- 5 -
GIỮA LÚC ĐÓ, VÀO MỘT BUỔI SÁNG TRỜI QUANG MÂY tạnh, người ta thấy có một chiếc trực thăng loại chuyên cơ bay từ hướng Thành phố đáp thẳng xuống một khoảng rừng trống vừa bị đốt cháy lam nham. Cái dáng bay và cái dáng hạ cánh của nó tựa như một cánh chim đại bàng rờ rỡ uy quyền. Cả nông trường xôn xao. Cả công ty xôn xao. Và cả Tổng cục, cả tỉnh, cả vùng cũng xôn xao vì sự có mặt bất thần của đoàn khác này.
Dẫn đầu là một người cao lớn, mặc áo kiểu Tôn Trung Sơn, mũ cối màu ghi, nét mặt tỏ ra phiền muộn. Bước sau ông là một người dáng cao gầy, tóc bạc trắng, vẻ nhìn thấu đáo, phúc hậu. Và cạnh sự phúc hậu đó là một người thấy nhỏ hơn, khuôn mặt thanh thoát, có cái miệng cười rất đẹp. Xảy ra một hiện tượng cuốn chiếu như thế này: Tất cả các cán bộ tổng cục, thành phố, tỉnh, vùng đều tỏ ra cung kính khác thường trước con người thấp nhỏ ấy. Con người thấp nhỏ lại tỏ ra cung kính đặc biệt với con người mảnh gầy, phúc hậu kia. Con người mảnh gầy, phúc hậu kia lại có thái độ vì nể khác thường trước con người cao lớn, đội mũ cối, vận áo Tôn Trung Sơn màu ghi kia nữa. Nói chung cả ba con người này đều là những khuôn mặt quá đỗi quen thuộc trên những phương tiện thông tấn quốc gia vào những ngày lễ trọng, những phiên họp có tính bản lề liên quan đến vận mệnh sống còn dân tộc.
Người mặc áo Tôn Trung Sơn đi đến trước mặt Vũ Nguyên lúc ấy đang vận một chiếc sơ mi trắng đến nhức mắt giữa khung cảnh núi rừng hỏi với chất giọng miền Trung rất nặng:
- Đồng chí là giám đốc ở đây?
- Báo cáo, tôi! – Anh dướn thẳng người.
- Nghe nói là một giám đốc giỏi mà để cây phát hoang cháy thế này có xót ruột không? – Ông chỉ những gốc cây lớn nhỏ đang nằm lổn nhổn xung quanh.
- Báo cáo rất xót ruột ạ!
- Tại sao lại đốt? Ai chủ trương đốt?
- Báo cáo, chủ trương đốt là của trên, bởi vì đăng kiểm lâm họ không cho mang gỗ ra khỏi rừng, sợ tiêu cực đành phải đốt để phát quang chứ biết làm sao ạ?
Ngừng lại một lúc lâu như thử đo đếm xem cái anh chàng trẻ ranh này là ai mà đứng trước mình cứ nói lem lẻm như vậy, ông hỏi tiếp:
- Tình hình chỗ đồng chí như thế nào? Có khá hơn những chỗ khác không?
- Thưa, chắc cũng vậy.
- Tại sao? – Tiếng hỏi càng nặng.
- Tại bởi có ba điều bất hợp lý…
Nói đến đó, anh chợt dừng vì thấy xung quanh thoáng có những con mắt của đủ các cán bộ lớn nhỏ đang thấp thỏm nhìn lên như sắp sửa nhúng chân vào lò thuốc súng. Trong số đó anh thấy rõ ràng có cả con mắt toé lửa cửa giám đốc Công ty Ba Vinh như muốn ngầm nhắc nhở anh: “Quá chớn rồi đấy! Liều liệu cái mồm!” nhưng lại có một loạt những cái nhìn khác, cái nhìn của đồng đội, của công nhân bay đến như một sự đòi hỏi, một sự khích lệ âm thầm nên chẳng thể dừng lại, giọng nói vẫn rành rẽ, bình thản:
- Điều bất hợp lý thứ nhất là kế hoạch gieo trồng quá lớn trong khi năng lực gieo trồng lại quá mỏng. Thế là toàn gieo nhảy cóc, gieo ẩu. Tức là thay vì phải ươm, phải chiết cẩn thận rồi mới bưng đi trồng theo kiểu Stum trần, đằng này phần lớn là trồng thẳng, trồng kiểu thực sinh, tác hại bây giờ chưa thấy rõ nhưng đến giai đoạn cây bắt đầu làm mủ thì sự tác hại là không thể lường trước được.
- Điều thứ hai? – Nét mặt người hỏi đã hơi sạm lại.
- Điều thứ hai, đặc điểm dân ở đây là hầu hết đến từ các vùng ven biển nên không có nghề, không có một chút khái niệm gì về kĩ thuật cây cao su cả, trong khi họ phải ôm một khối lượng công việc quá lớn và phức tạp. Và điều thứ ba – Như sợ phải nghe cái câu hỏi giống như thế chẹn vào, anh nói lướt luôn – Chủ trương bỏ cơ giới khai hoang chỉ bằng thủ công là sai lầm. Phương châm rường cốt dốt dọn theo kiểu làm rẫy của người dân tộc chỉ đúng với địa bàn bằng phẳng tiện lợi giao thông và có tay nghề truyền thống như bên Đồng Nai. Trong khi đặc điểm thổ nhưỡng ở đây lại hoàn toàn khác hẳn. Thế là các phương tiện cơ giới bỗng chốc thành đống sắt vụn giữa trời.
Tất cả lặng đi. Nắng rung hơi vào ánh mắt từng người. Người này nhìn người nọ, người nọ lại nhìn người kia. Câu nói của anh như một ngọn roi quất xuống những điều lờ mờ bao lâu nay người ta đều hiểu, đều muốn nói nhưng không thể nói, không tiện nói hay không dám nói. Chỉ có khuôn mặt người cao gầy, phúc hậu bình thản, thỉnh thoảng ông lại gật đầu nhẹ một cái. Cuối cùng người nhỏ bé có cái miệng cười khá đẹp lên tiếng như thể muốn xoá đi cái im lặng ngột ngạt không chịu nổi bằng giọng nói Thừa Thiên rất du dương của mình:
- Tình hình vậy mà giám đốc ra lô lại vận áo trắng à?
- Báo cáo, tôi nghĩ rằng hôm nay tôi đi đón đảng và chính phủ.
- Tốt! Nói tất cả những điều này, đồng chí giám đốc có ngại gì không, ví như sự võ đoán chưa thật chính xác chẳng hạn.
- Dạ, ngại thì tôi đã không nói. Bởi vì là đảng viên, tôi phải có bổn phận nói thật với Đảng, là người lính tôi phải báo cáo trung thực với Tổng tư lệnh.
- Tốt! – Ông quay qua vỗ vai một người tầm thước có nước ra rất chiến trận, nói với người mặc áo Tôn Trung Sơn như thể xoá đi cái khẩu khí lạ tai của cái anh chàng giám đốc trông đỏm dáng vừa rồi – Báo cáo anh! Đây là một bí thư giỏi nhất thời chiến, chắc chắn sẽ là một tổng cục trưởng giỏi nhất thời bình. Anh cứ tin rồi tình hình sẽ được khẩn trương khắc phục.
- Tin gì? – Giọng ông mặc Tôn Trung Sơn bỗng căng lên – Tôi, Đảng và nhà nước đã tin ở các đồng chí ấy nhiều quá rồi nhưng có thấy biến chuyển gì đâu. Nên nhớ đây là hiệp định thế kỉ, một hiệp định khổng lồ thắt chặt thêm tình bằng hữu giữa hai nước, các đồng chí giậm chân tại chỗ thế này biết ăn nói thế nào với người ta, lỗi tại ai? Tại tôi duy ý chí, tôi phiêu lưu à? Hay tại chính phủ, tại các đồng chí không biết điều hành? Ý kiến của đồng chí giám đốc nông trường kia cũng có cái để chúng ta phải suy nghĩ. Ngay chiều này về Thành phố đề nghị bên chính phủ cho triệu tập tất cả các ban ngành, các bộ, vụ có liên quan đến để bàn riêng về việc này. Gấp rồi. Giá nào cũng phải làm bằng được. Đây là tự trọng dân tộc. Cũng là món nợ ân tình chúng ta phải trả trong chiến tranh mà không chỉ là năm mười ngàn héc ta này đâu, tới đây ngành cao su phải tiến lên hàng chục, hàng triệu héc ta, có cái gì mà nhân dân không làm được, hả?
Tiếng hả reo vào đám đông như một phát đạn trái pháo khiến cho mọi cái nhìn cứ lộn trọng, ngơ ngác bay đi đâu.
Theo sự hướng dẫn của phó giám đốc Đoàn Thanh, đoàn người sang trọng có cả một dây báo chí, truyền hình hùng hậu đi theo tiếp tục rùng rùng chuyển bước tiến sâu vào rừng cao su để thực hiện cái ý niệm rất ư quần chúng là kịch mục sở thị. Giám đốc công ty Ba Vinh đi qua trước mặt anh, thái độ lầm lầm không thèm nhìn cũng không thèm nói nửa câu. Riêng người bí thư huyện có nước da đồng hun ngày nào lúc này đã là bí thư tỉnh, còn lùi lại, huých khẽ vào sườn Vũ Nguyên một cái đau điếng:
- Mày… Cái tật! Định chơi đứng tim mọi người đó hả? Nhưng… được ngon đó mày! Cũng phải để cho vua hiểu ra một điều gì chứ.
Ông cười khùng khục nhưng lại đuỗn mặt ra. Anh vừa nhác thấy một khuôn mặt quen giữa đám thợ cạo ở rặng su trước mặt rất quen, khuôn mặt của Hà Thương… nhưng khi tĩnh chí nhìn lại khuôn mặt kia lại biến mất! Thương… Thế là em đã trở về rồi phải không hay em chỉ là một ảo ảnh cây lá mà anh va mắt vào đâu cũng thấy? Tốt thôi! Dẫu em không muốn nhận ra tôi, em lẩn tránh tôi nhưng giữa những cánh rừng tan hoang đang cần được vực dậy bằng mọi giá này, chỉ cần có em, có bóng dáng em đâu đó là được rồi…
- Tuyệt vời! Một phong đội can đảm. Tuyệt vời! Hôm nay anh đã nổi lên như một người hùng giữa đám báo chí rồi. Chính sự nóng vội duy ý chí, không hiểu biết gì về làm ăn kinh tế của các cụ ấy đã đưa đến thảm cảnh này chứ ai!... Anh thử nhìn xem, công nhân họ đang ngầm tự hào về người giám đốc chịu chơi của họ kia kìa.
- Các cụ nào? – Anh quay lại. Cái miệng của Đăng Điền đang đả đớt trước mắt… Anh cau mày! Có lẽ đây là lần đầu tiên từ ngày về đây, anh bắt đầu thấy cái miệng kia sao cứ đả đớt, cứ trơn truộn đến thế - Không, cậu nhầm! Lỗi không chỉ ở riêng các cụ ấy, lỗi ở của tất cả chúng ta, lỗi của lịch sử đã xảy ra quá nhiều chiến trận. Và mình cũng chỉ thay mặt anh em công nhân nói lên tiếng nói chân thực trong đầu chứ có muốn là người hùng người hiếc gì đâu.
Cái miệng kia chỉ hơi thưỡi ra một chút rồi liền đó lại cười ngay, một cái cười khác hẳn, rờn rợn, thấu buốt và lãnh cảm…
Sau lần ấy, công việc bộn bề cứ cuốn anh vào cái mê hồn trận mịt mù của nó đến nỗi Vũ Nguyên không còn kịp nhớ lại điều gì nữa. Riêng chuyện cây đàn đã thành cái cớ để anh có buổi làm việc riêng kĩ càng với người đội trưởng bảo vệ cần cù nhưng quá thụ động và hiền lành.
- Ông Thuần này, chuyện mất mủ tóm lại là được diễn ra theo kiểu nào – Anh hỏi.
- Nhiều lắm ạ! – Người đội trưởng quê sứ Nghệ ậm ừ - Mất do thợ cạo phá, cạo ẩu, cạo không theo một trình tự kĩ thuật nào…
- Tôi không hỏi cái ấy.
- Dạ, mất do dân tự do đêm đêm lẻn vào cạo trộm có, mất do lái xe bồn dọc đường tháo mủ đổ nước thay vào có, và mất do chính công nhân của mình lẻn mang đi bán cũng có.
- Lén mang đi bằng cách nào?
- Họ nhét mủ tạp, loại mủ còn rơi rớt lại trên miệng cạo, đã khô vào cạp quần, vào ống quần rồi cứ thế đi ra khỏi lô. Còn mủ ướt, họ chắt vào can, vào chai, giấu kín trong nùm bụi, chờ tối trời chui vào xách về. Cũng chẳng được bao nhiêu – Anh ta thở dài như bà già – Cắp trộm khốn khổ vậy, mỗi ngày đổ cho con buôn may lắm cũng chỉ đủ tiền mua thêm nửa lon gạo, mớ rau về cho con.
- Nhưng cả ngàn người, người nào cũng lon gạo, mớ rau như thế, của nả nông trường sẽ tổn hao bao nhiêu?
- Dạ… Nhưng cái hao nó nằm ở chỗ dân tự do vào cạo phá kia. Họ ào vào hàng chục người, có đận lên tới hàng trăm giặc càn. Họ băm chặt vào thân cây không thương xót bằng đủ các loại phương tiện miễn sao cho tứa ra được nhiều mủ nhất trong khi chị em mình phải nâng niu, tỉa tót từng dăm mảnh như sợi tóc một. Nói đùa, sáng ra nhìn thân cây bị phạt đi những mảng trắng hếu như thịt người mà… ứa nước mắt. Cây nào bị băm chặt như thế đến lần thứ hai coi như chết hẳn.
- Tôi đã nhìn thấy nhưng chỗ mủ ăn cắp ấy họ phải có chỗ tiêu thụ chứ?
- Có chứ ạ! Ráo chọi tập trung vào một mối, đó là chỗ thằng Tuấn mệnh danh là Tuấn tử thần. Bao nhiêu nó cũng mua hết, mua giá rẻ như ăn cướp rồi dùng xe chở đi bán cho các cơ sở chế biến với giá cắt cổ.
- Ai cũng biết mà cả bốn đời giám đốc, cả ông bảo vệ tồn tại suốt bốn đời vẫn không có cách nào triệt được nó, vẫn chỉ ngồi ứa nước mắt thôi à?
- Chịu ạ! Nó ăn sâu lắm rồi, ăn cả vào nông trường, vào cả chính quyền, công an xã nên biết đấy mà đành chịu đấy. Đã có lần một ông giám đốc của mình định làm căng, định dùng luật pháp trị hắn, chỉ hai ngày sau, cả nhà ông ấy bị cháy rụi mà chịu không tìm được nguyên do, hay người ta sợ vạ cũng chẳng chịu tìm…
Vũ Nguyên chợt nhớ đến cây kèn và mấy lời đe doạ vừa trắng trợn vừa tỏ ra rất mềm mỏng hôm nào. Trầm ngâm một lát, anh ngẩng lên:
- Bần cùng sinh đạo tặc! Tất cả từ do đói mà ra. Nếu như đồng lương nuôi sống được cái bụng thì ai còn nghĩ đến chuyện trộm cắp nữa! Tại sao xưa nay mấy ông không dùng biện pháp thưởng phạt cho nghiêm vào? Bắt được cân mủ nào là phạt tiền thật nặng cân mủ đó, đồng thời cạo thêm được cân mủ nào cũng thưởng bằng tiền cho cân mủ ấy. Nào, giữa phạt và thưởng, họ chọn cái nào?
- Dạ, trước đây cũng có giám đốc đã đặt vấn đề này ra nhưng không ai theo cả, cuối cùng ông ấy lại bị chuyển đi.
- Vậy chuyện khoán đầu lô cho từng công nhân, từng hộ để họ ý thức làm chủ phần cây của mình đã có ai đặt ra chưa?
- Dạ… Cái này thì chưa.
- Vấn đề là ở chỗ ấy. Khi đã là chủ rồi thì họ buộc phải có trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ như bảo vệ gạo nhà mình. Mọi sự tiêu cực tự nhiên sẽ giảm đi. Ngược lại, họ sẽ làm lấy lệ, làm được chăng hay chớ, làm chăm chỉ để làm gì khi đồng lương lại không phụ thuộc vào sự chăm chỉ ấy. Ông thấy thế nào?
Khổ! Người bảo vệ còn thấy thế nào nữa khi cả bốn đời giám đốc đi qua, anh ta vẫn chỉ vật vờ như cái bóng, như một gã thiên lôi vô tích sự, đã có khi nào được một người đứng đầu nông trường đem những chuyện vừa gan ruột vừa trừu tượng ra tâm sự như thế này đâu.