat nói, "Không thể có pha trộn giữa chính nghĩa đúng đắn của chúng tôi với các mục tiêu và phương pháp không chính đáng như các hành vi khủng bố và giết hại thường dân vừa xảy ra tại Hoa Kỳ". Khi rời nuớc Anh, Arafat giơ ngón tay tỏ dấu chiến thắng và nhoẻn cười hoan hỉ. "Ông Già" Arafat giờ đây đã linh hoạt trở lại như một vận động viên trẻ. Có vẻ là như thế.

Hai ngày sau khi Arafat xuất hiện ở London, các tay súng của Phong trào Dân Tộc Giải phóng Palestine đã ám sát bộ trưởng du lịch Rahavam Zeevi, có vẻ như để trả đũa vụ Israel sát hại thủ lĩnh của họ, Abu Ali Mustafa, mấy tháng trước. Trước đó trong tuần, Zeevi đã thông báo ý định từ chức và rút lui khỏi chính phủ vì theo ông, Sharon đang tỏ ra mềm yếu. Zeevi là người có lập trường cứng rắn và hô hào việc "di dời" những người Palestine ra khỏi các lãnh thổ chiếm đóng và thường gọi những du kích Palestine là "loài sâu bọ" cần phải tiêu diệt. Trên thực tế, trước đêm Zeevi bị ám sát, Sharon đã tuyên bố ông sẽ đích thân cầm đầu các cuộc thương thuyết hoà bình với mục tiêu rõ ràng là xây dựng một nhà nước Palestine trong một số những "ranh giới đỏ" bao gồm việc Israel kiểm soát Jerusalem.

Vụ sát hại Zeevi đánh dấu lần đầu tiên trong mấy thập kỷ, người Palestine ám sát một bộ trưởng Israel. Nhân vật cao cấp Israel bị sát hại lần cuối là Shlomo Argov, đại sứ Israel tại Luân Đôn, và vụ sát hại này đã dẫn đến việc Israel đưa quân vào Lebanon năm 1982. Sau khi nói với các bộ trưởng rằng "thời kỳ Arafat đã kết thúc" Sharon ra lệnh cho quân đội tiến sâu vào nhiều thành phố Palestine trong một chiến dịch kéo dài nhiều ngày và nhiều tuần, giết chết hàng chục người. Bất chấp con số thương vong và sự quan tâm mà thế giới bị lôi kéo bởi sự thiệt hại mà Israel gây ra cho Bethlelem trước ngày lễ Giáng sinh, Sharon vẫn đang lấy lại thế thượng phong chính trị. Sharon tố cáo Arafat như là một Osama bin Laden của Palestine. Vấn đề ngoại giao nổi cộm của Trung Đông trong những tháng sắp tới không còn phải là Sharon không muốn hòa bình, mà là Arafat có đáng tin cậy hay không. Như thể nhấn mạnh lời tố cáo của Israel về "kiểu nói hai mặt" của Arafat, một ngày sau vụ Zeevi bị ám sát, quân đội Israel đã giết một lãnh tụ cấp cao của Tanzim, cánh dân quân cơ bản của phong trào Fatah của chính Arafat từng nổi tiếng trong cuộc nổi dậy Intifada. Atef Abayat bị giết bằng một quả bom gài trong xe ông. Các viên chức cấp cao Israel ngay lấp tức vạch ra rằng Aratat đã bảo đảm với các phái đoàn nước ngoài rằng Abayat, đứng đầu danh sách mười tên bị Israel truy lùng gắt gao nhất, đã từng bị bắt và bị tù ở Israel. "Arafat thông báo cho người châu Âu biết rằng Abayat bị bắt ở Bethlelem. Một ít giờ sau chúng tôi đã giết hắn" một sĩ quan tình báo quân sự Israel nói. "Anh ta đi lại ở Bethhelem rất tự do. Ngày nay người châu Âu rất nghi ngờ Arafat".

Tại đại hội đồng Liên Hiệp quốc ở New York vào tháng Mười Một, Tổng thống Bush thậm chí từ chối bắt tay Arafat, vị khách thường xuyên của Clinton ở Nhà Trắng trước đây. Trong một bài diễn văn, Bush nói với đại hội đồng rằng ông đang làm việc "nhắm tới một ngày mà hai nuớc Israel và Palestine được sống chung hòa bình với các đường biên giới bảo đảm và được nhìn nhận". Nhưng ông thêm vào lời cảnh cáo: "Hòa bình chỉ đến khi mọi người từ bỏ vĩnh viễn sự khích động, bạo lực, và khủng bố".

Khoảng hơn một tuần sau, khi Arafat khởi sự bắt giữ các kẻ tình nghi Hồi giáo lại, Colin Powell tung ra sáng kiến hòa bình đã bị trì hoãn từ lâu, ông nói "Đây là lúc-không, đây đã là quá lúc-để kết thúc điềm báo ghê sợ về tương lai". Ông dùng một ngôn ngữ cứng rắn một cách lạ thường để đòi người Palestine phải chấm dứt bạo động và Israel phải kết thúc "việc chiếm đóng" một từ mà Washington từ trước đến nay rất hiếm sử dụng. Để chứng minh lời ông nói nghiêm túc, ông đã chỉ định một đặc sứ, Anthony Zinni, một tướng lục quân hồi hưu, làm trung gian cho một vụ ngừng bắn. Ông nói rõ rằng Arafat phải đi bước trước: "Hãy lo liệu cho có cuộc ngưng bắn trước, rồi các chuyện khác sẽ đến. Không có ngưng bắn, chúng ta vẫn còn bị lún sâu trong vùng cát của hận thù".

Thay vì làm dịu các phe lâm chiến, tướng Zinni đã đến nơi đúng vào lúc cuộc khủng hoảng tệ hại nhất bao trùm cả khu vực kể từ khi có các thỏa ước Oslo. Trong hai ngày đầu tháng Mười Hai 2001, các tay cực đoan Hồi giáo đã thực hiện một vụ đánh bom tự sát tại một khu vực đông người đi bộ ở Jerusalem, giết chết 10 người Israel và làm bị thương 170 người và một vụ đánh bom trên một xe buýt ở Haifa giết chết thêm 15 người Israel nữa. Hamas nói đây là để trả đũa vụ Israel ám sát một thành viên quan trọng của Hamas, Mahmoud Abu Hanoud, trong một vụ bắn tên lửa một tuần trước đó. Bạo lực leo thang làm người ta nhớ lại các vụ đánh bom tự sát của quân Hồi giáo năm 1996, và có lúc có vẻ như Arafat cuối cùng đã phải quyết định bắt những kẻ Hồi giáo cực đoan và các thành viên Fatah của ông phải vâng phục. Chính quyền Palestine tuyên bố một "tình trạng khấn trương" và khởi sự bắt giữ hơn 100 kẻ tình nghi Hamas và Hồi giáo. Nhưng trong khi các kẻ Hồi giáo cực đoan thận trọng tránh đối đầu với lực lượng của Arafat trong các cuộc bắt giữ năm 1966, thì các lãnh tụ Harnas nói họ thách thức chính quyền Palestine, và tố cáo chính quyền này "đang cố gắng trở thành người bảo hộ cho Israel". Các kẻ cực đoan Hồi giáo nổi dậy và đọ súng với các lực lượng an ninh Palestine.

Chính phủ Sharon không bị ấn tượng. Chính phủ tuyên bố rằng "chính quyền Palestine là một thực thể ủng hộ khủng bố, và phải đối xử với nó như thế" trong một lời đe dọa rõ ràng Israel đang xem xét việc lật đổ Arafat, giống như Mỹ đã lật đổ Taliban tại Kabul tháng trước. Washington đã quay lưng lại Arafat. "Tất nhiên Israel có quyền tự vệ và tổng thống hiểu rõ điều này" một phát ngôn viên Nhà Trắng tuyên bố. Colin Povvell hơi ôn hòa hơn một chút. Ông n