Chương 4 Khẩu súng của Tchekhov
Elfriede JELINEK
1Đó là một buổi chiều trời đẹp, trong và nhiều nắng, như New York vẫn thường như vậy vào mùa xuân. Tiền sảnh trường Montessori School ở công viên McCarren Park ngập tràn ánh nắng. Vài vị phụ huynh đang kiên nhẫn chờ trong hành lang đều đeo kính râm. Bỗng một cánh cửa mở ra và chừng hai chục đứa trẻ từ ba đến sáu tuổi chạy ùa ra khỏi lớp và cười đùa huyên náo. Tôi bắt trúng Carrie đang lao ra rồi chúng tôi đi xuống phố. Con bé rất vui vẻ, nhưng không chịu ngồi vào xe đẩy và khăng khăng đòi đi bộ cạnh tôi. Carrie cứ đi được ba bước lại dừng lại, nên chúng tôi mất gần nửa giờ mới đến được tiệm Marcello’s ở góc đường Broadway. Carne tỉ mẩn chọn món quả nghiền và bánh cannoli, con bé ngấu nghiến hốt cả hai món đó trước cả khi chúng tôi về đến tòa Lancaster.
– Ta có cái này cho cháu, cô bé xinh đẹp, Trevor Fuller Jones, người gác cổng mới của chúng tôi nói với con bé, khi chúng tôi bước vào hành lang.
Ông ta chìa cho Carrie một chiếc kẹo mút mật ong có vừng và bảo con bé hứa không được ăn nó ngay. Sau đó ông ta bảo con bé may mắn biết bao khi có mẹ là một nhà văn, người sẽ kể cho con bé những câu chuyện tuyệt hay khi lên giường đi ngủ buổi tối.
– Nói như vậy, hẳn là ông chưa từng giở xem bất kỳ cuốn tiểu thuyết nào của tôi.
– Quả đúng là vậy, Trevor thú nhận, với công việc của mình, tôi không có thời gian đọc sách.
– Ông không dành thời gian để đọc thôi, hai chuyện này không giống nhau đâu, tôi trả lời ông ta trong lúc cửa thang máy đóng lại.
Theo nghi thức đã thành nếp của hai mẹ con, tôi nhấc Carrie lên để con bé có thể ấn nút lầu sáu, tầng lầu cao nhất. Buồng thang chuyển động kèm theo tiếng kèn kẹt kim loại đã từ lâu không còn khiên cả tôi hay con bé sợ hãi nữa.
Vừa về đến nhà, theo đúng thói quen, Carrie cởi ngay đôi giày thể thao để xỏ chân vào đôi dép đi trong nhà màu hồng nhạt có những túm bông trang trí. Con bé đi theo tôi đến tận chỗ mấy hát, vừa xem tôi đặt một chiếc đĩa than lên mâm máy - chương hai bản concerto cung sol trưởng của Ravel - vừa vỗ tay chờ đón tiếng nhạc sắp vang lên. Sau đó con bé còn lẵng nhẵng theo tôi vài phút, đợi tôi phơi xong quần áo rồi rủ tôi chơi trốn tìm.
[Tôi thấy bồn chồn. Tôi cảm thấy khe nứt thời gian này còn mong manh hơn cả bong bóng xà phòng. Và tôi sợ rằng ô cửa nhìn về quá khứ sẽ đột ngột khép lại trước khi tôi kịp hiểu thêm điều gì.]
– Đồng ý, con yêu.
– Mẹ về phòng và đếm đến hai mươi đi!
Carrie theo tôi về tận phòng để kiểm tra xem tôi đã thực sự úp mặt vào tường và nhắm mắt chưa.
– Mẹ không được ăn gian nhé! con bé hét lên trước khi chạy đi trốn.
Hai tay bịt mắt, tôi bắt đầu đếm to.
– Một, hai, ba…
Tôi nghe thấy tiếng bước chân rất êm của Carrie trên sàn gỗ. Con bé vừa rời khỏi phòng. Trái tim tôi thắt lại.
– … bốn, năm, sáu…
Giữa những nốt nhạc như pha lê của bản adagio, tôi nghe thấy tiếng con bé đi qua phòng khách, đẩy chiếc ghế bành Eames chễm chệ trước bức vách kính lớn. Uể oải, mênh mang, bản nhạc như thôi miên rất dễ đưa bạn vào trạng thái mơ hồ.
– … bảy, tám, chín…
Tôi mở mắt.
Tôi ngó vào phòng khách đúng lúc Carrie ngoặt sang hành lang. Tôi không được để con bé rời khỏi tầm mắt. Để không làm con bé nghi ngờ, tôi tiếp tục đếm.
– … mười, mười một, mười hai, mười ba…
Đến lượt mình, tôi đi qua phòng khách. Mặt trời sau những tòa nhà chọc trời tỏa ra thứ ánh sáng phi thực. Một tấm màn ánh sáng tràn ngập khắp căn hộ. Tôi đánh liều liếc vào hành lang mà không để mình bị phát hiện.
– … mười bốn, mười lăm, mười sáu…
Với đôi tay nhỏ xíu, Carrie đã mở chiếc tủ cất dụng cụ vệ sinh. Tôi thấy con bé luồn người vào bên trong. Nhưng chuyện này là không thể! Tôi đã xem xét cái tủ đáng nguyền rủa đó hai chục lần.
– … mười bảy, mười tám, mười chín…
Tôi tiến vào hành lang. Ánh sáng ngập tràn không gian. Tôi nheo mắt. Tim đập rộn. Sự thật đang ở đây, ngay trong tầm tay. Ngay gần bên.
– Hai mươi.
Khi tôi mở cửa tủ, một bức màn bụi vàng cuộn xoáy trước mắt tôi. Một đám mây màu hổ phách, dày đặc, mù mịt, trên đó hiện ra hình bóng một tên người-thỏ khoác bộ đồ của nhân viên khách sạn. Khi hắn mở cái miệng gớm ghiếc ra, ấy là để cảnh báo tôi:
– Dù có làm gì, cô cũng sẽ KHÔNG BAO GIỜ thay đổi được kết cục câu chuyện!
Trước khi bỏ đi trong tiếng cười phá lên hung ác.
2Tôi giật mình tỉnh giấc, hãi hùng, người nằm vắt ngang giường. Căn phòng nóng hầm hập. Tôi dậy để tắt quạt gió của máy sưởi, sau đó đi nằm lại luôn. Họng tôi khô khốc, mí mắt phổng lên và hai thái dương đau như bị kẹp bằng ê tô. Còn thực hơn cả thực, cơn ác mộng khiến tôi hoảng hốt và thở dốc, cứ như thể tôi vừa chạy một mạch suốt đêm. Tôi nằm bẹp suốt mười lăm phút, nhưng cơn đau đầu không những không thuyền giảm mà càng lúc càng tăng dần đến mức không thể chịu nổi. Tôi gắng gượng ngồi dậy để vào nhà tắm và chộp lấy hai viên giảm đau Diclofénac rồi uống cùng vài cốc nước. Cổ họng tôi tê liệt và một thứ gì đó giống như chứng viêm khớp lan khắp các ngón tay khi tôi chà hai lòng bàn tay vào nhau. Mọi chuyện không thể cứ tiếp tục như thế.
Tiếng kêu liên hồi của chuông cửa có hình khoan xoáy vào màng nhĩ tôi. Khi bấm nút nghe, tôi thấy hiện ra trên màn hình khuôn mặt của Trevor, người gác cổng ở Lancaster.
– Đám phóng viên đang quay lại, thưa cô Conway.
Vậy là những chuyện bực mình không bao giờ chấm dứt.
– Phóng viên nào cơ?
– Cô sẽ biết ngay thôi.
Tôi day day hai thái dương để làm dịu bớt cơn đau bập bùng khắp trong sọ.
– Họ muốn một phản ứng từ phía cô. Tôi nên trả lời họ thế nào?
– Là hãy cút đi.
Tôi ngắt liên lạc rồi quay ra tìm chiếc kính trong phòng khách trước khi nhìn xuống qua cửa sổ.
Trevor nói đúng. Một đám đông chừng hai mươi người đang đứng chầu chực trước Lancaster từ vỉa hè đối diện. Lũ động vật ăn xác thối, lũ chuột, lũ kền kền: luôn luôn là thứ quái vật kinh tởm đó trở đi trở lại đều đặn để đánh chén no nê từ vụ mất tích đứa con gái bé nhỏ của tôi. Tôi tự hỏi sao người ta lại ra nông nỗi này trong cuộc hành trình riêng. Làm sao người ta rốt cuộc cứ làm cái công việc này ngày này qua ngày khác, họ sẽ khiến bản thân tin tưởng vào điều gì để tự cho rằng mình có lương tâm hoặc những gã này sẽ kể chuyện gì cho con cái nghe vào mỗi tối để giải thích về một ngày của mình.
Vì sao họ trở lại ồ ạt như vậy vào đúng hôm nay?
Tôi tìm điện thoại để xem có tin nhắn không, nhưng nó đã hết pin. Trong lúc cắm sạc, tôi phát hiện Rutelli để quên trên quầy bếp khẩu súng vẫn nguyên trong bao. Tôi ngoảnh mặt khỏi khẩu Glock - những món vũ khí luôn làm tôi khiếp sợ - và bật ti vi để xem qua các kênh tin tức.
Và tối không phải tìm kiếm lâu:
Những tin tức mới trong vụ cô bé Carrie Conway mất tích. Người đàn ông tuổi chừng năm mươi bị thẩm vấn đêm qua vừa được trả tự do và không bị cáo buộc bất cứ tội danh nào. Shatan Bogat, chủ một cửa hàng đồ cổ ở khu East Vìllage, đã rao bán trong cửa hàng của mình một chiếc dép mạo xưng là được Carrie Conway đi vào ngày cô bé mất tích. Món đồ được phát hiện là giả và ông Bogat biện hộ rằng đó là một trò đùa vô duyên. Vậy là cuộc điều tra vẫn giậm chân tại chỗ…
Tôi tắt ti vi. Tôi ngồi yên chừng hai phút. Dẫu sao tôi cũng chưa từng tin vào manh mối tầm phào này. Khi bật lai điện thoại, tôi thấy máy tràn ngập tin nhắn của Rutelli bảo tôi gọi lại cho ông ấy.
– Chào ông, Mark.
– Cô Flora à? Họ đã thả Shatan Bogat!
– Tôi biết, tôi trả lời trong tiếng thở dài. Tôi vừa nghe tin tức. Ông có biết là ông để quên súng ở nhà tôi không?
Rutelli không để ý lời nhắc của tôi:
– Họ đã nhầm to, cô Flora ạ! Chiếc bút đó!
– Chiếc bút đó làm sao?
– Tôi đã cho phân tích chiếc bút cô đưa ở một phòng thí nghiệm tư nhân.
– Ông đã làm rồi à! Vậy kết quả thế nào?
– Chiếc bút không phải là thứ có vấn đề…
Tôi biết điều ông ấy định nói tiếp: mà là mực.
– Mà là mực, ông khẳng định. Thành phần của thứ mực đó.
– Thứ gì có vấn đề vậy?
Lúc này, tôi chờ đợi mọi khả năng.
– Họ tìm thấy trong đó có nước, chất tạo màu, ethylene glycol, và cả… máu.
– Máu người ư?
– Phòng thí nghiệm khẳng định dứt khoát, Flora ạ: đó là máu của con gái cô.
3Một cơn chóng mặt.
Một khớp nối với những bánh răng không ngừng nghiến lên tôi.
Tôi gác máy. Toàn thân co quắp. Tôi thấy khó thở. Tôi muốn mở cửa sổ, nhưng chúng đã được bịt kín. Toàn bộ những chuyện này phải dừng lại. Sự gặm nhấm tinh thần, lang thang vô định, những pha kịch tính khó lường. Những cú lượn siêu tốc của cảm xúc.
Tôi vụng về lôi khẩu súng lục của Rutelli ra khỏi bao và kiểm tra xem nó đã được nạp đạn chưa. Rất nhiều tiểu thuyết gia biết điều này: có một thủ pháp xây dựng tình tiết trong văn học hư cấu được biết đến với tên gọi khẩu súng của Tchekhov. “Nếu ở màn thứ nhất các bạn nói có một khẩu súng treo trên tường, nhà soạn kịch người Nga nói, vậy chắc chắn phải có một phát đạn được bắn vào màn hai hoặc màn ba.” Và đó chính xác là điều tôi đang cảm nhận thấy lúc này: cảm giác rằng một ai đó đã để khẩu súng này ở đây để nó sẽ lọt vào tay tôi.
Khẩu Glock trong tay, tôi trèo lên nóc tòa nhà, chào đón tôi là một luồng gió mạnh và tiếng lao xao của thành phố vang lên đến tận trời. Tôi tiến vài bước trên rooftop. Lớp phủ bằng vật liệu tổng hợp của sân cầu lông cũ đang bong tróc. Những thùng đất nơi tôi và Carrie trồng rau đã ngập đầy cỏ dại.
Nhưng không khí thoáng mát đã giải tỏa bớt đầu óc và giúp tôi có thể suy nghĩ sáng suốt hơn. Lúc này tôi cần gạt cảm xúc và sự yếu đuối sang một bên và hoàn toàn chỉ dùng đến lý trí. Ngay từ đầu, đã có gì đó chệch choạc. Nếu căn hộ được khóa từ bên trong, thì thật vô cùng phi lý khi họ không tìm thấy Carrie. Chuyện đó thực sự là không thể.
Tôi nghĩ đến lời khẳng định của Conan Doyle: khi bạn đã loại bỏ tình huống không thể xảy ra, thì thứ còn lại, dù có khó tin đến mức nào, cũng chắc chắn là sự thật. Nhưng vậy lời giải thích ở đây là thế nào? Có thể tôi đang mắc một chứng bệnh tâm thần, có thể tôi đang bơi trong ảo giác do thuốc hoặc một cơn hôn mê sau một trải nghiệm cận tử. Có thể tôi đã bị mất trí nhớ hoặc đang chớm mắc alzheimer. Tôi sẵn sàng không loại bỏ bất kỳ một giả định nào, nhưng tôi cảm thấy rất rõ là mọi chuyện không phải như vậy.
Trời tối sầm, các đám mây dồn lại. Một đợt gió lớn thổi liên tiếp làm hàng rào phên tre bao quanh sân thượng rung lên bần bật.
Có thứ gì đó tôi chưa nhìn ra. Không, không phải một chi tiết. Một thứ gì đó mang tính mấu chốt hơn. Như thể, ngay từ đầu, một bức màn khói đã ngăn cản tôi nhìn trực diện vào sự thật. Ngay từ đầu, không phải là hoang tưởng, tôi đã thường xuyên có cảm giác khó chịu rằng ai đó đang quan sát mình, thậm chí là định đoạt các hành vi của tôi thay cho tôi. Cảm giác này rất khó diễn tả cho hợp lý, nhưng lần đầu tiên tôi cảm thấy mình vừa mở ra một khe hở trên bề mặt mọi chuyện.
Tôi cố xác định cảm giác của mình. Từ đâu mà có cảm giác câu chuyện này đã được viết sẵn? Tôi đã không nắm bắt được điều gì ở thực tại quanh mình? Và nhất là ai là người giật dây và thao túng tôi như một con rối? Vậy đấy, tôi đã bị thao túng.
Nhưng bởi ai?
Một cảm giác khác vẫn đè nặng trong tâm trí tôi và không ngừng lớn dần qua từng ngày: cảm giác tôi là một tù nhân. Đã bao nhiêu tháng tôi không ra khỏi nhà? Lý do tôi đưa ra là tôi muốn trốn khỏi cuộc bao vây của đám phóng viên và có mặt ở nhà nếu nhỡ Carrie xuất hiện trở lại, nhưng cái cớ này không phải là thật lòng. Điều gì thực sự ngăn cản tôi ra ngoài?
Một hình ảnh in đậm trong tâm trí tôi: ngụ ngôn về cái hang của Plato. Thân phận con người khiến chúng ta sống trong sự thiếu hiểu biết, là tù nhân của những ý nghĩ sai lầm, bị nhốt trong một cái hang, mù dở trước thủ đoạn của những kẻ xảo quyệt, chúng phóng chiếu ra những cái bóng ảo mà ta lại cho đó là sự thật.
Giống những con người mà Plato mô tả, bị cầm tù sâu trong cái hang của họ, tôi bị xích vào căn hộ của mình. Và, cũng giống họ, tôi không nhìn thấy thế giới với bản chất thật của nó. Tôi chỉ nhìn thấy những cái bóng di chuyển nổi bật lên nhờ mặt trời dối lừa. Những mẩu nhỏ, những tiếng vọng.
Vậy đấy, mình đã mù lòa.
Tôi bám rịt lấy ý nghĩ này: một thứ gì hay một ai đó đã cố ý khiến tôi nhìn nhận thế giới theo cách sai lệch. Thực tế khác với những gì tôi đã tin và cho tới lúc này, tôi đã sống trong dối trá.
Dù cái giá phải trả là gì, tôi cũng phải xé tan tấm màn ngăn tôi nhìn ra sự thật.
Những tiếng ồn của thành phố vang đến tai tôi mỗi lúc một to. Tiếng còi ô tô, tiếng xe cảnh sát hú, tiếng cần cẩu ầm ầm và tiếng búa khoan của các công nhân đang làm việc trên công trường của một tòa nhà bên cạnh. Một sự đe dọa bao trùm trong không khí. Tôi thấy sợ những gì tôi có thể khám phá ra. Nỗi sợ của những người bị giam khi được ra khỏi hang, khi họ nhận ra bóng tối thật dễ chịu và ánh sáng khiến họ đau khổ.
Lúc này, tôi không còn chắc chắn về điều gì nữa. “Không ai có thể biết thế giới là ảo hay thực, và liệu giữa mơ và sống có gì khác nhau không.” Câu nói của Borges hiện ra trong trí nhớ và làm bùng lên trong tôi cảm giác rằng thực tại chỉ là một lớp sơn véc ni.
Một lần nữa, tôi lại cảm thấy một sự hiện diện rất rõ ràng ở quanh mình, mặc dù tôi biết rõ thực tế chỉ có mình tôi trên mái nhà. Sự chi phối vô hình, do một Người Khác gây ra.
Một kẻ điều khiển con rối.
Một kẻ thù.
Một tên khốn.
Một tiểu thuyết gia.
Xung quanh tôi, khung cảnh quen thuộc chợt thoáng rung chuyển. Rồi mọi thứ đứng yên trở lại và hiện ra trước mắt tôi sắc nét hơn trước rất nhiều: những kho bãi của xưởng đóng tàu, ống khói cao bằng gạch đỏ của nhà máy tinh luyện đường cũ, cây cầu thép Williamsburg oai vệ bắc qua sông Đông*.
•
East River ở New York. Phân biệt với tên gọi “sông Đông” khác trong tiếng Việt để chỉ một con sông ở Nga.
Sự hiển nhiên từ từ bộc lộ rõ. Tôi là món đồ chơi của một tay nhà văn. Tôi là nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết. Đằng sau chiếc máy chữ, hay đúng hơn là đằng sau màn hình của chương trình soạn thảo văn bản, một ai đó đang chơi đùa với cuộc đời tôi.
Tôi đã lùa được kẻ thù ra. Tôi biết rõ những mánh của hắn, vì tôi cũng làm cùng nghề với hắn. Điều này cho tôi một niềm tin chắc chắn: tôi vừa phá hỏng kế hoạch của hắn. Tên điều khiển con rối không ngờ mình bị lật mặt nạ và hắn đang làm rối tung các sợi chỉ nối với tay cầm điều khiển hình chữ thập.
Một ô cửa phóng* bất ngờ vừa được mở ra. Ô cửa hội tụ mọi khả năng: nó cho phép thay đổi kết cục câu chuyện. Tôi cần tìm ra cách để lật ngược tình thế. Và để thoát khỏi sự điều khiển của hắn, tôi không có lựa chọn nào khác ngoài cách lôi hắn vào cuộc chơi.
•
Nguyên văn: une fenêtre de tir, từ thường được dùng trong ngành hàng không vũ trụ, mang ý nghĩa chỉ khoảng thời gian tập hợp đủ mọi điều kiện để phóng tên lừa, nếu qua thời điểm này, cần phải chờ đến lần tiếp theo mới có thể phóng.
Tôi rút khẩu súng của Rutelli từ túi áo bu dông ra. Lần đầu tiên kể từ rất lâu rồi tôi mới có cảm giác mình đã giành được chút ít tự do. Tôi cảm nhận thấy rõ kẻ ngồi sau màn hình kia không ngờ tôi sẽ làm vậy. Dù có nói gì đi nữa, các tiểu thuyết gia cũng không hề thích bị nhân vật của mình kề dao vào cổ.
Tôi áp nòng khẩu Glock vào thái dương.
Một lần nữa, những hình ảnh giật giật lại nhảy nhót trước mắt tôi, như thể quang cảnh quanh tôi đang dần méo đi.
Trước khi nó biến mất hoàn toàn, tôi đặt ngón tay lên cò súng và hét gọi kẻ ngồi sau màn hình:
– TA CHO MI BA GIÂY ĐỂ NGĂN TA LÀM CHUYỆN NÀY: MỘT, HAI, B…