← Quay lại trang sách

Chương 3 Tầng hầm thứ ba mươi sáu

Hãy nuôi dưỡng ở bạn niềm say mê viết, và sức mạnh hủy diệt của thực tại sẽ nằm trong tầm tay bạn.

Ray BRADBURY

1

Vấn đề hiện tại, đó là, vì Fantine đã tiêm nhiễm cái ý nghĩ chết tiệt về thuốc lá vào đầu tôi, nên tôi lại thèm hút một điếu. Trong bếp, tôi tìm thấy một bao dở mà tôi giấu trên nóc một cái giá, chỉ dành để đối mặt với những thời điểm như lúc này.

Tôi châm lửa và rít ba hơi lo lắng rồi trở ra bàn phòng khách để kiểm tra “món quà” - mà tôi đoán là đã tẩm độc - của Fantine. Đó là một cái hộp gỗ hình vuông màu nâu, cao chừng mười xăng ti mét. Trên bề mặt lấp lánh và lấm chấm đốm với những ánh phản chiếu màu đỏ sống động, trông giống da rắn. Tôi đã đoán ra thứ nằm bên trong trước cả khi mở hộp: một chiếc bút máy hàng hiệu. Fantine có cái nhìn lãng mạn về hành vi viết. Cô ta thật lòng nghĩ rằng tôi viết các bản thảo nháp bằng bút máy Caran d’Ache trong những cuốn sổ Moleskine mua trên phố Christopher. Vì thế cô ta thường tặng tôi những chiếc bút đắt đỏ để chúc mừng ngày phát hành một cuốn sách hoặc khi có một bản dịch mới.

Không phải thế đâu, bà cô à, mọi chuyện không diễn ra như thế đâu.

Nếu trước khi khởi động viết một cuốn tiểu thuyết mà tôi có viết hàng trăm trang ghi chép, thì chủ yếu cũng chỉ là dùng bút bi Bic Cristal và trên những tập giấy giá 99 xu mua ở cửa hàng tiện lợi gần nhà. Chỉ có trong phim hoặc trên quảng cáo mới có những tiểu thuyết gia viết văn bằng những chiếc bút Montblanc to bằng cẳng tay.

Tôi mở hộp. Bên trong là một chiếc bút máy kiểu cổ điển kèm theo lọ mực. Một mẫu bút rất đẹp của Dunhill Namiki có lẽ đã ra đời từ những năm 1930, với ngòi bằng vàng và thân màu đen sơn mài trang trí các hoa văn kiểu Nhật bằng xà cừ, vàng lá và vỏ trứng. Ở gần ngòi bút là những đường lượn hình sóng biển, khi lan đến ống mực, chúng nhường chỗ cho những cành hoa anh đào xen vào. Những bông hoa sakura nổi tiếng, biểu tượng cho tính chất mong manh trong sự tồn tại của chúng ta.

Tôi lấy chiếc bút ra khỏi hộp. Nó quả là một món đồ tuyệt đẹp - thậm chí, một tác phẩm nghệ thuật đích thực - nhưng thực sự đã lỗi thời. Tôi tưởng tượng ngay cảnh Zelda Fitzgerald hay Colette* vừa viết bằng một chiếc bút tương tự vừa nhấm nháp sô cô la - hay nhiêu khả năng hơn là uống rượu gin hoặc vodka. Trên thân bút có một cần gạt ánh xà cừ. Tôi kéo lưỡi gà và nhúng ngòi bút vào lọ mực để lẩy đầy mực vào ống. Mực có màu nâu đồng và khá đặc.

Zelda Fitzgerald (1900-1948), nhà văn, họa sĩ nổi tiếng người Mỹ, là vợ của nhà văn F. Scott Fitzgerald.

Colette (1873-1954), nữ tiểu thuyết gia nổi tiếng người Pháp.

Tôi mang chiếc bút ra bàn bếp. Trong một thoáng tôi tự nhủ mình sẽ đi pha trà, nhưng tôi biết chắc rốt cuộc mình sẽ đi lấy một trong số những chai vang Meursault đang ngủ yên ở hầm rượu. Tôi rót một ly rồi vừa nhấm nháp từng ngụm nhỏ vừa đi tìm quyển vở học sinh mà - từ cách đây rất lâu - tôi dùng để ghi chép các công thức nấu ăn. Tôi tìm thấy nó được xếp trong đống dụng cụ làm bếp. Khi lật giở cuốn vở, tôi nhận ra ý định bếp núc của mình thời đó chưa hề vượt quá công thức làm bánh kếp Suzette hay món bánh khoai tây vùng Dauphiné. Tôi vặn mở nắp bút và nguệch ngoạc ký lên một trang giấy trắng để thử bút. Ngòi bút trượt trên giấy. Nét chữ rất mềm mại, trơn tru, mực chảy ra không quá chậm, không quá nhanh.

2

“Tôi căm ghét thứ văn chương an ủi”, tôi đã quen khẳng định như vậy trong các cuộc phỏng vấn. Tôi thường nói thêm rằng: “Tôi chưa bao giờ nghĩ văn chương phải có tác dụng chữa lành hay sửa chữa thế giới. Và tôi viết hoàn toàn không phải để các độc giả của mình cảm thấy khá hơn sau khi đọc sách của tôi.”

Tôi nói như vậy bởi vì đó là điều người ta chờ đợi ở tôi. Hay đúng hơn: đó là điều người ta chờ đợi ở nhân vật Flora Conway mà tôi đã xây dựng cùng Fantine. Đó là điều người ta chờ đợi ở một nhà văn làm ra vẻ nghiêm túc: một người bảo vệ cho thứ văn chương lý tưởng đầy tính thẩm mỹ, tri thức, không có bất kỳ mục đích nào khác ngoài hình thức. Người tự khoác lên mình lời khẳng định của Oscar Wilde: “Những cuốn sách được viết tốt hay viết dở, chỉ vậy thôi.”

Sự thực là tôi chẳng hề nghĩ đến một từ nào trong những lời đó. Thậm chí tôi luôn nghĩ ngược lại: sức mạnh to lớn của văn chương hư cấu nằm ở quyền năng nó cho phép chúng ta chạy trốn thực tại hay băng bó những vết thương ta phải chịu do bạo lực xung quanh gây ra. Tôi ngắm chiếc bút Dunhill Namiki. Suốt một thời gian dài, tôi có niềm tin sắt đá rằng ngòi bút chính là chiếc đũa thần. Tôi thực sự tin vậy. Không phải giả vờ ngây thơ. Bởi nó đúng là thế đối với tôi. Từ ngữ là những mảnh Lego. Khi ghép chúng lại, tôi kiên nhẫn xây dựng một thế giới thay thế. Khi ở bên bàn làm việc, tôi là nữ hoàng của một thế giới vận hành ít nhiều theo ý chí của tôi. Tôi có quyền sinh quyền sát đối với các nhân vật. Tôi có thể tiêu diệt những kẻ ngu ngốc, ban ơn huệ cho những người xứng đáng hơn, đưa ra các phán xét theo quan điểm đạo đức của mình tại thời điểm đó mà không cần biện minh. Tôi đã xuất bản ba cuốn sách, nhưng tôi có cả chục cuốn đang ấp ủ trong đầu. Chúng vẽ nên một thế giới hư cấu mà thời gian tôi sống trong đó cũng gần bằng thời gian tôi sống ở thế giới thực.

Nhưng thế giới đó hôm nay với tôi lại không thể chạm tới. Chiếc đũa thần chỉ còn là món đồ trang trí không có tác dụng gì trước sự mất tích của một bé gái ba tuổi. Thực tại đã phũ phàng giành lại quyền lực của nó, để bắt tôi phải trả giá vì những ý định tự giải thoát.

Tôi rót thêm ly rượu nữa rồi lại ly nữa. Rượu và những viên an thần benzo, món cocktail tuyệt nhất để tan biến đi.

Sự mệt mỏi và cảm giác tuyệt vọng phủ bóng đen lên tôi. Biết đâu một ngày nào đó, thậm chí cậu sẽ tự nhủ việc Carrie mất tích lại là một may mắn. Những lời bậy bạ của Fantine vang vọng trong đầu tôi. Giờ, khi chỉ còn một mình, tôi không cố kìm nén nước mắt nữa. Cuộc nói chuyện đó đã để lại những dấu vết. Làm sao Fantine dám nghĩ tôi có thể trở lại làm việc chỉ sau một cái búng tay? Lúc này cần phải có nguồn năng lượng vượt mức bình thường mới có thể viết được. Một sức mạnh về cả thể chất và tinh thần. Vậy mà con thuyền của tôi tứ phía đều bị rò nước. Để viết một cuốn tiểu thuyết cần phải đi xuống nơi sâu thẳm trong tâm hồn. Tới một nơi tăm tối mà tôi gọi là tầng hầm thứ ba mươi sáu. Ở đó có những ý tưởng táo bạo nhất, những tia lửa điện, linh hồn của các nhân vật, tia chớp của sáng tạo. Nhưng tầng hầm thứ ba mươi sáu là vùng đất thù địch. Để đối mặt với những kẻ canh giữ nó và trở về nguyên vẹn sau một hành trình như vậy, cần có những nguồn sức mạnh mà hiện giờ chúng đã rời bỏ tôi. Tôi chỉ còn được tưới tắm bằng một nỗi đau dai dẳng thiêu đốt các mạch máu trong người không ngừng nghỉ, từ sáng tới tối. Tôi không thể viết, tôi không muốn viết. Tôi chỉ muốn duy nhất một điều: gặp lại con gái tôi. Kể cả đó có thể là lần cuối cùng.

Và đó là điều tôi viết, như một câu mật chú, bằng chiếc bút máy, vào cuốn vở nhỏ ghi công thức nấu ăn:

Tôi muốn gặp lại Carrie.

Tôi muốn gặp lại Carrie.

Tôi muốn gặp lại Carrie.

Một ly Meursault cuối cùng. Buổi tối hôm nay, hơn hẳn những tối khác, tôi thấy mình hoàn toàn kiệt quệ. Ở bên bờ vực của sự điên rồ và ý định tự sát. Dẫu sao tôi cũng cố lảo đảo trở về phòng ngủ, nhưng rốt cuộc tôi ngã nhào, như bị quật ngã, trên sàn gỗ phòng bếp.

Tôi nhắm mắt và màn đêm cuốn tôi vào vòng xoáy của nó. Tôi trôi trên bầu trời ngả xám. Những đám mây đen dần tan quanh tôi. Rồi khi sương mù tan đi, một ô cửa thang máy hiện ra. Bên trong chỉ có duy nhất một nút bấm. Một điểm đến duy nhất: tầng hầm thứ ba mươi sáu.

3

Đột ngột, Carrie hiện ra. Vẫn còn sống.

Đó là một ngày mùa đông nhiều nắng trong khu sân chơi trẻ em ở công viên McCarren Park cạnh trường con bé.

– Mẹ xem này, con xuống đây! con bé cảnh báo tôi từ trên đỉnh chiếc cầu trượt trước khi trượt xuống máng.

Tôi đón con bé trong tay mà lòng quặn thắt. Tôi hít hà mùi thơm trên tóc và hơi ấm trên cổ con bé. Tôi say sưa trong mùi thơm, trong những tràng cười của Carrie khi tôi ôm con bé trong tay.

– Mẹ mua kem cho con nhé?

– Lạnh lắm mẹ ạ! Con thích ăn bánh mì kẹp xúc xích hơn!

– Tùy con vậy.

– Đi nào mẹ! Mình đi thôi! con bé hét vang.

Thật khó hình dung chính xác cảnh tượng này xảy ra vào thời gian nào, nhưng vẫn có thể nhận ra một ít tuyết còn vương trên bãi cỏ trải dài đến trước nhà thờ Chính thống Nga. Có lẽ đó là vào khoảng tháng Một hoặc tháng Hai vừa rồi. Tôi theo sau Carrie đến chỗ chiếc xe bán bánh mì kẹp xúc xích và gọi một chiếc bánh nhỏ, con bé vừa ăn ngấu nghiến vừa đung đưa lắc lư theo nhịp một bài reggae cũ phát ra từ chiếc đài của một nhóm chơi trượt ván đặt trên bậc thềm bê tông. Tôi ngắm con bé nhún nhảy trong chiếc váy ngắn kiểu Scotland, quần tất đen bóng, áo khoác thủy thủ và mũ chullo. Tôi thấy lại được sự vui tươi, năng lượng, niềm vui sống dễ lan truyền của con bé, thứ đã làm thay đổi sự tồn tại của tôi, rồi đến lượt mình tôi lại để cho bản thân cuốn vào vòng xoáy cuộc đời.

4

Tôi mở mắt thức dậy trước bảy giờ một chút. Trong khi giấc ngủ của tôi hẳn là rất nặng nề và mơ hồ, thì đêm trôi qua như một hơi thở. Một đêm nhẹ nhàng với Carrie hiện ra trong giấc mơ cùng rất nhiều chi tiết, mùi hương và cảm giác.

Thức dậy thật khó khăn. Mặt và nửa người phía trên tôi ướt đẫm mồ hôi, tay chân cứng đơ. Tôi khó nhọc lê bước đến phòng tắm và đứng hồi lâu dưới vòi sen nóng bỏng. Máu dồn lên thái dương. Tôi thở gấp và một đợt trào ngược axit thiêu đốt dạ dày tôi.

Những hình ảnh Carrie rõ ràng đến không ngờ ùa vào trí óc và khiến mắt tôi mờ đi. Chuyện gì đã xảy ra vào đêm qua? Tôi chưa bao giờ có giấc mơ nào giống như vậy. Chỉ có thể là bởi những gì tôi vừa trải qua không phải một giấc mơ. Đó là một thứ khác. Một sự hiện diện trong tâm trí được dệt nên từ những sợi chỉ có thể tái hiện một kỷ niệm đến mức hoàn hảo. Một thực tế còn thực hơn cả hiện thực. Ảo giác đó kéo dài bao lâu? Vài phút hay vài giờ? Phải chăng đó là do chiếc bút Fantine tặng tôi? Thật ra cũng không quan trọng. Điều cốt yếu là trong một thoáng, tôi đã tìm lại được con gái mình. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi và không có thật, nhưng nó mang đến cho tôi nhiều hạnh phúc hơn là đau khổ.

Tôi ra khỏi phòng tắm mà răng đánh lập cập. Khắp mình mẩy tôi đau nhức. Hai bên sườn, lưng, đầu. Tôi quay về phòng và nằm trong chăn suốt buổi sáng, hồi tưởng lại đoạn phim ngày hôm qua. Rồi vẫn nằm trên giường, tôi mở máy tính xách tay để tìm kiếm thông tin về chiếc bút.

Được sản xuất tại Nhật Bản, những chiếc bút Namiki được phân phối đến Pháp và Anh trong những năm 1920 bởi Alfred Dunhill. Ông chủ hãng người Anh bị vẻ đẹp những tác phẩm của xưởng sản xuất Nhật Bản lôi cuốn, ý tưởng thiên tài của họ là khoác len những chiếc bút truyền thống bằng ebonit một lớp sơn mài chiết xuất trên các cây thấp được đốn ngay sau khi thu hoạch để thay thế bằng những cây non mới. Quy trình chế tác thủ công này, kết hợp với sự phức tạp của các lớp trang trí bằng xà cừ và vàng lá, khiến mỗi chiếc bút trở thành “độc nhất và kỳ diệu”, theo các tờ rơi quảng cáo thời đó.

Tôi rời khỏi giường vào giữa buổi chiều, khi Mark Rutelli đến thăm tôi theo lịch hằng tuần. Cứ đến thứ Hai, chúng tôi có thói quen trò chuyện cùng nhau trong căn bếp nhà tôi và cùng ăn những chiếc bánh blintz khoai tây pho mát mà ông mua ở Hatzlacha, cửa hàng tạp hóa bán thực phẩm koshed* của khu Do Thái tại Williamsburg. Viên cựu cảnh sát đã thực hiện những điều tra tỉ mỉ, nhất là về Hassan, người đàn ông đã ở bên tôi một khoảng thời gian vào cái đêm trước ngày Carrie mất tích, và về Amelita Diaz, cô bảo mẫu người Philippines mà công ty cung cấp dịch vụ trông trẻ cử đến trông con bé. Mặc dù cho đến lúc này các báo cáo từ cuộc điều tra lại của ông đều gây thất vọng, nhưng ít nhất Rutelli cũng có công là đã không từ bỏ, và trái ngược với những điều tra viên khác mà tôi có thể gặp, ông chưa bao giờ tin tôi có một phần trách nhiệm nào trong vụ mất tích của Carrie.

Thực phẩm kosher là những đồ ăn thức uống phù hợp với các quy định về luật ăn uống của người Do Thái gọi là kashrut.

Chiếu hôm đó, tôi thấy ngay trên gương mặt ông có điều gì đó mới mẻ. Rutelli ăn mặc lôi thôi, đầu tóc bù xù như thể ông đã ngủ trong ô tô, nhưng đôi mắt thâm quầng rực sáng hơn bình thường.

– Ông đã tìm được gì à, Mark?

– Đừng vội mừng, Flora, ông khuyên nhủ tôi trong lúc ngổi xuống một chiếc ghế đẩu.

Ông ung dung bỏ áo bu dông và tháo bao súng đặt sang bên cạnh trên bàn. Bất chấp những nỗ lực tỏ ra thản nhiên, ông vẫn không giống như mọi lần. Mặc dù hôm nay ông không mang theo những chiếc bánh blintz, nhưng tôi vẫn rót cho ông phần rượu vang còn từ hôm qua rồi mới ngồi xuống bên cạnh ông.

– Tôi sẽ thành thật với cô, ông vừa thông báo vừa mở chiếc cặp bằng da đã mòn. Tôi đã báo cho Perlman, giám sát viên của FBI, về những gì tôi sắp kể với cô.

Một cơn đau nhói xé nát tim tôi, như thể người ta vừa đóng cọc vào nó.

– Ông đã tìm được gì, Rutelli? Nói đi nào, ôi Chúa ơi!

Ông lôi từ trong cặp ra một chiếc máy tính xách tay cũ và một tập hồ sơ bọc bìa cứng.

– Cho tôi thời gian để giải thích.

Tôi căng thẳng đến mức phải chộp lấy ly Meursault và uống cạn một nửa. Viên cựu cảnh sát cau mày nhìn tôi rồi lấy ra một xấp ảnh từ trong chiếc túi nhỏ.

– Tôi chưa từng kể chuyện này cho cô, nhưng từ vài tuần nay, tôi đã theo dõi khá sát sao biên tâp viên của cô, ông giải thích và trải ra trước mắt tôi những bức ảnh chụp bằng ống kính tele.

– Fantine ư? Tại sao cơ?

– Sao lại không? Cô ta cũng thuộc nhóm những người chân cận với cô và cô ta cũng quen trông nom Carrie…

Tôi nhìn những bức ảnh. Fantine trên những con phố ở Greenwich Village, Fantine ra khỏi căn hộ của mình ở Soho, Fantine ở siêu thị ở Union Square, Fantine ngắm những chiếc xắc tay trước cửa hiệu Celine trên phố Prince. Fantine luôn ăn mặc chải chuốt.

– Cuộc theo dõi này cho ông biết điều gì?

– Không nhiều lắm, Rutelli thú thật. Ít nhất là cho đến trưa hôm qua.

Ông chỉ cho tôi hai bức ảnh sau cùng. Trên đó là Fantine, kính râm trễ xuống mũi, mặc quần jean và áo vest, ở sau cửa kính một nơi có vẻ là cửa hàng đồ cổ hoặc tiệm chuyên bán sách cổ.

– Đó là The Writer Shop, một cửa hàng ở East Village.

– Tôi chưa bao giờ nghe đến.

– Fantine đã mua một chiếc bút ở đó.

Tôi giải thích với viên cảnh sát có lẽ đó là chiếc Dunhill Namiki mà cô ta tặng tôi hôm qua để thúc giục tôi viết trở lại. Có vẻ rất quan tâm, ông yêu cầu được xem chiếc bút. Tôi cho ông xem nhưng không nói về giấc mơ đêm qua. Tôi không muốn bị coi là đồ điên trước người duy nhất ủng hộ mình.

– Hẳn cô biết điều gì đó về chiếc bút này, viên cảnh sát tiếp tục. Người ta cho rằng nó từng thuộc về Virginia Woolf.

– Vậy thì có liên quan gì đến con gái tôi?

– Tôi đã tới đó. The Writer Shop là cửa hàng chuyên bán di vật và đồ dạc cá nhân của các nhà văn nổi tiếng, Rutelli giải thích và kết nối máy tính đến trang web của cửa hàng. Chỉ cần chi những khoản tiền điên rồ, cô có thể sở hữu một trong những chiếc tẩu của Simenon hay khẩu súng mà Hemingway dùng để bắn tung đầu mình.

Tôi nhún vai.

– Thời nay chuyện này cũng điển hình. Ngày càng ít có độc giả thực sự. Người ta không còn quan tâm đến tác phẩm mà chỉ quan tâm đến nghệ sĩ. Cuộc đời, mặt mũi, quá khứ, phiêu lưu tình ái, những thứ ngu ngốc mà người đó đăng trên mạng xã hội. Tất cả mọi thứ trừ việc đọc tác phẩm.

– Cửa hàng này khiến tôi tò mò, viên cảnh sát nói tiếp. Vậy là tôi đã tác nghiệp một chút. Tôi vào cửa hàng và đóng giả làm một nhà sưu tầm, sau đó tôi liên lạc tiếp với họ nhiều lần bằng thư điện tử.

Ông mở phần mềm gửi thư điện tử ra và xoay màn hình về phía tôi.

– Đây là những gì ông chủ cửa hàng trả lời cho tôi.

5

Từ: The Writer Shop - East Village

Đến: Mark Rutelli

Tiêu đề: Một phần catalog của chúng tôi

Thưa ngài,

Thể theo yêu cầu của ngài, đi kèm thư này là danh sách những vật phẩm đang bán và không có trên trang web của chúng tôi. Tin tưởng sự kín đáo của ngài, tôi rất sẵn lòng khi ngài cần những chỉ dẫn kỹ lưỡng hơn.

Trân trọng,

Shatan Bogat, giám đốc

Donatien Alphonse François de Sade (1740-1814)

Hai bức tranh phong cảnh Ý của họa sĩ Jean-Baptiste Tierce thuộc sở hữu của Hầu tước De Sade, thể hiện bối cảnh đổ nát của một số cảnh truy hoan mô tả trong tác phẩm Chuyện về Juliette, hay sự lên ngôi của trụy lạc*.

Tên gốc tiếng Pháp là Histoire de duliette, ou les Prospérités du Vice.

Honoré de Balzac (1799-1850)

Bình cà phê bằng sứ Limoges có ghi tên viết tắt H.B. thuộc sở hữu của tác giả Tấn trò đời. Bình cà phê này là bạn đồng hành thân thiết nhất của Balzac - nhà văn có thể uống tới 50 tách cà phê mỗi ngày và có khi viết đến hơn 18 tiếng một ngày. Nhưng việc lạm dụng cafein ấy là lý lẽ được nhiều người đưa ra để giải thích cho cái chết đến sớm của nhà văn khi ông mới 51 tuổi.

Knut Hamsun (1859-1952)

Bức ảnh chụp chủ nhân giải Nobel Văn học người Thụy Điển năm 1920 cùng thủ tướng Adolf Hitler*.

Adolf Hilter giữ chức Thủ tướng Đức Quốc xã trước khi làm Quốc trưởng Đức Quốc xã.

Marcel Proust (1871-1922)

Bên phía nhà Swann. Paris, nhà xuất bản Bernard Grasset, 1914.

Bản in đặc biệt (1/5)* trên giấy Nhật từng thuộc về bà Céleste Albaret*.

Trong đợt in đầu tiên, Bên phía nhà Swann có 17 bản đặc biệt, trong đó 5 bản in trên giấy Nhật, 12 bản in trên giấy Hà Lan.

Bà là người giúp việc tận tụy của Marcel Proust.

Sách được đóng gáy bằng vải xa tanh màu lam lấy từ ga phủ giường trong căn phòng nơi Marcel Proust đã trải qua phần lớn thời gian lúc cuối đời.

Virginia Woolf (1882-1941)

Bút sơn mài màu đen hiệu Dunhill Namiki trang trí hoa văn Nhật. Được bạn gái-người tình Vita Sackville-West tặng cho nữ tác giả của Bà Dalloway vào năm 1929 kèm lời nhắn viết tay: “Xin chị, trong cuộc đời đảo điên này, hãy luôn là ngôi sao vững chãi và rực rỡ” cùng một lọ đựng “mực thần”. Virginia dùng chiếc bút này khi viết tiểu thuyết Orlando.

James Joyce (1882-1941)

Bản nháp một trong Những lá thư tuc tĩu*, bị kiểm duyệt suốt một thời gian dài, gửi đến vợ của ông, Nora, năm 1909.

Tên gốc tiếng Anh là: Dirty Letters.

Albert Cohen (1895-1981)

Áo choàng ngủ bằng lụa đỏ chấm bi đen được mặc trong thời gian ông viết Ôi các anh em con người.*

Tên gốc tiếng Pháp là Ô vous, fères humains.

Vladimir Nabokov (1899-1977)

Ba liều morphine tiêm (20 mg/ml) từng thuộc về ngài Nabokov.

Jean-Paul Sartre (1905-1980)

Bột mescalíne* và ống tiêm. Được nhà triết học Pháp dùng để kích thích trí tưởng tượng khi ông viết vở kịch Những kẻ bị giam cầm ở Altona*.

Một loại thuốc gây ảo giác.

Tên gốc tiếng Pháp là Les Séquestrés d’Altona.

Simone de Beauvoir (1908-1986)

Khăn đội đầu màu lam dệt lẫn màu bằng len lông lạc đà alpaca từng thuộc về Simone de Beauvoir.

William S. Burroughs (1914-1997)

* Súng lục cở.38.

Khẩu súng mà ngày 6 tháng Chín năm 1951 ngài Burroughs đã dùng để bắn chết vợ mình, Joan Vollmer Adams. Trong một đêm tiệc say bí tỉ tại Mêhicô, vì muốn thể hiện tài nghệ bắn súng và tái hiện chiến công của người anh hùng Guillaume Tell, nhà văn người Mỹ đã bảo vợ ông đặt một ly rượu sâm banh lên đầu rồi bắn về hướng đó nhưng trượt mục tiêu.

* Điếu cannabis tìm thấy trong túi áo vest của ngài Burroughs khi ngài qua đời vì nhồi máu cơ tim ngày 2 tháng Tám năm 1997.

Roald Dahl (1916-1990)

Thanh sô cô la hiệu Cadbury từng thuộc về ngài Dahl và gợi cảm hứng để ông viết Charlie và nhà máy sô cô la.

Truman Capote (1924-1984)

Bình dựng di cốt chứa tro cốt của tác giả Bữa sáng ở Tiffany’s.

George R. R. Martin (1948-)

Chiếc máy tính Osborne có cài đặt phần mềm soạn thảo văn bản Wordstar, công cụ để ông viết tập đều tiên của Trò chơi vương quyền.

Nathan Fawles (1964-)

Chiếc máy đánh chữ màu xanh quả hạnh bằng nhựa bakelite hiệu Olivetti được dùng để soạn thảo Một thành phố nhỏ ở Mỹ, tiểu thuyết đã giúp Fawles giành giải Pulitzer năm 1995 (bán kèm hai trục lăn mực).

Romain Ozorski (1965-)

Đồng hồ đeo tay Patek Philippe, lịch vạn niên, phiên bản Ref# 3940G do người vợ tặng cho nhà văn Pháp để chúc mừng buổi ra mắt cuốn tiểu thuyết Người đàn ông mất tích* vào mùa xuân năm 2005. Dòng chữ khắc ở mặt lưng đồng hồ: You are at once both the quiet and the confusion of my heart*.

Tên gốc tiếng Pháp: L’homme qui disparaît.

Tiếng Anh, nghĩa là: Anh vừa là sự tĩnh lặng vừa là sự hỗn loạn của tim em.

Tom Boyd (1970-)

Máy tính xách tay PowerBook 540c do người bạn gái Carole Alvarez tặng nhà văn người California, trên chiếc máy này tác giả đã viết hai cuốn đầu trong bộ ba tập sách Bộ ba Thiên thần.

Flora Conway (1971-)

Chiếc dép màu hồng bằng nhung có một túm bông trang trí. Dép bên chân phải. Thuộc về con gái Carrie của nữ nhà văn, mất tích một cách bí ẩn ngày 12 tháng Tư năm 2010.

6

– Ai là chủ sở hữu cửa hàng này? tôi vừa hỏi vừa ngước mắt khỏi màn hình.

– Một gã tên là Shatan Bogat. Một tên bịp bợm, nhiều lần bị kết án vì buôn bán đồ giả.

– Tôi không ngạc nhiên. Tôi cá với ông phần lớn những món này đều là đồ giả. Và nhất là chiếc dép được gán cho con gái tôi. Toàn bộ chuyện này thật ngớ ngẩn, Rutelli ạ.

– FBI cũng cho là vậy. Nhưng họ sẽ tới thẩm vấn Shatan Bogat để kiểm chứng.

Chỉ trong vòng vài phút, sự phấn khích đã bị thay thế bằng cảm giác chán nản. Thực sự là một quả pháo xịt. Tôi không giấu được vẻ thất vọng và Rutelli cảm nhận được điều đó.

– Tôi sẽ để cô lại một mình, Flora. Xin lỗi vì đã làm cô hy vọng.

Tôi nói không có gì nghiêm trọng và cảm ơn vì ông đã cố gắng. Trước khi đi, ông nài nỉ tôi giao cho ông “chiếc bút của Virginia Woolf ” mà ông muốn “cho người phân tích”.

Còn lại một mình, tôi lại thấy muốn được biến mất. Được tan biến. Được chìm sâu đến mức sẽ không bao giờ có ai đến kéo tôi lên được nữa. Và để thực hiện điều đó, tôi tiến hành nghi thức shutdown giống ngày hôm qua: một chai vang pha với thuốc chống lo âu. Tôi lại lôi quyển vở học sinh ra và thấy hối hận vì đã đưa chiếc bút cho Rutelli, kể cả khi tôi biết rất rõ những gì đang hình thành trong đầu mình chỉ là mối nhử, một vố chơi khăm của tâm trí tôi. Nhưng tôi vẫn còn lọ mực. Mực thần. Tôi mở lọ rồi nhúng ngón trỏ vào thứ chất lỏng ánh màu gỗ gụ. Tôi dùng ngón tay quết nhiều lẩn lên trang giấy đôi một thông điệp với nét chữ nguệch ngoạc.

TÔI MUỐN GẶP LẠI CARRIE MỘT TIẾNG TRƯỚC KHI CON BÉ MẤT TÍCH

Một ý nghĩ thần kỳ xâm chiếm tâm trí tôi: ý nghĩ kỳ cục rằng nghi thức này có thể đưa tôi đến ô cửa nhìn về quá khứ và chiếu lại trước mắt tôi ngày diễn ra vụ mất tích của con gái. Dưới tác dụng của món cocktail thuốc ngủ, tôi dạo quanh căn hộ trước khi thả mình xuống giường. Đêm đã xuống sau những ô kính cửa sổ. Căn phòng và tâm trí tôi cùng vùi dần vào bóng tối. Tôi cảm thấy những ý nghĩ đang quyện vào nhau. Tôi nghĩ vẩn vơ. Thực tại dần méo mó nhường chỗ cho những hình ảnh quái lạ. Một nhân viên phục vụ thang máy như người ta thường thấy ngày xưa ở những khách sạn lớn đột nhiên hiện ra trong giấc mơ. Khoác trên người chiếc áo vest đỏ son thêu các dải trang trí và cúc áo mạ vàng, ông ta có cái đầu đáng sợ, dài đến mức thái quá, hai cái tai dị dạng và những chiếc răng to cộ khiến ông ta trông giống một con thỏ.

– Cô biết đấy, cho dù có làm gì cô cũng sẽ không thay đổi được kết cục câu chuyện, ông ta cảnh báo tôi trong lúc mở cánh cửa lưới sắt của thang máy.

– Tôi là nhà văn, tôi vừa trả lời vừa bước vào buồng thang. Chính tôi là người quyết định kết cục của câu chuyện.

– Trong những cuốn tiểu thuyết của cô thì có thể, còn trong đời thực thì không. Các nhà văn luôn tìm cách điều khiến thế giới, nhưng đôi khi thế giới sẽ không cam chịu.

– Chúng ta vẫn đi xuống chứ, thưa ông?

– Tầng hầm thứ ba mươi sáu, phải không? ông ta hỏi và đóng cửa thang máy lại.