← Quay lại trang sách

Chương 30

Khi trưởng thành, nếu có dịp ghé thăm lại con đường hồi nhỏ từng đi qua, ta thường cảm thấy con đường ấy nhỏ hẹp hơn trong ký ức rất nhiều. Có lẽ điều này liên quan tới kích thước cơ thể của chúng ta.

Thế nên với những con đường ta qua lại khi đã là người lớn, nhiều năm sau ghé thăm, ấn tượng về nó vẫn chẳng thay đổi gì nhiều.

Nhưng Kusanagi lại có cảm giác con đường mà anh đi qua hôm nay hẹp hơn rất nhiều so với ký ức khoảng 20 năm trước. Vừa đi vừa nhìn quanh, cuối cùng anh cũng nhận ra lý do.

Nơi xưa kia là công xưởng hoặc nhà kho thì nay đã được những chung cư đồ sộ thế chỗ. Những tòa nhà này chồng chéo lên nhau khiến anh chẳng thể ngắm nhìn khung cảnh phía xa. Vì thế mà cảm giác ngột ngạt càng gia tăng, khiến anh có ảo giác rằng con đường nhỏ càng trở nên chật hẹp hơn.

Kusanagi dừng chân trước một ngôi nhà xây ngoảnh mặt ra con đường hẹp ấy. Thời mà khu phố này vẫn còn đượm bầu không khí của một khu phố buôn bán, anh thấy tòa nhà trắng theo phong cách Tây phương này thật sang trọng, kiểu cách. Nhưng hiện tại, khi xung quanh nó là những tòa nhà hiện đại, anh lại cảm thấy nó có chút cổ lỗ, lỗi thời.

“Có vẻ là chỗ này ạ.” Utsumi Kaoru đứng bên cạnh anh, vừa nhìn tấm biển nhỏ bằng đá đính chìm trên trụ cổng vừa nói. Tấm biển đề chữ “Sawauchi”. 19 năm trước, cái tên khắc ở đó là “Motohashi.”

“Ừ, đúng là nó rồi.”

Tuy rằng không khí đã khác hẳn trước đây, anh nghĩ vậy nhưng không nói ra.

Utsumi Kaoru nhấn nút của chiếc máy nói nội bộ ở cổng.

Ngay lập tức, một giọng phụ nữ vang lên, “Vâng, ai đấy ạ?”

“Tôi là Utsumi, người gọi điện tới vào sáng nay.”

“Vâng.”

Hai người đang đợi bên ngoài cổng thì cửa chính nằm cuối con đường dẫn vào nhà mở ra. Người bước ra là một phụ nữ nhỏ nhắn đeo cặp kính tròn cùng mái tóc bạch kim cắt ngắn. Biểu cảm trên mặt bà hơi cứng nhắc, nhưng nhìn nét cười nơi khóe môi bà, Kusanagi cũng thấy yên tâm phần nào.

Tên người phụ nữ này là Sawauchi Sachie, là em gái ruột của ông Motohashi Seiji. Nghiên cứu lại tài liệu cũ, Kusanagi mới biết khi phát hiện ra hài cốt của Motohashi Yuna, Motohashi Seiji đã 52 tuổi.

Nếu còn sống, lúc này ông đã 71 tuổi.

Nhưng khi Utsumi Kaoru tìm hiểu thêm, họ biết được rằng Motohashi Seiji đã mất 6 năm trước. Người điều hành công ty cũng đã thay đổi. Nhưng ngôi nhà nơi gia đình Motohashi từng sống thì vẫn còn đó, chưa bị phá đi. Vợ chồng em gái của Motohashi Seiji đã chuyển tới đó sống hơn 10 năm nay.

Kusanagi và Utsumi Kaoru được dẫn tới phòng tiếp khách, nơi có bộ xô pha lớn bọc da.

Trước khi ngồi xuống xô pha, anh đưa ra gói bánh mình mang theo. Bà Sawauchi xua xua tay, vẻ mặt khó xử.

“Anh chị đâu cần mua quà tới thế này.”

“Không sao đâu ạ, chúng tôi mới phải xin lỗi vì đã tới làm phiền bác thế này.

“Có phiền gì đâu. Thôi thì anh chị đã cất công chuẩn bị, tôi sẽ không khách khí nữa.” Bà Sawauchi Sachie cúi đầu, nhận lấy gói bánh. “Anh chị ngồi chơi, đợi tôi pha trà chút nhé.”

“Không cần đâu ạ. Chúng tôi tới vì công việc thôi mà.”

“Là tôi muốn uống đấy. Chẳng mấy khi mới có dịp ngồi thưởng trà với khách mà.” Bà Sawauchi Sachie cười, ra khỏi phòng khách.

Kusanagi thở ra, nhìn Utsumi Kaoru.

“Chúng ta ngồi thôi nhỉ?”

“Vâng.” Utsumi Kaoru đáp.

Ngồi xuống bên cạnh cô trên ghế xô pha, Kusanagi liền ngắm nhìn căn phòng. Trong phòng có một giá sách trông có vẻ nặng nề, trên giá xếp những cuốn sách bìa cứng. Dường như có cả sách tiếng nước ngoài. Trên tường treo một bức tranh hoa lồng trong khung. Có lẽ đây là tranh của một họa sĩ có tên tuổi nào đó.

“Đội trưởng thấy thế nào?” Utsumi Kaoru hỏi. “Có gì khác so với lần trước anh tới đây không?”

“Ừm…” Kusanagi nhìn quanh một lần nữa rồi nói, “Nói thẳng ra thì nó khác hoàn toàn trước đây.”

“Thế ạ?”

“Cô thử nghĩ tới hoàn cảnh lúc đó mà xem. Gia đình Motohashi chỉ có hai vợ chồng và một cô con gái. Cô con gái đó mất tích năm 12

tuổi, không lâu sau thì mẹ cô bé cũng tự tử. 4 năm sau, hài cốt của cô bé được tìm thấy. Đó là thời điểm tôi ghé thăm ngôi nhà này. Tuy ông Motohashi chỉ còn lại một mình, nhưng cô nói xem, ông ấy có thu dọn đồ đạc của vợ và đồ chơi của con gái đi không?”

“A…” Utsumi gật gù vẻ đồng tình. “Chắc là ngược lại. Căn phòng lúc đó có lẽ đầy những món kỷ vật của vợ và con gái ông ấy chăng?”

“Đúng thế. Đặc biệt, những món đồ liên quan tới Yuna đều được giữ nguyên như thời điểm cô bé mất tích.” Kusanagi chỉ giá sách.

“Chỗ đó trước đây có đặt một chiếc đàn piano đứng. Phía bên trên có đặt ảnh chụp cả gia đình ba người. Căn phòng khách lúc đó như thể trong nhà vẫn còn một bé gái tiếu học sinh sống. Thời gian của ông Motohashi đã dừng lại ở đó.”

Kusanagi nhớ lại lúc anh được dẫn vào căn phòng này 19 năm trước. Khi đó Mamiya cũng đi cùng anh.

Họ tới để thông báo với Motohashi về việc họ đã bắt giữ Hasunuma. “Lần này gã sẽ bị pháp luật trừng phạt nghiêm khắc,”

Mamiya đã khẳng định chắc chắn như vậy. Mọi chuyện tưởng như mới ngày hôm qua.

Anh chưa từng nghĩ tới chuyện 19 năm sau, anh sẽ ghé lại nơi đây trong tình huống thế này. Tuy đó là một trải nghiệm cay đắng và đầy nuối tiếc, nhưng anh đã bỏ cuộc với ý nghĩ rằng có lẽ mình sẽ không bao giờ dính líu gì tới vụ án ấy nữa.

Lúc nghe Utsumi Kaoru thông báo vừa đi gặp Yukawa về, anh không ngạc nhiên lắm. Hai người họ cũng là chỗ quen biết lâu năm.

Nếu biết đang ở cùng một khu, họ sẽ thu xếp thời gian gặp nhau, đó là chuyện bình thường. Hơn nữa, họ còn có một chủ đề chung để nói chuyện: cái chết kỳ quặc của Hasunuma. Nếu không có suy luận của Yukawa, có lẽ cảnh sát sẽ tốn thêm rất nhiều thời gian mới xác định được cách thức gây án của hung thủ.

Thế nhưng thực lòng mà nói, anh đã bối rối khi biết Yukawa cho rằng anh nên điều tra về những người liên quan tới vụ án 23 năm trước. Đương nhiên, trong số những người liên quan tới vụ án sát hại bé Yuna, có lẽ tới giờ vẫn có người căm hận Hasunuma. Nhưng tại sao lại là thời điểm này? Nếu muốn trả thù, thì bao năm qua họ đã có biết bao cơ hội để ra tay rồi.

Nhưng theo lời Utsumi Kaoru kể lại thì Yukawa đã nói, “Miếng ghép giúp hoàn thành bức tranh chỉ tồn tại trong quá khứ.” Khi hỏi mảnh ghép đó là gì, anh ta chỉ đáp “các mối quan hệ giữa người với người”.

“Tôi không muốn gieo thiên kiến vào đầu hai người. Nhưng tôi thấy cần cho hai người biết điều này. Vụ án trong quá khứ và vụ án hiện tại chắc chắn có gắn kết với nhau ở một nơi nào đó, bởi một người nào đó.”

Vẫn cách nói bí ẩn như mọi khi, nhưng Kusanagi biết khả năng suy luận của Yukawa không tầm thường. Nếu Yukawa khẳng định chắc chắn như vậy thì có lẽ anh phải có cơ sở gì đó.

Kusanagi tò mò không biết giả thuyết mới của Yukawa là gì. Bởi việc điều tra liên quan tới bình khí heli tìm thấy trong bụi cỏ không đem lại kết quả khả quan nào.

Quanh công viên Kikuno có lắp đặt một số camera an ninh, hình ảnh mọi người ra vào công viên đều được ghi lại. Dù đã thu hẹp phạm vi, chỉ kiểm tra hình ảnh trong vòng 15 phút kể từ lúc 4 giờ rưỡi chiều ngày bình khí bị đánh cắp, lượng khung hình vẫn quá nhiều. Anh đã giao cho mấy điều tra viên kiểm tra, nhưng vẫn chưa tìm thấy người nào mang túi, cặp hay hộp gì đủ lớn để cho bình khí vào. Phía Kusanagi nhận định rằng có thể hung thủ nhận ra sự tồn tại của camera an ninh nên đã ra khỏi công viên bằng ngả nào đó nằm trong góc chết của camera.

Ngoài ra, vì phán đoán rằng có thể thủ phạm đã di chuyển từ công viên tới hiện trường phạm tội bằng ô tô nên nhóm Kusanagi đã phân tích dữ liệu từ hệ thống N-system ở khu vực gần đường chính, nhưng việc này cũng không mang lại kết quả. Dù hôm đó có áp dụng hạn chế giao thông, lượng xe qua lại khá ít.

Khi cuộc điều tra bị đình trệ tới mức đó, Kusanagi bắt đầu để ý tới ý kiến mà hôm trước Utsumi Kaoru đã rụt rè đưa ra, “Rất có khả năng bình khí chúng ta tìm thấy chỉ là vật chứng giả do hung thủ cài cắm vào.” Hỏi ra mới biết Yukawa cũng cùng ý kiến với cô.

Tóm lại, Kusanagi chấp nhận nghe theo lời khuyên của Yukawa rằng hãy điều tra những người liên quan trong vụ án 23 năm trước phần lớn là vì việc điều tra của anh đang gặp phải khó khăn không thể vượt qua nổi.

Cửa mở, bà Sawauchi Sachie đẩy chiếc xe đẩy nhỏ bước vào.

Chiếc xe đẩy làm bằng gỗ, bên trên có bình nước nóng, xuyến và tách uống trà cùng những thứ khác. Có lẽ bà thực sự muốn thong thả thưởng trà cùng khách.

Sau khi yên vị ở phía đối diện Kusanagi, bà Sawauchi đổ nước nóng vào xuyến với cử chỉ thuần thục, rồi rót trà vào tách.

Bà đặt tách trà trắng trước mặt Kusanagi, mời anh uống. Anh cảm ơn bà rồi nhấp một ngụm.

“Nghe nói gã ta đã chết.” Bà Sawauchi Sachie vừa đặt tách trà xuống trước mặt Utsumi Kaoru vừa nói. “Hasunuma ấy. Người bị bắt giữ trong vụ án giết hại Yuna, nhưng sau đó được tuyên vô tội.”

“Bác biết chuyện đó ạ?”

Trước câu hỏi của Kusanagi, bà khẽ đáp.

“Vâng. Tôi không hay xem ti vi, cũng không hứng thú với mạng internet, là hàng xóm nói cho tôi biết đấy. Chuyện từ hơn 20 năm trước rồi, không ngờ trên đời vẫn có người tử tế đến vậy.” Từ “tử tế” của bà hàm chứa giọng điệu mỉa mai. “Trong cuộc điện thoại sáng nay, khi nghe chị xưng là cảnh sát thuộc Sở Cảnh sát Tokyo, tôi đã nghĩ quả nhiên cảnh sát sẽ tìm tới nhà mình.”

“Tôi xin lỗi.” Utsumi Kaoru xin lỗi.

Kusanagi biết cái chết của Hasunuma Kanichi đã trở thành chủ đề nóng trên mạng từ mấy ngày trước. Nghe nói thông tin gã bị bắt mấy tháng trước vì liên quan tới một vụ án mạng nhưng cuối cùng được thả ra vì thiếu chứng cứ cũng được lan truyền rộng rãi. Đương nhiên, số bài viết nhắc tới phán quyết vô tội dành cho gã trong vụ án 23

năm trước cũng tăng lên. Một người hàng xóm “tử tế” của bà Sawauchi đã báo với bà tin này sau khi tình cờ nhìn thấy bài viết.

“Bác nghĩ gì khi nghe tin Hasunuma đã chết ạ?” Kusanagi hỏi.

Sawauchi Sachie ngoảnh gương mặt lạnh lùng qua nhìn anh.

“Tôi không nghĩ gì hết. Nói đúng hơn, tôi không muốn nghĩ tới con người đó. Tôi không quan tâm gã ta còn sống hay đã chết. Tôi không muốn nhớ tới gã ta lần nào trong quãng đời còn lại của mình nữa. Biết bao người đã gặp bất hạnh vì gã ta. Bao nhiêu người đã đau buồn vì gã ta…” Giọng nói của bà càng lúc càng cao lanh lảnh, mặt bà bắt đầu đỏ lên. Như thể tự nhận ra điều đó, bà cúi đầu, nói nhỏ như thầm thì, “Xin lỗi anh chị.”

“Nghe nói anh trai bác… bác Motohashi Seiji đã mất 6 năm trước ạ?”

“Vâng.” Người phụ nữ tóc bạc trắng gật đầu. “Anh ấy bị ung thư thực quản. Thời kỳ cuối căn bệnh, anh ấy gầy như một bộ xương…

Nhưng có lẽ trong lòng, anh ấy cảm thấy vui vì được giải thoát. Anh ấy nói cuộc đời anh ấy không còn niềm vui, không còn điều gì để trông đợi nữa.”

Lời lẽ của bà nặng nề, chìm sâu xuống đáy lòng Kusanagi.

“Thế ạ…”

Bà Sawauchi nhìn một lượt quanh phòng.

“Vụ án ấy khiến anh tôi mất đi tất cả. Anh ấy đã sống thui thủi một mình bao năm trong căn nhà to lớn này. Rồi khi bước sang tuổi 60, anh rút khỏi vị trí điều hành công ty, chuyển vào ở trong chung cư dành cho người già. Nhưng anh không muốn bán đi mảnh đất do tổ tiên để lại, nên anh bảo tôi tới ở, vì thế vợ chồng tôi đã chuyển đến đây. Trước đó vợ chồng tôi sống trong căn hộ cho thuê theo ý muốn của chồng tôi. Khi đó con trai duy nhất của chúng tôi đã dọn ra riêng, chúng tôi đang định bàn với nhau chuyển về nông thôn sinh sống. Chồng tôi mất 2 năm trước, nên giờ chỉ còn mình tôi ở đây. Tôi đã thực sự cảm nhận được nỗi cô đơn của anh trai mình thời anh ấy sống một mình ở căn nhà này. Nhưng đương nhiên có lẽ nỗi đau khổ của anh ấy thì vẫn là thứ mà tôi không thể tưởng tượng ra được.”

“Bác đã bao giờ nói chuyện với anh trai bác về vụ án chưa?”

“Thời điểm ngay sau khi phán quyết vô tội được đưa ra, tôi và anh ấy nói chuyện rất nhiều. Chúng tôi thậm chí còn bàn nhau xem có nên vận động xin chữ ký yêu cầu xét xử lại hay không. Nhưng cuối cùng chúng tôi đã không làm việc đó. Rồi sau đó, những người ủng hộ gia đình chúng tôi cũng dần rời xa từng người từng người một. Anh trai tôi cũng còn có công việc của mình, dần dần tôi không nhắc tới chuyện đó nữa. Bản thân anh tôi cũng không chủ động nói tới chuyện ấy bao giờ.”

“Trước lúc bác ấy mất thì sao ạ?”

“Tôi không chắc nữa.” Bà Sawauchi Sachie nghiêng đầu.

“Tôi nghĩ anh ấy đã nghiền ngẫm lại cuộc đời mình. Có lẽ không ngày nào anh ấy không nghĩ tới vụ án ấy. Nhưng anh ấy không nói ra trước mặt chúng tôi. Chắc anh ấy cũng ý thức được rằng càng nhắc tới chỉ càng khổ sở hơn thôi chăng?”

Nghe câu chuyện của bà, cõi lòng Kusanagi nặng trịch như nuốt phải thỏi chì. Bị cướp mất gia đình thân yêu, vậy mà đến cuối cùng ông Motohashi Seiji vẫn không biết được chân tướng vụ việc, cũng chẳng thể trừng phạt ai, cứ thế từ giã cõi đời. Tâm trạng của ông ấy trong những ngày cuối đời sẽ thế nào, anh không thể tưởng tượng ra được.

“Tôi xin phép được hỏi thẳng.” Kusanagi nói, nhìn thẳng vào mắt bà Sawauchi Sachie. “Bác Hashimoto Seiji đã bao giờ nghĩ tới việc tự tay trả mối hận trong lòng chưa ạ?”

Như bị đâm trúng chỗ không phòng bị, đôi mắt bà mở lớn sau cặp kính tròn. Đôi mắt ấy long lên trước khi bà mở miệng nói.

“Ý anh là giết chết người đàn ông tên Hasunama đó để trả thù cho Yuna ư?”

“Vâng ạ.”

Nghe xong, bà Sawauchi Sachie khẽ nghiêng đầu, ánh mắt nhìn xuống bên dưới. Giây phút sau bà quay mặt trở lại phía Kusanagi.

“Cũng có mấy lần anh ấy nói muốn giết chết gã. Nhưng tôi đoán anh ấy chẳng bao giờ nghĩ tới việc sẽ làm thật đâu. Chính vì không thể xuống tay nên anh ấy mới nói ra miệng như vậy.”

“Ra vậy.” Kusanagi nghĩ câu trả lời này rất thuyết phục.

“Vậy thì, bác có đoán được ai đó tuy không nói ra miệng nhưng rất có thể sẽ xuống tay giết Hasunama hay không?”

“Ý anh là những người có thể sẽ ra tay báo thù hả? Ủm, chuyện đó tôi không chắc.” Bà Sawauchi Sachie nghiêng đầu hơn khi nãy, lát sau bà khẽ lắc đầu. “Tôi không nghĩ ra được. Mọi người đều tức giận, nhưng vì không phải người trực tiếp chịu tổn hại, nên có lẽ họ không làm tới mức đó đâu.”

Kusanagi cũng nghĩ vậy. Trên đời này làm gì có ai nghĩ tới chuyện báo thù cho con cái của người khác.

“Tôi xin phép xen ngang được không ạ?” Utsumi Kaoru ngồi bên cạnh hỏi Kusanagi. Có vẻ ý cô là cô có thể đặt câu hỏi được không.

Kusanagi khẽ gật đầu.

Utsumi Kaoru quay sang bà Sawauchi Sachie.

“Gần đây, có việc gì khiến bác nhớ lại vụ án Yuna ngày xưa không ạ? Ví dụ như có ai đó nói điều gì đó, hoặc có người nào đó liên hệ với bác về việc liên quan tới vụ án không ạ?”

Chưa nghe hết câu hỏi, bà Sawauchi Sachie đã bắt đầu xua xua tay.

“Như tôi nói lúc đầu, ngày hôm qua tôi mới nghe tin Hasunuma đã chết qua lời kể của người hàng xóm. Vì thế mà băng qua bao năm tôi mới nhớ lại chuyện không muốn nhớ lại đó. Bao năm nay chuyện như thế chưa từng xảy ra.”

“Bác có bao giờ nói chuyện với họ hàng thân thích về vụ án đó không ạ?”

“Đã hơn 20 năm trôi qua rồi, số người biết về vụ án ngày đó không còn nhiều nữa. Hồi đó con trai tôi còn nhỏ, nó thậm chí không nhớ rằng mình từng có một người chị họ là Yuna.”

“Có người thân thích nào của gia đình còn sống và xưa kia rất yêu thương Yuna không ạ?”

“Người đó…” Nói tới đây bà Sawauchi Sachie mỉm cười. “Là tôi đây. Tôi đã sống trong căn nhà này cho tới khi Yuna lên 2 tuổi. Dù có thể đối với chị Yumiko, tôi thực là một cô em chồng phiền nhiễu.”

Kusanagi mở sổ tay ra, kiểm tra lại mối quan hệ gia đình của Motohashi Yuna. Tên mẹ Yuna là Yumiko. Họ của bà trước khi kết hôn là Fujiwara. Bà đã tự tử sau khi Yuna mất tích 1 tháng.

“Ngoài ra tôi không nghĩ ra ai nữa cả. Bố mẹ tôi cũng đều đã qua đời rồi mà.”

“Thế ạ?” Utsumi Kaoru đáp, quay sang Kusanagi định gật đầu kết thúc câu chuyện.

“Họ hàng của bác Yumiko, mẹ Yuna thì sao ạ?” Kusanagi hỏi.

“Chắc họ cũng rất yêu thương Yuna chứ a?”

“À không, chuyện đó…” Bà Sawauchi Sachie khẽ xua tay.

“Chị Yumiko không có người thân thích nào. Thực ra là có, nhưng chị ấy không qua lại giao thiệp với họ. Trong lễ cưới của chị ấy, chẳng có người họ hàng nào của chị tham gia cả. Không những thế, ngay cả bố mẹ và anh chị em chị ấy cũng không thấy mặt.”

“Thế à…”

Kusanagi thắc mắc, một cô gái như thế làm thế nào có thể quen biết và nên duyên với một người đàn ông sắp kế thừa công ty của gia đình được nhỉ. Nhưng chuyện này không liên quan tới vụ án nên anh tránh đem ra thảo luận.

Điện thoại bên dưới áo khoác của Kusanagi rung lên. Anh nhìn số gọi đến, là Kishitani. “Xin phép bác một chút.” Anh thông báo với bà Sawauchi Sachie rồi bắt máy.

“Có chuyện gì vậy?”

“Tôi đã đọc lại tư liệu điều tra ngày đó, nhưng trong số những người liên quan, không thấy ai có khả năng dính dáng tới vụ án lần này cả.”

“Thế à… Tôi hiểu rồi. Vậy cậu cảm ơn Phòng Cảnh sát Adachi rồi về sớm nhé.” Nói rồi anh ngắt điện thoại. Anh đã lệnh cho Kishitani tới Phòng Cảnh sát Adachi để đọc lại vụ án về Motohashi Yuna, nhưng có vẻ Kishitani không thu hoạch được gì.

“Tôi rót thêm trà cho anh nhé?” Bà Sawauchi Sachie đưa tay về phía tách trà của Kusanagi. Không biết anh uống tự lúc nào mà tách trà đã trống không.

“Dạ thôi, không cần đâu ạ. Nhân tiện, bác xử lý đồ đạc cũ của bác Motohashi Seiji thế nào ạ?”

“Phần lớn là tôi bỏ đi. Nhưng cũng có những món không biết phải xử trí ra sao, nên tôi gom lại rồi bảo quản trong nhà.”

“Bác có thể cho chúng tôi xem qua chỗ đồ đó được không ạ?”

“Không vấn đề gì, nhưng anh chị giúp tôi một tay được không? Vì nó khá nặng đấy.”

“Đương nhiên ạ.” Utsumi Kaoru nói, rồi cô đứng lên trước cả Kusanagi.

Trong chiếc hộp các tông được bê ra phòng khách xếp đầy nào album cũ rồi thư từ. Kusanagi và Utsumi Kaoru đeo găng tay, quyết định xem qua từng thứ một.

Kusanagi phụ trách kiểm tra album. Nếu trong ảnh có ai đó chụp cùng Yuna, anh sẽ hỏi bà Sawauchi Sachie xem đó là ai. Vợ chồng Motohashi hẳn đã rất hạnh phúc khi đứa con họ mong mỏi nhiều năm cuối cùng cũng ra đời. Họ đã chụp rất nhiều ảnh.

Từ khi Yuna lên tiểu học, xung quanh cô bé bắt đầu xuất hiện nhiều người bà Sawauchi Sachie không quen biết. Đó hẳn là bạn bè của Yuna và phụ huynh của những người bạn đó. Có cả những người có vẻ là giáo viên của cô bé.

Dù hồi nhỏ họ có thân thiết đến đâu, thì cũng khó cho rằng 20

năm sau bạn cùng lớp của Yuna sẽ trăn trở nghĩ cách báo thù cho Yuna. Nếu nghĩ theo hướng đó, thì người mà họ cần tìm phải gắn kết rất mật thiết với cô bé.

Mất gần 2 tiếng anh mới kiểm tra hết số ảnh. Utsumi Kaoru cũng vừa xem xong một lượt số thư từ. Dường như Cô cũng không tìm thấy manh mối gì.

Bà Sawauchi Sachie vào phòng bếp pha cà phê bưng ra.

“Thật phiền bác quá, chúng tôi đã ở lâu thì chớ mà còn bắt tội bác chè nước thế này.” Kusanagi áy náy nói.

“Anh đừng để ý. Lâu rồi mới xem lại ảnh ngày xưa, tôi cũng cảm thấy bồi hồi mà.” Nói xong câu ấy, bà nói thêm: “Tuy rằng cũng thấy hơi khổ sở một chút.”

“Còn cuốn album này thì sao ạ?” Utsumi Kaoru cầm cuốn album cũ còn sót lại trong thùng các tông lên. Bìa album bằng da, chứng tỏ nó là sản phẩm cao cấp.

“Hình như là ảnh chụp trước lúc Yuna ra đời.” Kusanagi đáp.

“Thế ạ?” Vừa gật gù, Utsumi Kaoru vừa lật ngược cuốn album, xem từ sau ra trước. Có vẻ cô muốn xem ảnh theo trình tự ngược thời gian.

“Đây là bác Yumiko đúng không ạ? Mẹ của Yuna đẹp quá.”

“Chị ấy trẻ và khỏe mạnh.” Bà Sawauchi Sachie nói. “Từ ngày chị ấy kết hôn và về đây làm dâu, ngôi nhà của chúng tôi sáng sủa, ấm áp hẳn lên. Hồi đó mẹ tôi vẫn còn sống, nhưng nhà tôi chẳng bao giờ có chuyện hục hặc mẹ chồng - nàng dâu như vẫn thường thấy. Chị ấy cũng là một người mẹ rất tốt với Yuna nữa… Thế nên khi Yuna mất tích, chị ấy đã tự trách mắng bản thân rất nhiều, khiến người ngoài phải thương xót thay. Chị ấy đã gieo mình tự tử từ tòa nhà cao tầng gần đây. Tôi nghe anh Seiji kể rằng một thời gian ngắn trước khi tự tử, trạng thái tinh thần của chị ấy không ổn định, anh tôi đã rất lo lắng cho chị ấy.”

Nghe chuyện, tâm trạng Kusanagi càng u ám hơn. Cụm từ “chuỗi bất hạnh liên hoàn” hiện lên trong đầu anh.

Utsumi Kaoru chợt “A” lên một tiếng. Kusanagi từ bên cạnh nhìn sang, đó là bức ảnh Yumiko mặc váy cưới và Motohashi Seiji mặc bộ Tuxedo[*]. Hai người mỉm cười rất hạnh phúc.

“Sau này anh tôi kế thừa công ty của bố tôi, nhưng hồi trẻ, anh phải học việc ở công ty mẹ. Nghe nói anh quen biết chị Yumiko trong thời gian đó.” Bà Sawauchi Sachie đã nói ra điều Kusanagi thắc mắc khi nãy. “Lúc kết hôn, anh tôi 33 tuổi. Chị Yumiko thì khoảng 24, 25

tuổi gì đó.”

Kusanagi nhìn bức ảnh cưới lần nữa. Lúc đó Yumiko chỉ có một thân một mình…

“Bố mẹ bác Yumiko mất khi nào ạ?”

“Bố chị ấy mất vì tai nạn khi chị ấy còn nhỏ, chị ấy kể như vậy.

Còn mẹ chị ấy mất khi chị ấy vừa lên cấp ba.”

“Sau đó bác ấy vào cô nhi viện hay sao ạ?”

“Tôi chưa từng nghe kể chuyện đó. Chỉ nghe nói chị ấy đã được gửi tới rất nhiều nhà khác nhau.”

“Nhưng bác ấy không có họ hàng thân thích đúng không ạ? Bác ấy đã được ai chăm sóc vậy nhỉ?”

Gương mặt già nua của bà Sawauchi Sachie thoáng hiện lên vẻ bối rối.

“Tôi không biết rõ đâu. Bởi khi ấy tôi không nghĩ phải hỏi ngọn ngành gốc rễ chuyện đó làm gì.”

“Thế ạ…”

Ở bên cạnh, Utsumi Kaoru vẫn tiếp tục mở cuốn album. Thời gian càng ngược về phía trước, càng chẳng thấy ảnh của Yumiko đâu nữa, chỉ còn ảnh của Motohashi Seiji. Từ thời sinh viên về thời thiếu niên thì cũng chỉ toàn là những bức ảnh đen trắng.

Kusanagi kiểm tra bên trong chiếc thùng các tông. Không còn cuốn album nào khác.

“Khi về đây làm dâu, bác Yumiko không mang theo ảnh của bản thân ạ?” Anh hỏi thử bà Sawauchi Sachie.

“Hình như thế. Lúc thu xếp đồ đạc của gia đình anh ấy, tôi mới nhận ra điều đó.”

Kusanagi nhìn cuốn album lần nữa. Bàn tay lật các trang ảnh của Utsumi Kaoru mỗi lúc một nhanh. Bức ảnh được dán ở trang đầu tiên của cuốn album là ảnh một em bé. Có lẽ đó chính là Motohashi Seiji lúc mới được sinh ra.

“Lạ thật.” Kusanagi lầm bầm. “Bác Yumiko ở với mẹ ruột cho tới khi lên cấp ba, nên không thể không chụp tấm ảnh nào được. Mà nếu có ảnh, khi đi làm dâu chắc chắn bác ấy phải mang theo. Những bức ảnh đó rốt cuộc đã biến đi đâu mất? Bác Motohashi Seiji đã bỏ chúng đi ư?”

“Tôi nghĩ không có chuyện đó đâu.” Utsumi Kaoru nói.

“Cô nói phải.”

Kusanagi chìm vào suy nghĩ. Nạn nhân của vụ án 23 năm trước không chỉ có Motohashi Yuna. Motohashi Yumiko cũng là nạn nhân của vụ án ấy. Và sẽ chẳng có gì kỳ lạ khi có ai đó muốn trả thù cho Yumiko. Rất có thể “mảnh ghép” mà Yukawa nói tới chính là chuyện này.

“Utsumi.” Anh gọi.

“Hãy điều tra hộ tịch của Motohashi Yumiko, à không, Fujiwara Yumiko giúp tôi. Lên danh sách tất cả họ hàng, người thân thích nhé.”

“Rõ ạ.” Nữ cảnh sát viên đáp với giọng chắc chắn.