← Quay lại trang sách

Lời bạt

Ngay sau khi ký hiệp ước Oslo, Shimon Peres có một vài ảo tưởng về chương trình tạo lập hòa bình và tháo gỡ Israel khỏi những lãnh thổ chiếm đóng. Ông diễn giải: "Bạn có thể biến trứng thành món trứng tráng, nhưng quả là rất khó để biến món trứng tráng thành trứng. Những gì chúng ta đang cố làm là để biến món trứng tráng thành trứng".

Peres nên biết. Trong kiếp trước, trước khi trở thành lãnh đạo bồ câu của nền chính trị Israel và thương luợng các hòa ước với người Palestine, Peres đã là một trong những người bạn lớn nhất của chính quyền Gush Emunim hồi thập niên 1970. Mục đích của những khu định cư là làm cho nó khó thêm, hầu như là bất khả, để chính quyền Israel rút khỏi các lãnh thổ. Giờ ông đang vật lộn với những hậu quả ấy.

Nhìn vào bản đồ của Bờ Tây và Dải Gaza hiện nay, bạn sẽ sớm nhận ra chúng trở thành cái đống lộn xộn của các lãnh thổ chiếm đóng. Các thành phố của Palestine và các vùng đất tự trị bao quanh tung tóe đó đây, những khu định cư của Do Thái rải rắc mọi nơi, được kết nối với nhau với những dãy bện tết gồm những con đường do Israel kiểm soát.

Có giải pháp nào không? Oslo mang lại con đường hướng tới giải pháp hai quốc gia, Israel và Palestine cận kề nhau. Nó là cùng thứ triết lý được giải pháp phân chia của Liên Hiệp quốc khơi gợi năm 1947. Nhiều trong số cùng những vấn đề còn đó. Bất kỳ ai từng đương đầu với vấn đề từ thập niên 1930 sớm thấy rằng không có phương cách rõ ràng để phân cách Ả Rập và Do Thái ở Palestine. Mặc cho cuộc xuất hành hàng loạt của người Palestine năm 1948, hiện người Ả Rập vẫn cấu thành khoảng một phần năm dân số của Israel. Từ năm 1967, những chính phủ kế tiếp của Israel đã ổn định một số lớn người Do Thái trong những lãnh thể chiếm đóng, càng tạo thêm sự pha trộn dân cư.

Thiếu đường phân ranh nhân khẩu và địa lý, đường phân ranh có khả năng vững vàng nhất là đường phân chính trị và lịch sử-các biên giới của Israel trước 1967. Có sự đồng thuận quốc tế là các vùng đất bị chiếm năm 1948, nhiều hơn khi Liên Hiệp quốc phân chia, là của Israel hợp pháp, còn những lãnh thổ bị chiếm năm 1967 được coi là bị chiếm đóng. Chiếu theo luật quốc tế, những khu định cư ở Bờ Tây và Dải Gaza là hợp pháp. Không phải mọi người, kể cả người Israel và Palestine, đều ưa thích sự phân chia, biến đất nước họ chẳng ra làm sao. Những người cực đoan của cả hai bên xác quyết toàn bộ đất nằm giữa Sông Jordan và Địa Trung hải về phần mình.

Tuy thế đường phân ranh trước 1967, được cựu bộ trưởng ngoại giao Isarel mô tả là những ranh giới có thể đi đến một thỏa thuận khả dĩ. Nó là khởi điểm cho một giải pháp. Việc rút khỏi những lãnh thổ chiếm đóng là yêu cầu cốt lõi của đa số người Palestine và được một số đáng kể người Israel chấp nhận. Đa phần người Israel có thể bị lôi kéo cho rằng nếu Israel bảo đảm việc rút đi sẽ chấm dứt một thế kỷ xung đột, không hẳn phải có những xác nhận của Palestine. Cách hành xử như vậy sẽ được đa số thế giới Ả Rập và cộng đồng quốc tế coi là cách hành xử "đẹp" Nelson Mandela thích nói rằng việc chấm dứt chủ nghiã phân biệt chủng tộc không chỉ giải phóng người da đen, mà cả người da trắng của Nam Phi nữa. Việc rút khỏi Bờ Tây và Dải Gaza, với sự thỏa thuận về Jerusalem sẽ giải thoát Israel khỏi những tố cáo là "kẻ xâm lược." Nó cũng tránh cho người Palestine và Isarel trở thành nạn nhân của nhau.

Có những lý do an ninh không thể phủ nhận được để Israel vẫn giữ Bờ Tây-dẫy núi hình thành "bức tường thành" chống lại những kẻ xâm lăng vào phía Đông, bảo vệ đồng bằng duyên hải hẹp của Israel và tạo các vị trí cảnh giới sớm quan trọng. Từ viễn cảnh của Israel tốt hơn nên đánh ở Thung lũng Jordan hơn là từ các chân đồi gần phi trường Ben-Gurion. Trong thập niên trước, quân Israel chết trong lãnh thổ Israel và lãnh thổ chiếm đóng nhiều hơn khi bảo vệ các vùng biên giới. Mặc dù thế giới Ả Rập giận dữ về cách hành xử của Israel đối với Palestine, họ không huy động quân lực để đe dọa Israel.

Nguyên tắc cơ bản về giải pháp hai quốc gia là nhằm để Palestine thừa nhận Israel trong ranh giới của nó trước năm 1967, còn Israel từ bỏ những vùng mà nó chiếm sau năm 1967. Ngay cả vấn đề định cư của khu định cư Do Thái có thể giải quyết được nếu Israel nhường lãnh thổ cho Palestine để bù vào những lô đất có dân định cư nằm trong nước Do thái. Tranh luận tập trung ở Israel là thế này: Liệu việc Israel rút đi có khả năng làm ngừng xảy ra chiến tranh sau này không? Hay nó chỉ làm cho Israel yếu hơn khi xảy ra chiến tranh? Anwar Sadat của Ai Cập hiểu nhiệm vụ của ông là thuyết phục người Israel là câu trả lời cho vấn đề thứ nhất là "Có" Lúc này sự nổi dậy của người Palestine đang đẩy họ tới quan điểm cho rằng hòa bình là điều bất khả. Lúc mới nổ ra cuộc Nổi dậy, Albert Agazarian, sử gia người Palestine, tóm lược vấn đề tranh chấp của Ả Rập- Israel như sau: "Israel đang nắm họng chúng tôi và làm chúng tôi nghẹt thở. Thật là tệ hại, nó không thể buông ra". Từ đó ít điều đã thay đổi. Nhiệm vụ của người Palestine là tìm cách bảo Israel buông lỏng ra.

Vấn đề tranh chấp giữa Israel và người Palestine không chỉ về lãnh thổ; nó về tính hợp pháp của lịch sử. Xung khắc còn sâu xa hơn những biến cố của năm 1967; nó là những hệ quả của cuộc chiến năm 1948, việc tạo lập Israel, và sự tan tác của người Palestine. vấn đề không chỉ là sự chiếm đóng quân sự, nhưng còn là truất hữu của người Palestine và là những xác quyết cả nghìn năm về Vùng Đất Hứa.

Ngay cả khi Israel sẵn sàng rút khỏi tất cả lãnh thổ đã chiếm vào năm 1967, chưa hẳn là, mỗi bên sẽ không mất đi những xác quyết lịch sử đầy xúc động. Trong trường hợp của Do Thái đó là sự kết nối với khu trung tâm "Judea và Samaria" theo Kinh Thánh. Đối với người Palestine, đó là "quyền trở về" dành cho những người tị nạn bị tha hương khỏi nơi mà nay gọi là Israel. Ở đây là sự thỏa thuận: Israel bỏ quyền đòi hỏi đối với Hebron, Bethlehem và Nablus. Trong khi người Palestine bỏ Quyền Trở về Jaffa, Ramle, Lod, và Haifa. Đó là logic của giải pháp hai quốc gia; Israel cho người Do Thái, Palestine cho người Ả Rập.

Còn về Jerusalem thì sao? Không nên biến nó thành mục tiêu đấu tranh, nhưng cố biến nó thành biểu tượng của hòa bình và hòa giải. Điều ấy có nghĩa là vẫn giữ một loại hợp nhất nào đó của thành phố, và coi nó đúng là "đất-vì-hòa bình". Những phần không phải là vùng thánh địa của Jerusalem có thể được chia cho nước Israel và Palestine. Các ranh giới của nước Israel là nhân tạo, được tính toán để phân cách Jerusalem khỏi Bờ Tây hơn là hợp nhất dân của nó lại và không có lý do không thể thay đổi các biên giới của nó.

Cổ Thành là cốt lõi của vấn đề không thể thay đổi hình dạng được. Giải pháp ở đây sẽ cần sự sáng tạo, và trên hết là thiện ý. Theo kế hoạch phân chia năm 1947, Jerusalem mở rộng được cho là một thực thể riêng biệt, sẽ được cộng đồng quốc tế điều hành. Một ý kiến tương tự là, thực thể quốc tế tính cả các nước Hồi giáo, có thể được áp dụng cho thành phố có công sự bao bọc, hay nếu cần, cho cả núi thánh bao gồm Haram al-Sharif và Bức tường phía Tây. Theo tôi, tôi thích ý tưởng để núi Thánh không có chủ quyền, chỉ chia các chức năng hành chính. Nó sẽ là "chủ quyền của Chúa", một loại thánh điện hiện đại biểu thị tính bất khả phân và tính huyền nhiệm của một Chúa cho cả tín đồ Hồi giáo, Do Thái giáo, và Kito giáo cùng cầu nguyện.

Toàn bộ điều này không thể giải quyết rốt ráo vấn đề món trứng của Peres. Nước Palestine được nối kết với hàng triệu người.

Palestine còn ở Israel và Jordan sẽ thế nào? Vấn đề này có thể tác động sự ổn định của khu vực. Các nhà khoa học chính trị nói về cái ngày thiết lập cấu trúc siêu quốc gia, có lẽ là một liên bang, bao gồm Israel, Palestine, Jordan. Điều này có thể làm dịu các vấn đề về bản sắc dân tộc đối với người Palestine rải qua cả ba nước. Những lợi ích kinh tế thì hiển nhiên-Israel muốn sự hòa nhập kinh tế ở Trung Đông. Palestine cần tiếp cận với Địa Trung hải. Nói cách khác, vấn đề Palestine phải được giải quyết không chỉ bằng sự phân cho Anh ủy trị, mà còn bằng sự tái hòa nhập Palestine rộng lớn hơn do Anh cai trị trước năm 1921.

Không có gì là bất thường về chuyện trên. Việc thành lập nhà nước Palestine theo lãnh thổ bị Israel chiếm năm 1967 là cơ bản theo "các tham số" được Bill Clinton nói ra năm 2001. Nó càng sớm xảy ra, càng ít sinh mạng bị mất đi.

Về sự mất cân bằng lực lượng giữa lực lượng địa phương và dân tộc không có quốc gia thì Israel có thể thắng cuộc chiến, nhưng nó không thể bắt người Palestine giải hòa với nhà nước Israel được. Việc đánh người Palestine giống như đấm vào cát; họ quá yếu để bị đánh bại theo đúng nghĩa thông thường của từ này. Mặt khác, người Palestine không thể áp đặt giải pháp quân sự lên Israel nhưng có thể gieo khổ não lên Israel. Như những cuộc tấn công ngày 11 tháng Chín cho thấy Israel có thể đưa ra những khích lệ hoặc những đe dọa để ngăn chặn hoặc trấn áp người Palestine, nhưng hòa bình và bình yên phải do người Ả Rập ban cho. Chẳng phải cuộc xuất hành của người Palestine năm 1948 cũng chẳng phải sự chiếm đóng họ năm 1967 đã bảo đảm hòa bình cho Israel. Trong thời đại tên lửa và vũ khi giết người hàng loạt, chiến tranh đặt ra những nguy cơ to lớn. Sự bảo đảm duy nhất về hòa bình của Israel có thể được người Ả Rập chấp nhận nhưng việc thừa nhận chính là thuyết phục được sự thỏa thuận với người Palestine.

Hoàn cảnh tạo ra sự thương lượng bất cân xứng giữa Israel và người Palestine. Bên mạnh nhất phải nhượng bộ cụ thể nhất: đất đai. Người Israel muốn hòa bình và chấm dứt bạo lực; người Palestine không muốn hòa bình chỉ là hòa bình, vì tính chất mập mờ của "sự công bằng". Người Palestine tin rằng họ đã tạo sự thỏa hiệp lịch sử vào năm 1993 với các thỏa ước Oslo bằng việc công nhận Israel và bỏ ba phần tư đất của thời ủy trị của Anh. Điều này giúp giải thích tại sao người Palestine điên tiết nói "Không" với mọi điều ở Trại David khi mà Israel không rút hết khỏi Bờ Tây, Dải Gaza, và Đông Jerusalem.

Trong mọi cuộc thương lượng khác của nó với các nước Ả Rập-Ai Cập, Jordan và Syria đều thất bại-Israel hiểu về sự mặc cả. Nhà nước Israel phải bỏ toàn bộ đất đã chiếm vào năm 1967 để đổi lấy hòa bình, chứ không nên chơi cái kiểu-theo người Palestine nhìn họ-"cái gì của tôi là của tôi còn cái gì của anh chúng tôi chia phần. Ngay cả Lebanon, nước cho phép Hizbollah tiến hành chiến tranh du kích trong nhiều năm, đã buộc quân Israel rút mà không hề thừa nhận quyền tồn tại hợp pháp của Israel. Tại sao người Palestine, dân tộc cảm thấy bị thiệt hại trực tiếp bởi chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, lại khác? Tại sao họ phải thừa nhận những điều hơn kém "Tính hợp pháp quốc tế?" Theo khoản 242 của Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc khẳng định "việc không thừa nhận sự xâm chiếm lãnh thổ bằng vũ lực" thì việc xâm chiếm lãnh thổ của Israel năm 1967 là bất hợp pháp. Người Palestine hỏi, Tại sao Israel cứ mong bám lấy bất cứ phần đất nào của các vùng lãnh thổ chiếm đóng? Hai bên cứ giằng co mãi về những chuyện này suốt những năm thương thảo.

Ngay cả những nỗ lực kiến tạo hòa bình của Mỹ cũng được tính theo giai đoạn, từng bước một, mà trước mắt là thỏa thuận về ngưng bắn. Nhưng đối với Sharon thì việc mở các cuộc đàm phán có khác gì cho Arafat "quyền gây bạo lực". Còn đối với Arafat, việc ngưng nổi dậy toàn bộ, không đạt được gì ngoài triển vọng mơ hồ, thì đối với người Palestine nó là sự phản bội sự hy sinh của hàng trăm người chết vì nghĩa, như thế có thể rơi vào nội chiến.

Chỉ có lời hứa thừa nhận tính quốc gia của quốc tế cho người Palestine, và nền hòa bình bền vững cho người Israel với những bảo đảm là người Palestine ngưng chống lại nhà nước Do thái mới có thể khích lệ đủ mạnh để hai bên đi đến chỗ thỏa hiệp và không quay lại sự xung đột. Giải pháp lý tưởng để cả Arafat và Sharon thương thảo hiệp ước lâu bền một cách kín đáo, qua đường sau kiểu Oslo. Căn cứ vào vai trò lịch sử của Arafat trong phong trào Palestine và độ tin cậy của Sharon về Quyền dân tộc, hai cựu thù sẽ được đặt vào thế tốt nhất để đạt tới hiệp ước lịch sử. Con đường bí mật sẽ cách ly hai nhà lãnh đạo khỏi những áp lực công khai hàng ngày về việc đánh dẹp cuộc Nổi dậy và sẽ làm mất đi những thất bại không cùng của các giải pháp từng bước.

Mùa thu năm 2001, Shlomo Ben-Ami, giờ không còn cầm quyền nữa, đã đưa ra một giải pháp khác: áp lực mạnh của quốc tế để buộc hai bên tiến tới một thỏa ước. Ông tán thành việc triệu tập một hội nghị quốc tế được Mỹ, châu Âu, Nga, Liên Hiệp quốc, và các nước Ả Rập chính chủ trì. Nó có thể là vòng hai của hội nghị Madrid. Mục đích của nó không là để thương thảo một hòa ước mới, mà là bổ sung những tham số đã được Tổng thống Clinton đặt ra năm 2001.

Đối với một Israel việc mời thế giới tham dự những cuộc thương thảo quả là cách mạng. Nhiều năm nay Israel cố tránh những hội nghị quốc tế để bảo đảm là Mỹ, đồng minh lớn nhất, vẫn giữ thế độc quyền về việc dàn xếp Trung Đông. Người Palestine từ lâu đã cố "quốc tế hóa" sự xung đột bằng cách đưa ra những người hòa giải tương lai với hy vọng gây áp lực lên Israel. Nhưng cuối cùng Arafat chấp nhận vai trò trung tâm của Mỹ là nước duy nhất tác động lên Israel.

Mỗi bên đều phải tỏ ra nỗ lực để thế giới có biện pháp đối với bên ngoan cố.

Thế giới bên ngoài đã quan tâm nhiều về vụ việc của Palestine và Israel suốt từ khi Anh đưa ra Tuyên ngôn Balfour. Nhưng vấn đề vẫn chưa được giải quyết hơn nửa thế kỷ nay sau giải pháp phân chia lúc đầu của Liên Hiệp quốc thì đấy vẫn là vết đen đối với cộng đồng quốc tế. Tranh chấp giữa Israel và người Palestine là một trong nhiều nhân tố-nhưng là nhân tố quan trọng-làm tổn thương các mối quan hệ giữa phương Tây và thế giới Hồi giáo. Như những cuộc tấn công ngày 11 tháng Chín cho thấy, Trung Đông đâu phải chốn xa xôi gì để người ta cứ bình chân để mặc nó tự xoay sở. Bất kỳ ai có sự đố kỵ chống lại Mỹ, chống lại phương Tây, hay chống lại những chế độ thân- phương tây có thể nắm lấy vấn đề Palestine để tập hợp những người ủng hộ điên cuồng. Việc giải quyết nỗi đau của Palestine, việc phủ nhận nó là nguồn kích động những kẻ cực đoan, có thể là một chiến thắng lớn của "cuộc chiến chông khủng bố".