← Quay lại trang sách

- 8 - Giữa các dân tộc

Bill Clinton có dáng uy nghi của một hoàng đế khi ông bước lên diễn đàn của viện Knesset. Chỉ duy có một Tổng Thống Mỹ mới có thể làm cho cho các thành viên của một quốc hội ồn ào vào bậc nhất này giữ được một bầu khí thinh lặng và nghiêm trang đến thế. Dù sao, đây là hiện thân của một nước đã làm nhiều hơn bất cứ nước nào trong việc bảo vệ nhà nước Israel bằng tiền bạc, khí giới và sự bênh vực ngoại giao.

Tuy nhiên, khi ông đọc bài diễn văn, Clinton nghe giống như một người hành hương hơn là một hoàng đế. Ông nói về hòa bình, về các tổ phụ và các tiên tri của Kinh thánh và về sự ngưỡng mộ của nước Mỹ đối với Israel. "Trong nhiều thập niên, khi Israel đấu tranh để sinh tồn, chúng tôi đã vui mừng trước các chiến thắng của quý vị và chia sẻ những nỗi đau thương của quý vị" Clinton nói. "Suốt những năm kể từ khi Israel được thành lập, người Mỹ thuộc mọi niềm tin đều luôn thán phục và ủng hộ quý vị. Giống như đất nước quý vị, đất nước chúng tôi là một đất nước đón mời những người bị lưu đày-một đất nước của hy vọng; một đất nước để được che chở".

Israel là một nước dân chủ kiểu mẫu, ông nói, mọi tổng thống Mỹ từ Truman đến nay đều luôn cam kết vì sự sống còn của Israel. Tổng thống kể ra những món quà ông tặng cho Israel: một lời hứa duy trì mức viện trợ quân sự và dân sự, quyền ưu tiên tiếp nhận nền kỹ thuật cao của Mỹ, trang bị quân cụ tối tân như các chiến đấu cơ F-15 và F-16, cũng như viện trợ dồi dào cho Israel để tự họ phát triển bức tường chống tên lửa có tên gọi là Phi tiêu.

Ông nguyền rủa các thần bạo lực. "Bao lâu người Do Thái còn bị sát hại chỉ vì họ là người Do Thái, hay chỉ vì họ là công dân của Israel, nạn dịch chống Do Thái, chúng ta phải đứng lên chống lại nó" Tổng thống nói. Đang có điềm báo cho hoà bình và "lời hứa về một buổi chiều Sabbath không bị vi phạm bởi tiếng súng".

Cuối bài diễn văn, Tổng thống Clinton tuyên bố niềm tin của ông trước quốc hội Israel. Tổng thống kể lại sự kiện ông cùng vợ đã đến thăm Israel lần đầu tiên 13 năm trước, khi là một thống đốc mãn nhiệm, ông đã có một cuộc hành hương cùng với vị mục sư của ông. "Chúng tôi đã đến viếng các nơi thánh. Tôi đã sống lại lịch sử của Kinh thánh, của các sách thánh của quý vị và của tôi. Và tôi đã làm một lời thề với mục sư của tôi. Về sau, khi ông này lâm trọng bệnh, ông nói ông nghĩ tôi sẽ có ngày trở thành Tổng thống, và ông nói [...] (Nếu anh bỏ Israel, Thiên Chúa sẽ không bao giờ tha thứ cho anh.) Ồng nói Thiên Chúa muốn rằng Israel, đất Kinh thánh của dân tộc Israel, sẽ tiếp tục tồn tại muôn đời."

Viện Knesset vang dậy tiếng hoan hô. Nó chưa từng chứng kiến một cảnh tượng như thế bao giờ. Những người cực đoan Ki tô giáo đến để tỏ tình liên đới với Israel thường được coi là những đồng minh có ích, nhưng là những kẻ cố chấp. Bây giờ Tổng thống của nước Mỹ, nước hùng mạnh nhất thế giới, tuyên bố rằng sự ủng hộ của Mỹ cho Israel chính là một mệnh lệnh của Thiên Chúa.

Hòa bình tại Trung Đông là một nỗi ám ảnh chính sách ngoại giao của Clinton, chi phối thời giờ của ông cho tới ngày cuối cùng của nhiệm kỳ của ông, cả khi ông sắp sửa phải đối phó một lần nữa với các vụ tai tiếng xung quanh vấn đề nhận quà tặng, ban phát các ân huệ chính trị, và ban các lệnh ân xá đáng tranh cãi trước khi rời chức vụ tổng thống.

Clinton từ lâu đã được chào đón tại Jerusalem như là vị Tổng thống Mỹ ủng hộ Israel mạnh nhất. Một cách bất ngờ, sự quan tâm sâu sắc tới khu vực cũng làm ông trở thành vị tổng thống Mỹ ủng hộ Palestine mạnh nhất. Chính Clinton là người đã đưa Yasser Arafat đi qua cửa chính của Nhà Trắng, trong khi các tổng thống tiền nhiệm đều ngăn cản ông Arafat ngay cả việc đến thăm Liên Hiệp quốc ở New York.

Năm 1998, bốn năm sau bài diễn văn quan trọng ở viện Knesset, Clinton lại trở lại Trung Đông. Nhưng lần này, ông gặp rắc rối với chính phủ Israel của lãnh tụ đảng Likud, Binyamin Netanyahu, người đang làm trì trệ tiến trình nhường đất. Clinton không đến thăm viện Knesset, bây giờ đến lượt người Palestine hưởng thụ giây phút biểu tượng đầy xúc động.

Trước sự bàng hoàng của nhiều bộ trưởng trong nội các Israel, Tổng thống Mỹ bay bằng trực thăng tới sân bay quốc tế ở Dải Gaza và chính thức mở cửa sân bay. Hai lá cờ lớn-một của Palestine và một của Hoa Kỳ-bay phất phới bên cạnh nhau. Clinton ban phước lành của nước Mỹ cho những khát vọng của Palestine muốn có một nhà nước và nói họ phải coi nước Mỹ như một người bạn. "Lần đầu tiên trong lịch sử phong trào Palestine, dân tộc Palestine và các đại diện do họ bầu lên bây giờ có cơ hội quyết định vận mạng đất nước của chính họ". Tổng thống Clinton tuyên bố. Một bức ảnh chụp Yasser Arafat ghì chặt bàn tay Clinton vào ngực, biểu lộ một cử chỉ biết ơn muôn đời.

Cả khi Al-Aqsa Intifada giận dữ trong những tháng cuối cùng của ông trong chức vụ, Clinton vẫn kiên trì hy vọng thương thuyết để chấm dứt một thế kỷ xung đột giữa chủ nghĩa Phục quốc Do Thái và chủ nghĩa dân tộc Ả Rập, hoàn tất nhiệm vụ đã bắt đầu với việc ký kết thỏa ước Oslo tại sân cỏ phía Nam của Nhà Trắng năm 1993 khi ông bắt đầu chức vụ tổng thống.

Khi ông thu dọn đồ đạc và chuẩn bị rút lui khỏi Nhà Trắng năm 2001, Clinton vẫn tìm thời giờ để viết một bạch thư gửi người Israel và người Palestine. Giải thích rằng trong số nhiều vấn đề ông phải đối phó, không vấn đề nào quan trọng bằng vận mệnh của Israel. Clinton bảo người Israel đừng thất vọng vì cuộc nổi dậy của người Palestine. "Các bạn đừng rút ra bài học sai từ chương bi kịch này" ông khích lệ họ. "Bạo lực không chứng minh rằng cuộc tìm kiếm hoà bình đã đi quá xa-nó chỉ chứng minh là đã không đi xa đủ. Và nó không chứng minh sự thất bại của các cuộc thương thuyết-mà chỉ chứng minh sự vô ích của bạo lực và sức mạnh. Chưa bao giờ sự lựa chọn một cuộc dàn xếp hòa bình đã trở nên rõ ràng hơn; nó đang diễn ra trước mắt chúng ta".

Trong lá thư gửi người Palestine, Clinton chọn một giọng nghiêm khắc hơn, thậm chí khuyến cáo. Ông nhìn nhận những sự "nhục nhã hàng ngày" mà người Palestine phải hứng chịu, ông hiểu được sự tức giận của họ. Nhưng ông tiếp: "Không một điều gì các bạn đã đạt được nhờ bạo lực, và sẽ không bao giờ có chuyện đó. Nó sẽ chỉ đạt được thông qua hoà bình và thương thuyết. Hơn bao giờ, bây giờ là thời điểm của lòng dũng cảm trong lãnh đạo. Vì lòng dũng cảm không chỉ được đo bằng đấu tranh. Nó được đo bằng khả năng nắm bắt các cơ hội lịch sử".

Vào lúc đó, người Palestine đã mất hết hy vọng nơi Clinton. Lời khuyến cáo công khai của ông cho Yasser Arafat sau thất bại của cuộc họp thượng đỉnh Trại David, và thái độ chống Mỹ sâu đậm của Al-Aqsa Intifada, có nghĩa là sự thắm thiết của cuộc viếng thăm của Clinton đã tan biến. Các báo chí Palestine chào mừng ngày kết thúc chính phủ của Clinton như là "chấm dứt kỷ nguyên của hành lang Do Thái".

Clinton đã dành cho Kênh II truyền hình Israel một cuộc phỏng vấn đầu tiên trong tư cách riêng tư của một công dân. Người phỏng vấn vồn vã nói rằng Clinton chắc rất "cô đơn" và nên "bỏ mọi sự và sang Israel ở với chúng tôi". Clinton tiết lộ rằng một trong các kế hoạch đầu tiên của ông sau khi hết chức tổng thống là học tiếng Do Thái.

Ít có tổng thống nào khác có một sự quan tâm ân cần với Israel như Clinton, nhưng đây chỉ là vấn đề về mức độ hơn là về nguyên tắc. Về nhiều phương diện, nhiệm kỳ tổng thống của Clinton làm thăng hoa quan hệ của nước Mỹ ngày nay với Nhà Nước Do Thái. Có một sự cam kết mạnh mẽ, thật lòng đối với sự sống còn và thịnh vượng của Israel, một sự đấu tranh để hoà giải sự ủng hộ này với các quan tâm chiến lược của Mỹ trong thế giới Ả Rập. Cho dù người Do Thái ưa thích các tổng thống đảng Dân chủ hơn và người Ả Rập hướng về các tổng thống đảng Cộng hòa, nhưng vấn đề này vượt ra ngoài sự phân biệt đảng phái; đã từng có những tổng thống đảng Dân chủ như Jimmy Carter từng răn đe Israel và tổng thống đảng Cộng hòa như Ronald Reagan coi Israel là một "đồng minh ngoài khối Nato".

Nếu theo tính toán chiến lược lạnh lùng, Mỹ sẽ chọn ủng hộ người Ả Rập, vì họ đông dân hơn người Do Thái và kiểm soát phần lớn các nguồn dự trữ dầu thế giới. Điều này cho thấy là việc Mỹ ủng hộ Israel, tuy không lay chuyển, nhưng là có điều kiện. Đa số Tổng thống Mỹ, gồm cả Clinton, thích làm việc với các lãnh tụ Israel sẵn sàng có những thỏa hiệp về đất đai với người Ả Rập. Không lạ gì quan hệ của Clinton với Yitzak Rabin, Shimon Peres, và Ehud Barak thắm thiết hơn với Binyamin Netayahu.

Người Ả Rập và nhiều người chỉ trích Israel đổ lỗi cho việc Mỹ ủng hộ Israel vì hậu quả tai hại của "hành lang Do Thái" đầy quyền lực tại Mỹ, đặc biệt tại Quốc hội. Tổng thống George Bush (Cha), khi đấu trí với Yitzak Shamir, đã có lần than thở rằng mình là "một gã đơn độc... chống lại hàng ngàn người vận động hành lang trên Đồi". Đúng là người Mỹ gốc Do Thái là những mạnh thường quân chính trị và những nhà vận động tích cực đại diện cho Israel. Tại một ít bang như New York, người Do Thái chiếm một tỉ lệ cử tri quan trọng.

Nhưng những nhà vận động hành lang Israel không thể thành công nếu chỉ nhờ vào sức mạnh kinh tế và chính trị. Họ chỉ có thể thắng nếu đánh trúng sợi dây tâm lý thâm sâu nhất của Mỹ. Đối với những người có tâm tình tôn giáo như Clinton, Israel là một biểu hiện ý muốn của Thiên Chúa ở dưới đất này. Đối với những người tự do, Israel là một điển hình của nền dân chủ tồn tại trong một môi trường nghiệt ngã. Đối với những người bảo thủ, nó là một nước của những con người mạnh mẽ đáng kinh ngạc, dám làm bất cứ điều gì cần thiết để bảo vệ những lợi ích sống còn của đất nước. Các nhóm Tin lành Mỹ đã hô hào chủ nghĩa Phục quốc Do Thái từ lâu trước khi Theodor Herzl sáng lập Phong trào Phục quốc Do Thái, trong khi những bậc tổ tiên sáng lập nước Mỹ tìm thấy nguồn cảm hứng cho cuộc tìm kiếm tự do trong các câu truyện trong Kinh thánh về người Israel trốn thoát vua Pharaoh Ai Cập.

Ảnh hưởng của người Do Thái phát sinh từ việc họ hội nhập vào xã hội Mỹ, sự xuất sắc của họ vì là một nhóm người có tri thức và thành công, có khả năng hình thành ý kiến. Mỹ thấy Israel như là hình ảnh của chính mình, một nước sinh ra từ sức mạnh của một ý tưởng "tự do" thôi thúc và xây dựng trên câu truyện lãng mạn về "các nhà tiên phong" với một sứ mạng do Thiên Chúa trao. Những người phê bình cả Mỹ lẫn Israel có thể thêm rằng hai nước là những xã hội gồm dân định cư của dòng giống châu Âu cùng chia sẻ cái tội xua đuổi những người dân bản xứ khỏi đất của họ. Tất cả tiền bạc của người Ả Rập không thể cạnh tranh được với khả năng của Israel trong việc tự giới thiệu mình như là hiện thân của các giá trị dân chủ và tự do của Mỹ trong một vùng bị cai trị bởi các ông vua chuyên chế.

Ngày nay thật khó tưởng tượng rằng Mỹ không luôn luôn là người bạn trung thành nhất của nhà nước Israel. Sự viện trợ kinh tế dồi dào, đơn độc bênh vực Israel tại Liên Hiệp quốc và những cố gắng ngoại giao khổng lồ nhằm gỡ rối xung đột Israel-Ả Rập, tất cả đều là những phát triển gần đây thôi.

Tổng thống Harry Truman nhìn nhận Israel là chính quyền trên thực tế tại các lãnh thổ nó chiếm đóng, chỉ 11 phút sau khi Anh chấm dứt quyền cai trị được ủy thác vào tháng Năm 1948. Nhưng giá như Truman để quyền quyết định cho Ngoại trưởng của ông, George Marshall, thì Israel có thể đã không được sinh ra. Hoa Kỳ bỏ phiếu tán thành việc phân chia Palestine tại Liên Hiệp quốc năm 1947, nhưng bộ Ngoại giao đã rút lại khi bạo động nổ ra và đã bảo trợ một cố gắng nhằm đặt Palestine dưới sự giám sát của Liên Hiệp quốc.

Cử chỉ nhìn nhận của Truman tuy gây xúc động mãnh liệt đối với người Do Thái, nhưng Liên Xô mới là nước bảo đảm sự sống còn của Israel trong những tháng nguy kịch ban đầu ấy, chứ không phải là Hoa Kỳ. Các quan chức phục quốc và các nhà ngoại giao Liên Xô bận bịu lên kế hoạch nhằm đánh bại cố gắng của Hoa Thịnh Đốn muốn treo lại vấn đề phân chia đất Palestine. Khác hẳn với việc Mỹ nhìn nhận nhà nước Do Thái trên thực tế vào tháng Năm 1948, Liên Xô là nước đầu tiên nhìn nhận Israel trên nguyên tắc. Và điều quan trọng hơn là, tuy Mỹ là nước áp đặt lệnh cấm vận vũ khí, nhưng chính nhờ việc Liên Xô đồng ý để nước cộng sản Tiệp Khắc cung cấp máy bay và vũ khí mà Israel có thể đánh bại quân Ả Rập năm 1948.

Một số vấn đề giúp ta hiểu rõ hơn những thay đổi về đường lối ngoại giao trên thế giới trong việc nhiều nước thay đổi liên minh ở Trung Đông.

Israel là sản phẩm của một thời kỳ hòa hoãn hiếm có giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Sau những cảnh rùng rợn của Thế Chiến II, cả Mỹ lẫn Liên Xô đều nhất trí rằng Israel cần phải có nhà nước riêng tại Palestine, bất chấp người Ả Rập có thể nói gì.

Tuy nhiên, khi bắt đầu có cuộc Chiến tranh Lạnh, Israel đi theo Washington, còn một số nước Ả Rập liên minh với Mạc Tư Khoa. Sau thời kỳ ban đầu cung cấp vũ khí cho Israel, giờ Tiệp Khắc trở thành nước hậu cần của Ai Cập với một hợp đồng cung cấp vũ khí khổng lồ vào tháng Chín 1955, đẩy nhanh cơn lốc sự kiện tới cuộc khủng hoảng Kênh Suez vào năm sau.

Ngày nay Pháp có thể được coi là một trong những nước thân Ả Rập nhất, nhưng vào thập niên 1950, Paris đóng vai trò đồng minh tốt nhất của Israel, cung cấp xe tăng và máy bay chiến đấu. Thời ấy Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel-Nasser là người ủng hộ chính của cuộc nổi loạn tại Algeria chống lại quyền cai trị của Pháp và Paris kết luận rằng kẻ thù của kẻ thù Ai Cập của họ phải là bạn của họ.

Chính là Pháp chứ không phải Anh và Tuyên ngôn Balfour của Anh-là nước đầu tiên hứa khôi phục sự độc lập Do Thái tại Palestine. "Những người kế thừa chính đáng đất Palestine!" đó là lời tuyên bố của Napoleon năm 1799 khi ông đi ngang qua Palestine. "Mau lên! Bây giờ là thời điểm thuận tiện mà phải hăng ngàn năm mới có, để tuyên bố việc khôi phục các quyền dân sự giữa các dân tộc trên thế giới, các quyền mà các bạn đã bị tước đoạt trong hàng ngàn năm".

Bản tuyên bố đề ngày tháng ở Jerusalem, nhưng Napoleon chưa từng, đặt chân lên thành thánh, vì ông đã bị đánh đuổi một cách nhục nhã tại cổng Acre bởi những quân bảo vệ do đội hải quân Anh ủng hộ.

Vào thập niên 1950, Pháp cung cấp động cơ thúc đấy chương trình vũ khí hạt nhân của Israel bằng cách giúp họ xây dựng một lò phản ứng hạt nhân tại Dimona, cũng giống như ít thập kỷ sau, Pháp sẽ giúp phát triển chương trình hạt nhân của Iraq.

Việc Nasser quốc hữu hóa Kênh Suez đã lôi kéo Anh vào liên minh với Pháp và Israel. Tám năm sau khi Anh bị người Do Thái đuổi khỏi Palestine, quân đội của họ lên kế hoạch tấn công Ai Cập. Israel xâm lăng Sinai để tạo cớ cho Pháp và Anh "can thiệp". Nhưng Tổng thống Dwight Eisenhower, tức giận vì sự can thiệp cuối cùng này của thế giới thuộc địa cũ, sợ rằng điều này sẽ ảnh hưởng xấu tới chính sách của Washington nhằm lôi kéo thế giới Ả Rập vào "Hiệp ước Baghdad" chống Liên Xô, nên đã buộc các liên minh chống Nasser phải triệt thoái. Eisenhower đe dọa cúp mọi viện trợ cho Israel.

Năm 1967, Israel đánh “Cuộc chiến Sáu Ngày” với khí giới của Pháp nhưng không có sự ủng hộ của Pháp. Charles de Gaulle, trước đó đã rút khỏi Algeria, nay cấm bán vũ khí cho Israel ngay trước ngày xảy ra “Cuộc chiến Sáu Ngày” và từ đó trở đi ngày càng thân thiện với các nước Ả Rập.

Nhưng ở thời điểm này, quan hệ với Washington đang ấm lên rất nhanh. Vào những năm cuối nhiệm kỳ của Eisenhower, quan hệ với Israel được cải thiện, với việc đảng Dân chủ đắc cử tổng thống Mỹ, các quan hệ này đã thay đổi hẳn.

John F. Kennedy là tổng thống Mỹ đầu tiên bảo đảm an ninh cho Israel, và ông đã bán các giàn phòng không Hawk cho Israel năm 1962. Về sau, Lyndon B. Johnson cũng bán các máy bay chiến đấu phản lực cho Israel.

Chính Cuộc chiến Yom Kippur đã khiến Mỹ dính líu sâu vào Trung Đông. Mỹ thực hiện một cuộc không vận quân cụ để giúp Israel đảo ngược cục diện chiến tranh, nhưng sau đó lại ngăn cản Do Thái tiêu diệt Đạo quân Thứ Ba của Ai Cập. Mỹ không thể để cho đồng minh Israel của mình bị thua trận, nhưng cũng không thể cho phép Ai Cập bị nhục.

Chiến lược này, cũng như trò ngoại giao Con thoi của Henry Kissinger, đã dẫn đến các Thỏa ước Không Can Thiệp với Ai Cập và Syria, dọn đường cho hòa ước giữa Ai Cập và Israel năm 1978, dưới thời Jimmy Carter. Sau cuộc thương thuyết Trại David, Mỹ cung cấp cho Ai Cập số viện trợ lớn cũng gần ngang ngửa với số viện trợ dành cho Israel—khoảng 2 tỉ mỹ kim một năm so với 3 tỉ cho Israel. Tuy là nước ủng hộ Israel, hay có lẽ vì sự ủng hộ này, Mỹ trở thành nước duy nhất làm trung gian trong khu vực.

Ronald Reagan là người nhìn thấy thế giới phân chia rõ rệt giữa cộng sản và chống cộng sản, nên ông đã chính thức nâng Israel lên địa vị "đồng minh chiến lược" của Mỹ chỉ ít tháng truớc khi nó xâm lăngLebanon. Nhưng Cuộc chiến Vùng Vịnh 1991 dưới thời George Bush cho thấy rằng, thay vì là một đồng minh, Israel gây bối rối chiến lược cho Mỹ khi nó đưa sức mạnh quân sự của Mỹ vào thế giới Ả Rập.

Có một lúc người ta đã tưởng chừng sự biến đổi thế giới sau sự tan rã của Liên Xô và cuộc khủng hoảng Vùng Vịnh có thể làm yếu đi tình bạn giữa Mỹ và Israel, vốn được xây dựng trong thời Chiến tranh Lạnh khi Israel được coi là tiền đồn của phương Tây chống lại sự bành trướng của Liên Xô. Tuy nhiên, Bush thất cử, và quan hệ giữa Mỹ và Israel đã không bị thử thách trong những năm sau đó. Bill Clinton là người kế thừa may mắn của thỏa ước Oslo mà ông đã đón nhận ngay năm đầu làm tổng thống. Thỏa ước đã được ký kết mà không có sự dính líu của Mỹ, nhưng sau khi chủ trì lễ ký kết, Clinton thực sự trở thành người bảo vệ giao kèo hòa bình giữa Israel và Palestine. Ông cố gắng hết sức để thúc đẩy thỏa ước tiến tới, nhưng ông cũng hiểu rằng cơ hội hiếm có để giải quyết vấn đề Ả Rập-Israel có thể là gì.

Oslo có thể đạt được là nhờ cuộc đại thắng của Mỹ trong Cuộc chiến Vùng Vịnh, khiến cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan của Ả Rập rơi vào thế tự vệ, họ phải chấp nhận một tình trạng Hòa Bình của Mỹ tại Vùng Vịnh, và tổ chức PLO buộc phải có một bước thực dụng để cứu tổ chức. Dưới thời Clinton, chính sách của Mỹ trong khu vực bị chi phối bởi nhu cầu bảo vệ và thúc đẩy việc thực thi thỏa ước Oslo, nhu cầu kiềm chế Iraq.

Từ góc nhìn của Israel, vấn đề Irắc giúp cho Israel bác bỏ được quan điểm phổ biến rằng vấn đề trọng tâm của thế giới Ả Rập là chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Việc xâm lăng Kuwait không có liên quan gì với Israel, hay với việc chiếm đất và tản cư người Palestine. Nó liên quan tới sự chuyên chế và tham lam, một sự tranh giành giữa các thiểu số cai trị chỉ khác nhau về mức độ độc tài mà thôi. Các quan chức tại Jerusalem nhận xét rằng việc Israel đánh bom lò phản ứng hạt nhân của Irắc năm 1981, tuy hồi đó bị thế giới lên án, nhưng thực sự đã phục vụ rất đắc lực cho thế giới.

Tuy nhiên, từ góc nhìn của người Ả Rập, sự dính líu của Mỹ vào các vấn đề Palestine và Iraq đã khiến họ rất tức giận. Thêm vào với sự tức giận vì việc Israel xâm nhập khu vực, bây giờ lại có thêm sự tức giận vì sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Saudi Arabia, cái nôi của Hồi giáo. Dưới góc nhìn của nhiều người Ả Rập, Mỹ không chỉ bảo vệ Israel trong việc nước này đàn áp người Palestine, Mỹ cũng còn đàn áp nhân dân Iraq bằng chính sách trừng phạt suốt một thập niên và các cuộc tấn công quân sự.

Nhiều người Ả Rập cho rằng Mỹ phạm tội áp dụng "tiêu chuẩn hai mặt" Một nước là Israel vi phạm liên tục các nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc bằng cách chiếm đóng lãnh thể bằng quân sự, nhưng lại nhận được 3 tỉ mỹ kim mỗi năm về viện trợ quân sự và dân sự của Washington. Đây là khoản viện trợ lớn nhất mà không một nước nào khác nhận được của Mỹ, tương đương với khoảng 500 mỹ kim mỗi đầu người Israel, nhiều hơn tổng sản lượng quốc gia tính theo đầu người của nhiều nước châu Phi đang bị đè nặng bởi các món nợ quốc tế.

Một nước khác - Iraq, vi phạm các nghị quyết Liên Hiệp quốc qua vụ xâm lăng Kuwait, nhưng vẫn đang bị điêu đứng cả một thập niên sau khi Kuwait được giải phóng, và phải chịu chế độ trừng phạt do cộng đồng quốc tế áp đặt, dẫn tới nghèo khổ, bệnh tật và chết yểu của mọi người trừ những người Iraq giàu có.

Israel được trang bị vũ khí hạt nhân và các tên lửa mang vũ khí hạt nhân, nó không công nhận Hiệp ước Phổ biến Vũ khí Hạt nhân và nói Công ước Geneva không áp dụng vào việc nó chiếm Bờ Tây và Dải Gaza-thế mà nó vẫn được coi là một đồng minh của Washington. Ngược lại, Iraq bị nghi ngờ theo đuổi chương trình vũ khí không quy ước và đã trở thành cái cớ để biện minh cho việc quốc tế tiếp tục cấm vận kinh tế và gây áp lực quân sự trên Baghdad.

Dưới con mắt nhiều người Ả Rập, ảnh hưởng tai hại của Mỹ thâm nhập khắp nơi: sức mạnh quân sự Mỹ chia rẽ dân tộc Ả Rập, tiền của Mỹ làm biến chất các nhà cai trị Ả Rập và phong cách xã hội Mỹ làm ô nhiễm Hồi giáo. Al-Aqsa Intifada đã khuấy động xa hơn phong trào bài Mỹ trên khắp thế giới Ả Rập và Hồi giáo. Trong bầu khí phẫn nộ cao độ này, bất cứ ai làm nhục Mỹ đều được coi là anh hùng. Saddam Hussein đã tìm cách giữ thái độ thách thức, coi thường các lệnh trừng phạt, hô hào thánh chiến tại Palestine, và chiêu mộ những "quân tình nguyện" sẵn sàng tiến về Jerusalem. Tháng Ba 2001, Richard Holbrooke, nguyên đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp quốc, đã đưa ra hình ảnh khải huyền về hai cuộc khủng hoảng Iraq và Palestine nhập thành một "quả cầu lửa khổng lồ".

Dù sao, sự bùng nổ lại đến từ một hướng khác, từ những người Hồi giáo bất mãn tại vùng đất thịnh vượng nhất của Ả Rập, Saudi Arabia. Hơn một nửa trong số 19 tên khủng bố ngày 11 tháng Chín là người Saudi Arabia. Không có người Palestine nào. Mạng lưới khủng bố của Osama bin Laden sinh ra từ sự phẫn nộ của ông đối với sự hiện diện của Mỹ tại đất thánh của bán đảo Ả Rập, nhưng sức mạnh quá lớn của Palestine đã thúc đẩy ông sử dụng tên của Palestine để biện minh cho cuộc chiến chống lại nước Mỹ.

Mạng lưới của Bin Laden, nay đã bị tiêu diệt một phần bởi chiến dịch quân sự của Mỹ tại Afghanistan, tự xưng là Mặt trận Thánh chiến Hồi giáo Thế giới Chống Lại Người Do Thái và các Thập Tự quân. Trong một thông điệp ghi băng phát đi một thời gian ngắn sau vụ 11 tháng Chín, Bin Laden chào mừng cách mà Mỹ bị "Thiên Chúa Toàn năng trừng phạt". Sự đau khổ của Mỹ, Bin Laden nói, "chỉ là một bản sao những đau khổ chúng ta đã phải nếm" trong nhiều thập kỷ bị đè bẹp. Ông hô hào người Hồi giáo vùng dậy thánh chiến: "Mọi người Hồi giáo phải đứng lên bảo vệ tôn giáo của mình. Ngọn gió đức tin đang thổi và ngọn gió thay đổi đang thổi để quét sạch sự xấu khỏi Bán Đảo của Muhammad, nguyện chúc bình an cho Người.

"Còn với nước Mỹ, tôi nói cho nó và dân chúng của nó mấy lời: Tôi thề với Chúa rằng nước Mỹ sẽ không sống trong hòa bình trước khi hòa bình ngự trị tại Palestine và trước khi mọi quân đội của những kẻ vô đạo bị đuổi khỏi đất của Muhammad, nguyện chúc bình an cho Người. Thiên Chúa là Đấng Chí tôn và Hồi giáo vinh quang."

Một lá cờ xanh dương bạc màu treo phía trên một ngôi nhà cũ của người Ả Rập bên ngoài cổ Thành ở Jerusalem. Trước kia nó từng là một tháp canh trên vùng đất vô chủ giữa ranh giới ngừng bắn của Israel và Jordan, nhưng nay nó trở thành thấp tịt bởi các khách sạn cao tầng mà Israel đang xây dựng trên những khu đất hoang để xoá sạch các dâu vết đường ranh phân chia thành phố.

Được gọi là Nhà MAC (Mixed Armistice Commission. Uỷ ban Ngừng bắn Hỗn hợp), tòa nhà này của Liên Hiệp quốc, nơi để các quan chức quân sự Israel và Jordan gặp nhau dưới sự bảo trợ của Tổ chức Giám sát Ngừng bắn Liên Hiệp quốc (UNTSO), là sứ mạng gìn giữ hòa bình đầu tiên của Liên Hiệp quốc mà bây giờ là tể chức vô dụng nhất.

Ngày nay Nhà MAC không có chức năng hữu ích nào. Nó chỉ là một văn phòng tồi tàn cho nhân viên Liên Hiệp quốc vì giờ không có lằn ranh ngưng bắn nào để giám sát. Ranh giới phân chia Jerusalem năm 1948, lúc UNTSO được triển khai, từ lâu đã bị di dời bởi lực lượng quân đội Israel xuống tận thung lũng Jordan.

Lý do chính thức cho sự hiện diện của UNTSO bây giờ là "để hỗ trợ các sứ mạng gìn giữ hòa bình khác của Liên Hiệp quốc". Mục đích thực sự của nó là chính trị-duy trì lá cờ xanh của Liên Hiệp quốc trên "ranh giới" cũ của Jerusalem và trên Nhà Chính phủ (trung tâm cai trị cũ của Anh); để chứng tỏ sự tiếp tục có mặt của Liên Hiệp quốc ở Jerusalem.

Các lá cờ là biểu tượng sự quan tâm lâu dài và đầy ám ảnh của quốc tế đối với Israel-một lời nhắc nhở rằng, khi quyết định phân chia Palestine năm 1947, Liên Hiệp quốc đã có ý duy trì một corpus scparatum, một thực thể riêng biệt, được trực tiếp điều hành bởi Liên Hiệp quốc. Ngày nay Nhà MAC là một lời trách móc Israel về việc nước này lấn chiếm Đông Jerusalem năm 1967.

Trừ một ít nước ở Trung Mỹ, nhiều nước đã có một quan điểm tương tự và đã giữ toà đại sứ của họ ở Tel Aviv. Các ứng viên tổng thống Mỹ đều đưa ra lời hứa chuyển tòa đại sứ Mỹ tới Jerusalem, nhưng sau khi nhậm chức họ đều tìm ra hàng ngàn lý do dể cho thấy đây là chuyện không khả thi vào lúc này.

Nhiều người Israel muốn xe ủi san bằng Nhà MAC. Đối với người Palestine, cờ Liên Hiệp quốc tại Jerusalem cho họ hy vọng có quyền lập nhà nước của họ với Jerusalem làm thủ dô. Nếu năm 1947 người Do Thái đã từng nhảy mừng trên đường phố để ăn mừng cuộc bỏ phiếu phân chia Jerusalem bởi Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc, thì Israel ngày nay coi Đại Hội đồng như là một tập thể bài Israel và thậm chí bài Do Thái. Và nếu trước kia những người Palestine và những người Ả Rập khác từng giận dữ phủ nhận nghị quyết phân chia như là bất hợp pháp, thì giờ họ coi các nghị quyết của Liên Hiệp quốc như cơ sở về "tính hợp pháp quốc tế" cho chính nghĩa của họ.

Israel đã khởi đầu một quan hệ xấu với Liên Hiệp quốc vào tháng Chín 1948 khi nhóm bí mật Lehi ám sát Bá tước Folke Bernadotte, người trung gian hòa bình của Liên Hiệp quốc tại Palestine, là người đã đề nghị trả vùng Negev từ nhà nước Do Thái về cho nhà nước Ả Rập và đặt Jerusalem dưới chủ quyền Ả Rập.

Mỗi năm Đại Hội đồng thông qua hơn một chục nghị quyết chỉ trích Israel, và các nước Ả Rập lợi dụng mọi diễn đàn Liên Hiệp quốc-từ các diễn đàn phát triển kinh tế tới các diễn đàn về quyền phụ nữ-để hô hào chống chủ nghĩa phục quốc Do Thái. "Nếu Algeria đưa ra một nghị quyết tuyên bố rằng trái đất hình dẹt và Israel đã đập dẹt nó, thì nghị quyết sẽ được thông qua với 164 phiếu thuận, 13 phiếu chống và 26 phiếu trắng" theo lời nhận xét của Abba Eban, một cựu ngoại trưởng của Israel. Đôi khi Israel chỉ được hai phiếu ủng hộ-một của chính nó và một của Mỹ.

Cho dù Israel có phàn nàn thế nào về thái độ thiếu hiểu biết và thiên lệch của thế giới bên ngoài, nó cũng không thể không nhìn nhận sự thực là tính hợp pháp của nó phát xuất từ các hiệp ước và các văn kiện quốc tế. Tuyên ngôn Balfour đối với Israel là một khế ước với quyền lực của thế giới nhằm thiết lập một nhà nước Israel mới. Tuyên bố đã được phê chuẩn tại hội nghị các Đồng minh ở San Remo năm 1920, và được kết hợp vào Sứ mạng về Palestine do Hội Quốc Liên ủy thác cho nước Anh năm 1922. Một hành động của chủ nghĩa đế quốc đã tạo ra nhà nước Israel phôi thai, nhưng về phương diện này nhà nước Israel cũng không phải là cái gì nhân tạo hơn các nhà nước Ả Rập, vì các nước này cũng đã được tạo ra bởi các nước Đồng minh sau Thế Chiến I.

Kể từ khi Herzl giật dây các nước châu Âu để bảo đảm một hiến chương cho người Do Thái ở Palestine, các vấn đề Israel và Palestine phần lớn đều nằm trong tay các nước trên thế giới. Liên Hiệp quốc đã phân chia Palestine để tạo ra một nhà nước Israel, như một hành vi đền tội của thế giới vì cuộc tàn sát người Do Thái. Sớm hay muộn, Liên Hiệp quốc cũng sẽ nhìn nhận sự độc lập của Palestine như một sự đền tội vì những đau khổ và bất công mà người Palestine đã phải hứng chịu.

Người Palestine có sự phân biệt giữa Liên Hiệp quốc nguyên thủy của 1947, khi tổ chức này bị chi phối bởi các cường quốc, và Liên Hiệp quốc của thập niên 1970, khi nó mở rộng với các nước mới được độc lập. Tổ chức Giải phóng Palestine được hưởng một địa vị tại Liệp Hiệp quốc chỉ ở dưới mức của một nhà nước đầy đủ một chút ít, còn Israel trong nhiều thập kỷ vẫn chỉ là một hạng tứ cố vô thân không được đếm xỉa gì tới trong các nước tại khu vực (mãi năm 2000 Israel mới gia nhập nhóm các nước Tây Âu và các nước khác).

Năm 1974, Arafat được mời đọc diễn văn tại Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc bất chấp sự phản đốì của Mỹ. Đứng trên diễn đàn tại New York, với cái bao súng lòi ra bên dưới thắt lưng (nhưng súng đã phải để lại ở ngoài), Arafat đã lên tiếng hành hạ tổ chức Liên Hiệp quốc cũ. "Đại Hội Đồng đã phân chia cái mà nó không có quyền phân chia-một quê hương không thể chia cắt. Khi chúng tôi bác bỏ quyết định ấy, lập trường của chúng tôi giống với lập trường của bà mẹ ruột không để cho Vua Solomon cắt đứa con của bà thành hai khi bà mẹ không phải là mẹ thật của đứa bé đòi lấy đứa bé và chịu cắt đôi nó" ông tuyên bố.

Kêu gọi trực tiếp các lãnh tụ của các phong trào giải phóng Thế giới Thứ Ba đang có mặt chật hội trường, Ả Rập nói: "Tôi là một kẻ nổi loạn và tự do là chính nghĩa của tôi." Ông kêu gọi người Israel "từ bỏ mọi lời hứa hão huyền mà ý thức hệ phục quốc đã nhét vào đầu họ" và ông đề nghị cho người Do Thái viễn cảnh một nhà nước Palestine dân chủ, thế tục và thống nhất. "Hôm nay tôi đến đây mang theo một nhánh ô liu và một khẩu súng của người chiến đấu cho tự do" Arafat kết luận. "Chớ để nhánh ô liu tuột khỏi tay tôi".

Một năm sau khi Arafat xuất hiện tại Liên Hiệp quốc, Đại Hội đồng thông qua một nghị quyết đồng hoá chủ nghĩa Do Thái với chủ nghĩa chủng tộc; Israel bị liệt vào cùng một địa vị bị lên án giống như Nam Phi dưới chế độ “phân biệt chủng tộc”. Nhưng với sự thay đổi thất thường trong những tuyên bố của Liên Hiệp quốc, nghị quyết ấy đã được bãi bỏ năm 1991 ngay sau khi thế cân bằng quyền lực có sự thay đổi tại Liên Hiệp quốc, sau khi tường Berlin sụp để và sau Cuộc chiến Vùng Vịnh. Đa số các nước cộng sản cũ giờ vội vã tái lập quan hệ với Israel, vừa như là dấu hiệu cắt đứt với quá khứ vừa như là con đường kết thân với các nước châu Phi thân Mỹ, vốn đã cắt đứt quan hệ từ năm 1973 để trả đũa việc quân đội Israel tiến qua Kênh Suez vào trong lục địa châu Phi, họ bắt đầu phái các đại sứ đến Tel Aviv. Vào thập niên 1990, bộ ngoại giao Israel đã cố gắng tìm đủ các nhà ngoại giao để lấp đầy các vị trí mới.

Với cuộc nổi dậy Palestine, bầu khí tại Liên Hiệp quốc lại một lần nữa trở nên thù nghịch với Israel. Trong những ngày bắt đầu nổi dậy phong trào Intitada, Hội đồng Bảo an đã lên án thái độ "khiêu khích" của Sharon khi ông đến khu vực của Al- Aqsa và "các hành vi bạo lực, đặc biệt việc sử dụng vũ lực quá mức cần thiết chống lại người Palestine, dẫn đến những thiệt hại và thương vong". Ba tuần sau, Uỷ ban Nhân quyền của Liên Hiệp quốc thông qua một nghị quyết lên án Israel về "các biện pháp có tính chất tội ác chiến tranh, các vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế, và các tội ác chống nhân loại".

Thái độ này rơi xuống điểm xấu nhất vào tháng Tám 2001, với Hội nghị Thế giới của Liên Hiệp quốc Chống Chủ nghĩa Chủng tộc, Phân biệt Chủng tộc, Chủ nghĩa Bài Ngoại, và các Thái độ Bất Bao dung liên quan. Người Ả Rập tìm cách khơi lại lời tố cáo cũ về "Chủ nghĩa Do Thái là Chủ nghĩa Chủng tộc" với bản dự thảo tuyên bố lên án Israel như là "một hình thức phân biệt chủng tộc mới" và tố cáo "sự xuất hiện của các phong trào chủng tộc và bạo lực dựa trên chủ nghĩa chủng tộc và các ý tưởng kỳ thị, đặc biệt phong trào chủ nghĩa Do Thái, dựa trên tính tự cao tự đại chủng tộc". Tại những nơi khác, có những cố gắng hạ thấp ý nghĩa vụ tàn sát người Do Thái của Đức Quốc xã để coi nó cũng chỉ là một trong rất nhiều vụ tàn sát kinh tởm khác trong đó có cả việc "tẩy trừ sắc tộc người Ả Rập trong đất Palestine lịch sử". Một nhóm luật gia Ả Rập tại Durban phân phát các tờ bướm vẽ hình người Israel với cái mũi khoằm và máu rỉ ra từ những chiếc răng nanh của họ. Tuyên truyền này quá thô bỉ đã khiến Mary Robinson, uỷ viên nhân quyền của Liên Hiệp quốc và là một người Công giáo Roma, đã phản ứng bằng một tuyên bố đầy tính liên đới: "Tôi là người Do Thái"

Hai phái đoàn Mỹ và Israel tức giận bỏ ra ngoài phòng hội nghị. Cuối cùng, bản văn đã được nhường lại cho các nước châu Âu để viết lại bản văn cuối cùng và tránh những ngôn ngữ quá mạnh chống lại Israel, nhưng vẫn nhìn nhận sự "khốn khổ" của người Palestine.

Tất cả các nhà chính trị có lương tâm của thế giới đều cố gắng góp phần của mình vào công việc hoà giải tại Trung Đông. Jerusalem và Dải Gaza đã trở thành những "thủ đô" quan trọng trong vòng ngoại giao cũng giống như bất cứ thủ đô nào tại châu Ầu. Và do sự quá nhạy cảm của cả người Israel lẫn Palestine, ít có cuộc thăm viếng cấp cao nào mà không xảy ra sự cố.

Vào những năm tôi ở Jerusalem, Bill Clinton bị ngăn không cho tới thăm Cổ Thành năm 1994 bởi vì người Israel và Palestine không thể nhất trí với nhau ai sẽ tháp tùng ông tới các nơi thánh bị tranh cãi. Tổng thống đành phải nhìn qua cửa sổ của Khách sạn David nơi ông ở để thấy các tường thành của thành Thánh.

Hai năm sau, Tổng thống Pháp Jacques Chirac cũng đã đi qua những con đường mòn ở Jerusalem, nhưng ông đã công khai mắng các lính bảo vệ an ninh rằng họ quá hung dữ và ông dọa bỏ về. Năm 2000, Thủ tướng Lionel Jospin của ông bị những sinh viên Palestine ở Đại học Bir Zeit ném đá sau khi ông tố cáo nhóm Hizbollah của Lebanon về "các hành vi khủng bố". Ngoại trưởng Anh Robin Cook đã đột xuất bị hủy bữa tiệc với Thủ tướng Israel năm 1998 sau khi ông đã liều gặp các người Palestine gần một khu vực mới của Israel bị tranh cãi trong phần phía Đông Jerusalem bị chiếm.

Không có cuộc viếng thăm Đất Thánh gây xúc động mạnh bằng cuộc hành hương của Giáo hoàng vào tháng Ba 2000. Ngài hôn hai chén đất thánh, một do các quan chức Israel dâng lên, một do các quan chức Palestine, mỗi bên cố tranh thủ phép lành thiêng liêng và chính trị của ngài cho lập trường của họ. Giáo hoàng tỏ ra rất thận trọng quanh các vấn đề gây tranh cãi như phải chăng Vatican đã có thể làm nhiều hơn chống lại cuộc Tàn sát người Do Thái và một cuộc tranh cãi giữa người Hồi giáo và Kito giáo ở Nazareth. Ngài cầu nguyện ở Hang Đá Chúa Giáng Sinh tại Bethhelem, thăm trại tị nạn Deheisheh, ở đây ngài tuyên bố "dân tộc Palestine có quyền tự nhiên phải có một quê hương của mình".

Israel sốt ruột chờ đợi. Trước khi có cuộc thăm viếng, Amos Oz nhớ lại rằng các bà con của anh "quay mặt đi mỗi khi họ đi ngang qua một nhà thờ". Cuộc thăm viếng đầu tiên của Giáo hoàng Phaolô VI năm 1964 được người Israel nhớ lại như là một sự sỉ nhục hơn là một vinh dự. Giáo hoàng đã chỉ đứng ở Jordan nhìn qua biên giới trong một cuộc thăm viếng vỏn vẹn một ngày, và không hề nhắc đến từ "Israel".

Sáu mươi năm trước đó, khi Herzl đến tìm kiếm sự "đồng tình thiêng liêng" của Vatican năm 1904, đức Piô X nói thẳng với ông rằng vì người Do Thái không nhìn nhận đức Jesus, nên Vatican không thể nhìn nhận dân tộc Do Thái hay phong trào phục quốc. Herzl giải thích rằng ông chỉ quan tâm tới đất "trần tục" của Palestine, sẽ ủng hộ việc mở rộng lãnh thổ các đất thánh. Ông cũng gợi ra những nỗi thống khổ của người Do Thái, nhưng tất cả đều vô ích. "Chúng tôi cầu nguyện cho người Do Thái" đức Pius X nói. "Xin cho lòng trí họ được giác ngộ [...] nếu ông đến Palestine và định cư dân ông ở đó, chúng tôi sẽ có các nhà thờ và các linh mục sẵn sàng để rửa tội cho họ tất cả".

Nhưng gần một thế kỷ sau, vào Năm Thánh của Giáo hội Roma, các vai trò đã thay đổi hoàn toàn. Bây giờ Giáo hoàng John Paul II xin tha thứ (mặc dù ngài phủ nhận trách nhiệm của giáo hội) vì các tội của người Kito giáo chống lại người Do Thái qua các thời đại. Tại Bức tường phía Tây ở Jerusalem, ngài cầu nguyện theo kiểu của người Do Thái và trên miếng giấy nhét vào khe đá của bức tường, ngài viết: "Chúng con hết sức đau buồn vì hành vi của những người trong quá khứ đã gây bao đau khổ cho con cái Người, chúng con xin Người thứ tha và nguyện sẽ hết mình sống tình anh em với dân Giao ước"

Giáo hoàng, người có tên Ba Lan là Karol Wojtyla, đã từng chứng kiến cuộc chiến tại Ba Lan và ảnh hưởng trực tiếp của cuộc tàn sát người Do Thái bởi Đức Quốc xã, ngài đã tạo được một sức lôi cuốn mãnh liệt đối với nhiều người Israel và mang lại một chút hy vọng rằng mối xung khắc hàng ngàn năm giữa Do Thái giáo và Kito giáo có thể được vượt qua.

Ngài đến thăm Đại sảnh Tưởng niệm ở Yad Vashem, nơi luôn cháy một ngọn lửa không tắt để ghi nhớ sáu triệu người Do Thái đã bị sát hại, ba triệu trong số đó bị giết tại quê hương Ba Lan của ngài. Một trong những nhà báo Do Thái có mặt trong cuộc thăm viếng này, Sever Plotzker, đã thuật lại trên tờ Yediot Ahlronot: "Tôi muốn thề rằng khi tôi nhìn thấy đôi môi ngài run run mấp máy tại Đại sảnh Tưởng niệm ở Jerusalem tối qua, tôi thấy ngài đang thì thầm lời kinh kaddish, lời kinh than khóc của người Do Thái".

Khi Palestine chịu đau khổ, Khách sạn Thuộc địa Mỹ sinh động hẳn lên. Ngay khi có dấu hiệu đầu tiên của những biến động chính trị, các khách hành hương và du khách đổ ào ra khỏi các khách sạn Israel trong khi các nhà báo đổ xô đến Khách sạn Thuộc địa Mỹ để thuê phòng. Khi các xe chở du khách đi khỏi, bãi giữ xe đông nghẹt xe của các nhà báo. Các mạng lưới truyền hình giàu có hơn đều có các xe chống đạn. Các hãng khác có các xe có cửa bằng plastic để tránh bị ném đá. Hầu hết đều có cửa sổ bằng nhựa chống đá và treo vội các bảng hiệu "BÁO CHÍ" hay "TRUYỀN HÌNH"

Cuộc bùng phát của Al-Aqsa Intifada vào tháng mười là dịp để các nhà báo làm ấm lại tình bạn với các đồng sự ở xa của họ. Sân và quán giải khát của Khách sạn Thuộc địa Mỹ huyên náo với các câu chuyện cũ về chiến tranh, các câu truyện tiếu lâm, và các cuộc trao đổi thông tin chớp nhoáng. Ibrahim, người quản lý khách sạn, biết rõ những cuộc hẹn hò và những điểm yếu của nhiều người đã từng đến đây trong thập niên trước, nhưng anh ta luôn luôn giữ một thái độ dè dặt mẫu mực.

"Thuộc địa" đã được thiết lập vào thế kỷ XIX bởi những người Kito giáo Mỹ để làm nơi làm việc thiện tại Jerusalem. Bây giờ Khách sạn Thuộc địa Mỹ là nơi dành cho giới ưu tú của Palestine và những người Palestine lưu vong. Các tấm biển đồng đen ghi tên các khách thăm nổi tiếng-Graham Green, John Le Carré, và Peter Ustinov.

Nguyên là dinh thự của Pasha, Khách sạn Thuộc địa Mỹ được kéo tới gần đường ranh giới ngừng bắn cũ. Những tòa nhà do Israel xây dựng gần đấy không cái nào có thể sánh với bầu khí thân mật của một buổi tối ở sân trong của Khách sạn Thuộc địa Mỹ, với vòi phun nhỏ dưới các gốc cây chà là cao vút và các bãi sỏi nâu nhạt trải dưới các giàn hoa giấy.

Jerusalem đã trở thành ngôi nhà thân quen cho các phóng viên và rất nhiều người muốn đến đây mỗi khi có một khủng hoảng. Các nhà báo chỉ là một thành phần nhỏ trong cả một đạo quân các quan sát viên, các nhà viết sử, các thành viên của các tổ chức quốc tế, các nhà hoạt động từ thiện, xã hội, các nhà nghiên cứu, và những người mạo hiểm luôn vây quanh những người Israel và Palestine. Về nhiều phương diện, Jerusalem đã là một "thành phố quốc tế" rồi.

Người Palestine và Israel cãi vã nhau dưới các bóng đèn chói chang của sân khấu; cuộc chiến của họ là sân khấu chính trị. Không có một vụ ném đá nào tại thành phố Jerusalem mà không có một ai đó quay phim được. Tôi đã chứng kiến hàng chục thợ chụp và thợ quay phim đổ xô đến quanh một người ném đá hay một binh sĩ Israel. Người Israel và người Palestine tự bản năng đã học được nghệ thuật nói chuyện theo kiểu trả lời phỏng vấn.

Dưới con mắt quan sát của quốc-tế, thường là lộn xộn, các phe Israel và Palestine tranh cãi nhau một cách rất hung hăng, viết cho báo chí những lá thư chửi bới, những tố cáo về thái độ thiên vị, hay những đề nghị có những "bản tin" độc quyền về tình hình.

Các chính nghĩa của người Israel hay của người Palestine, mỗi dân có mấy triệu người, có một khả năng phi thường để khơi dậy sự ủng hộ ở nước ngoài. Những người ủng hộ người Do Thái ở nước ngoài thì nói chỉ có người Do Thái là những người chịu thiệt; những người có thiện cảm với người Palestine thì cho rằng chỉ có người Do Thái là những kẻ phạm tội.

Với các cuộc xung đột trường kỳ khác trên thế giới, các hãng thông tấn thường không đặt chuông "Khẩn cấp" reo đều đặn bằng một tờ báo sáng, trong khi chỉ cần một người Israel hay Palestine bị giết trong một cuộc đụng độ cũng đủ là đề tài nóng hổi cho một tờ báo. Đa số những người chết trong cuộc xung đột này vẫn còn được ghi lại tên tuổi. Không cái chết nào ở châu Phi, châu Á-hay thậm chí ở các phần khác của Trung Đông-mà được nhiều cột báo nói đến cho bằng một người bị giết ở Đất Thánh. Vụ diệt chủng ở Rwanda đã bị phai mờ trong trí nhớ, cuộc chiến dữ dội ở Chechnya cũng chỉ được các hãng thông tấn ghi lại thoáng qua, nhưng con số khoảng một ngàn người bị giết từ khi bắt đầu có cuộc nổi dậy Al-Aqsa Intifada đã khiến báo chí bị ám ảnh.

Tại sao thế giới-tại sao các nhà báo chúng ta-quan tâm nhiều đến như vậy về các sự kiện ở góc thế giới này?

Lý do thường được đưa ra là tầm quan trọng chính trị-địa lý của Trung Đông. Sự pha trộn của dầu lửa, Kênh Suez, các quân đội hùng mạnh, vũ khí hạt nhân có nghĩa là các nhà cai trị phải can dự vào, các nhà báo bám sát họ. Sự can dự trực tiếp của Mỹ lại càng làm cho các tin tức về Trung Đông có một vị trí ưu tiên hơn.

Hơn nữa, cuộc xung đột Ả Rập-Israel dễ có thông tin hơn phần lớn các cuộc xung đột khác trên thế giới. Các nhà báo dễ tiếp cận hiện trường. Không có các khu rừng sâu phải lặn lội đi vào hay các sân bay điêu tàn phải vất vả đi tới. Một nhà báo từ London hay New York có thể đến tại chỗ bất cứ sự kiện nào chỉ vài giờ sau khi sự kiện xảy ra. Thường không có luật cấm báo chí, tuy rằng cả hai phía đều gây sức ép trên các nhà báo. Sự phối hợp các phương tiện truyền thông chớp nhoáng của Israel, một mạng lưới dày đặc các nhà báo Palestine và những kẻ "đút lót" và sự có mặt của một tập thể đông đảo các nhà báo quốc tế tại Jerusalem tạo ra một lưu lượng "tin" không thể ngăn chặn.

Thường thì cả hai phe đều thích nói, và thậm chí với các cuộc đọ súng trong cuộc bạo động gần đây nhất, cuộc xung đột giữa Israel và Palestine vẫn có thể được đưa tin một cách an toàn hơn hầu hết các cuộc chiến tranh khác. Thường người ta có thể dự báo được các mục tiêu. Tuy nhiên, cũng đã có một số nhà báo nước ngoài bị bị đánh đập và bị thương vì trúng đạn, và một lái xe người Lebanon làm việc cho hãng BBC đã bị giết khi xe anh bị bắn bởi một xe tăng Israel khi quân đội Lực lượng Phòng thủ Israel triệt thoái khỏi Nam Lebanon năm 2000.

Những hành vi tàn bạo nho nhỏ tại Israel có thể được báo chí đưa tin nhiều hơn là các hành vi tàn bạo lớn tại những nơi khác, bởi vì chúng có thể tường thuật ngay lập tức. Israel than phiền về "chuẩn mực hai mặt" của thế giới trong việc thế giới tỉ mỉ dò xét các hành động của Israel, trong khi lại làm ngơ trước các lạm dụng trong thế giới Ả Rập. Dù đúng hay không, đây là cái giá mà Israel phải trả để có thể xưng mình là "nền dân chủ duy nhất tại Trung Đông".

Thật ra phần lớn người Israel thích được thế giới quá chú ý đến mình, hơn là không được để ý đến. Người Do Thái có câu ngạn ngữ bằng tiếng Anh, "Jews is News" Do Thái là tin tức. Câu ngạn ngữ này không sai chút nào. Chủ biên tập trước kia của tờ Jerusalem Post, David Bar-Illan, thường viết một bài xã luận hàng tuần trong đó ông đả kích các phóng viên nước ngoài (chống Israel) là thiên vị, ngu dốt, sai lầm, quá đơn giản hóa. Phía người Palestine cũng thường phàn nàn một cách chua chát về chất lượng của các bản tường thuật nước ngoài.

Israel và các lãnh thổ bị chiếm đóng nhận được một lượng chú ý không cân đối vì các lý do tương tự, đó là các hãng tin phương Tây đành quá nhiều chú ý đối với Nam Phi dưới chế độ phân biệt chúng tộc; người Israel được coi là người "da trắng" châu Âu, nên tự nhiên các hành động, sự tàn bạo, sự dũng cảm, các thành công và thất bại của họ rất được độc giả phương Tây quan tâm. Các sự kiện ở đây cũng được quan tâm rất nhiều tại Thế giới Thứ Ba bởi vì sự nhận thức rằng cuộc đấu tranh của người Palestine là chính nghĩa vĩ đại cuối cùng chống chủ nghĩa thuộc địa.

Nếu bạn tạm thời không xét đến hình ảnh Kinh thánh và cuộc tranh cãi về việc ai có "quyền" lịch sử đối với đất thánh, và nếu bạn tạm gác bỏ những cảm xúc về vụ tàn sát người Do Thái: bạn sẽ thấy Israel rất giống các chế độ định cư thuộc địa của châu Âu được thiết lập ở những nơi khác trên thế giới. Giả như Herzl đã thành công trong việc thiết lập nhà nước Do Thái tại Uganda năm 1904, nó có sẽ trở thành một Nam Phi Do Thái, với một dân da trắng sử dụng sự áp bức quân sự và hành chánh để cai trị dân bản xứ hay không? Hay nó sẽ được coi là một hòn đảo chứa các giá trị dân chủ tự do trên một lục địa đen?

Bản thân Herzl đã ý thức nguy cơ này, khi ông nói ông muốn tạo dựng một Venice mới thay vì một nhà nước Boer khác. Đáng chú ý là, trong cuốn Vùng Đất Tân Cựu, ông hình dung một cách thơ mộng về viễn tượng các nghiên cứu khoa học được thực hiện trong Xã hội Mới có thể tạo ra thuốc chữa trị bệnh sốt rét, và nó sẽ cho phép thuộc địa hóa châu Phi.

Trên thực tế, không thể trốn tránh sự thật rằng nhà nước Do Thái đã được thiết lập tại Palestine, rằng người Do Thái có một liên hệ lịch sử với xứ sở này, vụ Tàn sát người Do Thái đã xảy ra. Vấn đề tranh cãi là liệu các nhân tố này có là lý do để biện minh cho thái độ của người Do Thái hay không, liệu người Palestine có chính đáng trong các phương pháp họ sử dụng hay không.

Nhưng tất cả cũng không cắt nghĩa đầy đủ sự quan tâm kéo dài của người phương Tây. Tôi nghĩ có một nguồn gốc sâu hơn và thuộc văn hóa. Cuộc đấu tranh giữa Israel và người Palestine là một thiên sử ca với các biểu tượng rất quen thuộc. Đa số người phương Tây đều biết chút gì về Kinh thánh, các cuộc Thập Tự Chinh, chủ nghĩa bài Do Thái, và vụ tàn sát người Do Thái. Trong một kỷ nguyên mà truyền hình có thể truyền trực tiếp từ các thành phố kinh thánh như Jerusalem, Bethelem và Hebron, thì ít ai có thể bỏ qua các cảnh David chống Goliath của những người Palestine sử dụng những cái nỏ đơn sơ để bắn đá vào người Israel.

Cuộc xung đột về Đất Thánh-hay Israel, hay Palestine-là câu truyện về thảm kịch và cứu độ. Nó là câu truyện của những nhân vật lớn hơn cuộc đời. Khăn trùm đầu keffiyeh của Yasser Arafat và khăn che mắt của Moshe Dayan có thể nhận ra ngay lập tức. Có một sự căng thẳng tinh thần về nơi chốn-sự tồn tại của cái cũ giữa cái mới, cái tôn giáo xếp chồng lên cái thế tục, sự làm ô uế cái thiêng liêng bằng sự tàn bạo, sự xung khắc giữa hành vi anh hùng và thái độ nhỏ mọn. Cố gắng hòa giải Jerusalem thế tục với Jerusalem thiên quốc làm cho xứ sở này trở nên hấp dẫn và bi tráng.

Việc tạo dựng Israel, cuộc xung đột của nó với người Palestine, là một thiên sử ca có vẻ như bắt đầu với Abraham và vẫn còn đang diễn ra trước mắt chúng ta. Có vẻ như chúng ta vẫn đang chứng kiến những cuộc tranh giành giữa anh em với nhau trong Kinh thánh. Chúng ta thấy phẫn nộ trước cảnh Cain giết Abel em mình. Chúng ta bị xâu xé giữa các quyền của Ishmael, con đầu lòng của Abraham, của Isaac, con chính thức của ông với bà Sarah. Chúng ta cũng chứng kiến cảnh Jacob gian dối trong việc cướp quyền trưởng nam của Esau, chúng ta ngạc nhiên chiêm ngưỡng sự bao dung độ lượng của Jesus đốì với những người anh đã bán ông