← Quay lại trang sách

MỘT NHÂN VẬT CỦA ROMA(I)N* Chương 5 Ăn khớp về thời gian

Viết một cuốn tiểu thuyết không phải việc quá khó […] Điều gian nan thực sự là viết liên tục nhiều cuốn tiểu thuyết. […] Cần phải có một năng lực đặc biệt, thứ năng lực chắc chắn có phần hơi khác với tài năng đơn thuần.

Haruki MURAKAMI

Tôi áp nòng khẩu Glock vào thái dương.

Một lần nữa, những hình ảnh giật giật lại nhảy nhót trước mắt tôi, như thể quang cảnh quanh tôi đang dần méo đi.

Trước khi nó biến mất hoàn toàn, tôi đặt ngón tay lên cò súng và hét gọi kẻ ngồi sau màn hình:

– TA CHO MI BA GIÂY ĐỂ NGĂN TA LÀM CHUYỆN NÀY: MỘT, HAI, B…

1

Paris, thứ Hai ngày 11 tháng Mười năm 2010

Hoảng hốt, tôi gập màn hình máy tính xuống làm phát ra một tiếng cạch cộc lốc. Ngồi trên ghế, trán nóng bừng cảm giác rùng mình chạy khắp châu thân. Mắt tôi cay cay và một cơn đau buốt khiến vai và cổ tôi tê cứng.

Chết tiệt, đây là lần đầu tiên một nhân vật gọi tôi trực tiếp giũa lúc tôi đang viết một cuốn tiểu thuyết!

Tôi tên là Romain Ozorski. Tôi bốn mươi lăm tuổi. Tôi viết từ rất lâu rồi. Bản thảo đầu tiên của tôi, Những người truyền tin, được xuất bản khi tôi hai mươi mốt tuổi và đang là sinh viên ngành y. Kể từ đó tôi đã viết thêm mười tám tiểu thuyết và tất cả đều trở thành best-seller. Từ hơn hai mươi năm nay, sáng nào tôi cũng bật máy tính, mở chương trình soạn thảo văn bản rồi rời bỏ sự tầm thường của thế giới để trốn vào những cuộc đời song song của mình. Viết chưa bao giờ là thú vui với tôi. Đây là một sự cam kết trọn vẹn. “Một phương cách sống đặc biệt”, Flaubert nói; “Một thứ ma túy”, Lobo Antunes nâng tầm: “Khi mới bắt đầu, nó là niềm vui, nhưng rồi ta sắp xếp đời mình quanh cái thói tật đó.”

Và tôi làm việc ngày này qua ngày khác, từ sáng đến tối, không chờ đợi một “cảm hứng” bất chợt để bắt đầu công việc. Thậm chí là ngược lại: chính bởi tôi làm việc mà thông thường cảm hứng rốt cuộc sẽ tới. Tôi yêu sự kỷ luật, ngoan cố, khắt khe này. Không có gì là dễ dàng, không có gì là hiển nhiên. Cám dỗ luôn chực chờ: bạn không bao giờ có thể biết việc viết sẽ đưa bạn đến đâu.

Với sáu giờ viết mỗi ngày - đây là nhịp độ thấp - tôi đã vượt xa mốc bốn mươi lăm nghìn giờ làm việc. Bốn mươi lăm nghìn giờ sống giữa những nhân vật trên giấy. Điều đó có lẽ đã khiến tôi trở thành một người “không thích nghi được với đời sống thực” (theo lời người vợ sắp cũ của tôi), nhưng cũng giúp tôi thành người có thể khoe là mình sành sỏi trong lĩnh vực truyện hư cấu. Và điều vừa diễn ra chưa từng xảy đến với tôi. Mặc dù luôn nhắc đi nhắc lại trong các bài phỏng vấn rằng khoảnh khắc phấn khích nhất khi viết là lúc nhân vật của bạn trở nên tự chủ và bắt đầu muốn làm những việc mà bạn không sắp đặt sẵn cho họ, nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ có ngày mình lại ở trong hoàn cảnh đó.

Quyết tâm không chịu thất bại, tôi mở lại chương trình soạn thảo văn bản và thử viết tiếp câu chuyện lần nữa.

Trước khi nó biến mất hoàn toàn, tôi đặt ngón tay lên cò súng và hét gọi kẻ ngồi sau màn hình:

– TA CHO MI BA GIÂY ĐỂ NGĂN TA LÀM CHUYỆN NÀY: MỘT, HAI, B…

Tôi cố bắt lại mạch câu chuyện, nhưng mỗi cú nháy của con trỏ trên màn hình là một vết khía nhỏ vào con ngươi mắt tôi. Tôi đờ đẫn, không thể đối mặt với tình huống này.

Có hai cách chính để viết một tiểu thuyết. Suốt một thời gian dài, tôi dùng cách an toàn. Như người thợ đồng hồ, tôi bỏ ra nhiều tháng để xây dựng một dàn ý thật đầy đủ. Tôi viết kín những cuốn sổ từng chi tiết tỉ mỉ: cốt truyện, các bước ngoặt bất ngờ, lý lịch các nhân vật, tư liệu. Kết thúc phần việc chuẩn bị này, tôi chỉ còn phải tập hợp các cuốn sổ lại và đi theo sát tiến trình câu chuyện. Như Giono từng nói: “Cuốn sách gần như đã thực hiện xong, chỉ còn phải viết nó ra.” Nhưng viết một câu chuyện đã biết trước kết cục thì có gì thú vị? Theo năm tháng, cách làm việc của tôi thay đổi. Từ đó trở đi, tôi tìm cách làm mình bất ngờ bằng cách kể câu chuyện cho chính mình theo quá trình viết. Tôi thích cái ý tưởng dấn thân vào mà không biết kết cục của cốt truyện. Đây là “phương pháp Stephen King”, ông cho rằng các câu chuyện tự chúng đã tồn tại từ trước. Chúng như những hóa thạch trong lòng đất và người viết tiểu thuyết phải đào bới theo mạch viết mà không biết đó là một bộ xương khủng long hay xương một con gấu mèo.

Đó là phương pháp tôi chọn cho cuốn tiểu thuyết mới có tên tạm đặt Mặt thứ ba của tấm gương. Tôi khởi đầu từ một tình huống đơn giản (vụ mất tích của một bé gái) sau đó để mình đón nhận những gợi ý từ các nhân vật. Họ ứng xử hoàn toàn không giống nhau. Một số người ngay từ đấu đã lười biếng, những diễn viên ngôi sao bằng lòng với việc chỉ đọc lời thoại của mình mà không buồn động tay giúp đỡ bạn chút nào. Một số khác, ngược lại, cố chiếm quyền kiểm soát và khiến bạn đi trệch khỏi quỹ đạo. Nhưng lần này, mọi chuyện đã đi quá xa. Flora Conway không chỉ nổi loạn, cô ta còn vạch trần tôi.

Những giọt mưa rơi xuống cửa kính tạo thành tiếng ồn như địa ngục. Ba ngày nay, một trận cúm nặng làm tôi mụ mị, với những đợt sốt cao và ho khiến tôi muốn khạc ra cả phổi. Suốt nhiều ngày tôi cuộn mình trong chiếc khăn choàng lông lạc đà vợ tôi để quên khi cô ta rời bỏ tôi, luân phiên giữa trường kỷ trong phòng khách và trước máy tính, giữa thuốc Doliprane và vitamin C. Suốt mười lăm phút, tôi ngồi lả đi trên ghế nhìn chằm chằm màn hình và suy nghĩ về bốn chương vừa viết, nhưng càng cố nghĩ, nỗi lo lẳng càng dâng lên trong lòng. Hình ảnh Flora Conway và khẩu súng khiến tôi sợ hãi đến mức tôi phải từ bỏ và đứng dậy đi pha một cốc cà phê.

2

Liếc nhìn đồng hồ treo tường. Sắp bốn giờ chiều. Phải chú ý để không lỡ giờ tan học của Théo. Trong lúc bình cà phê nóng dần, tôi nhìn ra cuối vườn từ cửa sổ. Bầu trời đen kịt. Mưa rất to suốt từ sáng sớm. Một mùa thu Paris kinh tởm.

Như chưa đủ tồi tệ, nồi hơi* còn bị hỏng và phòng khách lạnh toát. Một dòng nước lớn từ mái nhà cùng hệ thống cầu chì ngày nào cũng nhảy khiến tôi cảm tưởng mình đang sống trong một căn nhà ổ chuột. Ấy vậy mà tôi đã mua căn nhà này với giá bằng cả một gia tài từ một đôi vợ chồng già đã trải qua sáu mươi năm chung sống bên nhau tại đây. Những tưởng đây là ngôi nhà tràn đầy yêu thương như tôi hằng mong ước có được để nuôi nấng những đứa con của mình ở đây. Ngôi nhà vườn hai tầng tràn đầy ánh sáng, nằm không quá xa vườn Luxembourg. Nhưng nơi này “còn nguyên trạng” và cần những cuộc tu sửa lớn mà tôi chẳng còn tiền để tiến hành. Và cũng không muốn tiến hành.

Thiết bị sưởi ấm và/hoặc cung cấp nước nóng dùng trong gia đình.

Tôi mua căn nhà này một năm trước, đúng ba tháng trước khi Almine tuyên bố bỏ tôi. Khi rời đi, vợ tôi còn khóa các tài khoản chung của chúng tôi, và từ đó, tôi không thể chi thêm một xu nào mà không có sự đồng ý của cô ta. Quyết định đó khiến đời tôi tê liệt, vì Almine không hề hợp tác. Cô ta còn tự bày ra thú vui là từ chối mọi yêu cầu của tôi, và tôi không thể gây sức ép cũng chẳng có tiền để tiêu: rất lâu trước khỉ sóng gió nổ ra, cô ta đã đế phòng bằng cách chuyển vào tài khoản cá nhân số tiền đủ cho nhu cầu của mình đên khi vụ ly hôn của chúng tôi được tuyên.

Mỗi ngày, tôi càng ý thức rõ hơn cuộc ra đi của cô ta đã được suy tính cẩn trọng đến chừng nào để đẩy tôi vào vai ác. Già nửa năm trước khi tuyên bố ý định ly dị, gần như ngày nào Almine cũng gửi đi những tin nhắn thóa mạ cô ta viết bằng điện thoại riêng của tôi để khiến mọi người lầm tưởng tôi chính là tác giả của những tin nhắn đó. Hàng tá lời chửi rủa và đe dọa chĩa vào cô ta, cùng con trai Théo của chúng tôi. Tin nhắn nào cũng có: “con đần bẩn thỉu”, “con khốn”, “con điếm chết tiệt”, “tao sẽ không bao giờ để mày đi”, “rồi tao sẽ lột da mày. Cả mày lẫn thằng nhóc,” “tao sẽ giết mày rồi đ… xác mày.

Đó là những gì cô ta cùng đám luật sư đã tuồn cho báo chi. Là người ngây thơ và thiếu cảnh giác, tôi quẳng điện thoại của mình vô tội vạ và không hề đổi mật khẩu suốt mười năm nay. Tôi không hề hay biết gì, vì sau khi gửi chúng, cô ta lại cẩn thận xóa hết tin nhắn trên máy tôi. Vậy là Almine tạo ra được cả một kho những tin nhắn nhớp nhúa làm bằng chứng không thể chối cãi cho sự bỉ ổi của tôi.

Rồi còn có đoạn video. Quả anh đào trên bánh ga tô*. Đoạn phim ba mươi giây được tải lên YouTube lúc nào không rõ - từ một vụ hack giả vào điện thoại của Almine. Trong đoạn phim, khung cảnh diễn ra tại căn bếp nhà tôi lúc bảy rưỡi sáng, lúc vợ tôi và Théo đang ăn sáng trước khi thằng bé đến trường. Tôi mặc quần đùi, cùng chiếc áo phông Mötley Crüe có độ sạch đáng ngờ, bộ râu ba tuần chưa cạo và đầu tóc “tả tơi”. Mắt tôi thâm quầng và trũng sâu như thể tôi vừa hút liên tiếp ba điếu cần. Chai bia trong tay, tôi mở tủ lạnh rồi nổi cáu vì nó vẫn hỏng. Đoạn phim kết thúc bằng cảnh tôi tung cú đá vào thứ máy móc đó rồi gắt lên “như cứt!” khiến con trai tôi giật nẩy mình. Ba mươi giây có tính hủy hoại được dàn dựng lên để biến tôi thành kẻ bạo chúa trong nhà. Đã có hàng trăm nghìn lượt xem trên Internet trước khi đoạn phim được gỡ bỏ. Tôi đăng một bài viết để tự thanh minh và giải thích bối cảnh của đoạn phim. Thời đó, tôi “cấm cung” trong nhà, dành toàn bộ thời gian để viết (nên mới có bộ dạng lôi thôi như vậy). Để tăng hiệu quả, tôi làm việc theo giờ giấc khác thường, từ tám giờ tối hôm trước đến một giờ chiều hôm sau, và tôi ngủ vào buổi chiều (bởi thế tôi mới uống bia vào bảy giờ sáng, tương ứng giờ tôi ăn trưa).

Thành ngữ trong tiếng Pháp, chỉ một chi tiết nhỏ nhưng có tác động lớn, có thể thay đổi mọi thứ.

Nhưng lời bào chữa này chỉ càng làm tình hình tồi tệ hơn. Thời nay, sự thất bại của viết lách đã được định đoạt từ lâu. Tôi không làm chủ được cả âm thanh lẫn hình ảnh, và ngược lại với vợ tôi, tôi không hiểu gì về mạng xã hội, về số lượt like và cách tạo dựng giá trị bản thân.

Tháng Tư vừa rồi, cuối cùng Almine cũng chính thức đề nghị ly hôn, và mùa hè đó, cô ta tố cáo tôi tội đe dọa sử dụng vũ lực và quấy rối. Trong một bài phỏng vấn tràn ngập sự dối trá và thiếu trung thực, Almine giải thích cô ta bỏ tôi vì tôi luôn “lơ đễnh”, hay “nổi khùng”, rồi cô ta còn nói mình “khiếp sợ” vì những lời đe dọa tôi trút lên con trai chúng tôi. Đầu mùa thu, tôi phải chịu bốn mươi tám giờ giám sát của đồn cảnh sát quận VI và một buổi đối chất với Almine nhưng chẳng đi đến đâu. Tôi được thả nhưng phải chịu giám sát tư pháp, trong lúc chờ đợi bản án của tôi dự kiến được tuyên vào cuối mùa đông.

Tôi vừa may thoát được lệnh chăm sóc bắt buộc, nhưng bị cấm liên lạc với Almine. Và nhất là, tòa án gia đình - xăng xái lao vào vụ việc của vợ tôi mà không mảy may thắc mắc - đã giới hạn quyền thăm nom của tôi “để bảo vệ sự thoải mái tinh thần” của Théo. Nói ngắn gọn, tôi có thể thăm con trai trực tiếp một lần mỗi tuần trong vòng một giờ dưới sự giám sát của một nhân viên xã hội. Quyết định này ban đầu khiến tôi điên tiết sau đó dìm tôi vào vực thẳm buồn bã.

Đã qua bốn giờ chiều. Tôi nuốt cà phê, mặc áo khoác đi mưa và đội chiếc mũ bóng chày lưỡi trai dài trước khi rời nhà. Trời vẫn mưa như thác đổ. Trên phố Notre-Dame-des-Champs, vẫn là sự lộn xộn quen thuộc khi đến giờ tan học, hôm nay nó càng được khuếch đại nhờ cơn mưa đại hồng thủy và những cuộc đình công ngắt quãng phản đối dự luật cải cách lương hưu.

Ngôi trường con trai tôi theo học cách nhà chưa đầy một cây số đi bộ. Paracetamol bắt đầu có tác dụng và tôi lấy lại được một chút cảm giác hoạt bát. Tôi ý thức rõ mình đang sống trong cơn khủng hoảng lớn nhất cuộc đời. Một cái bẫy mà tôi không hề đề phòng. Không thể bào chữa cho tôi, hai luật sư của tôi đành để tôi mất quyền nuôi con. “Thời thế không ủng hộ chúng ta”, họ giải thích với tôi, và điều đó khiến tôi điên tiết. Thời thế thì có liên quan gì? Toàn bộ chuyện này chỉ là một màn kịch và một sự dối trá ghê tởm. Chỉ trừ việc rất khó để chứng minh điều đó. Và tôi cảm thấy mình có phần đơn độc trong cuộc chiến.

3

Trên vỉa hè, tôi vừa luồn lách qua những người đi bộ, những xe nôi và xe trượt scooter vừa hồi tưởng lại không biết lần thứ bao nhiêu bộ phim cuộc đời mình cùng Almine. Tôi gặp cô ta vào cuối năm 2000, cái năm tôi dành ra sáu tháng sống ở London để viết kịch bản một bộ phim truyền hình không bao giờ hoàn thành. Almine Alexander là cựu học viên nhiều triển vọng của Trường múa ba lê Hoàng gia chuyển sang làm người mẫu. Cô ta luôn tự nhận mình “đồng bóng”. Khởi đầu mối quan hệ của chúng tôi, nét tính cách đó thật quyến rũ. Nó đem đến sự say đắm và thú vị cho cuộc đời vốn quá sức nền nếp của tôi, đưa tôi phần nào thoát khỏi nhịp sống như của người thợ thủ công đã ngự trị ngày này qua ngay khác. Rồi thời gian qua đi, tôi nhận ra rằng về lâu dài, “đồng bóng” đồng nghĩa với “bất ổn”. Rất nhanh chóng, tôi không còn muốn chia sẻ cuộc đời với một người đàn bà bạo ngược hung hăng, nhưng cô ta không đồng ý cắt đứt, và cuộc hôn nhân của chúng tôi lâm vào tình cảnh trồi sụt như đường tàu lượn siêu tốc kinh điển của những mối quan hệ đang lụi tàn. Một thời gian sau cô ta có bầu, và Théo chào đời đã khiến tôi gác sang bên những lời ca thán, vì tôi không muốn chịu cảnh không được nhìn thấy con trai mỗi ngày, và tôi muốn thằng bé lớn lên trong một gia đình có cả cha lẫn mẹ.

Vậy là chúng tôi giảng hòa với nhau - ít nhất đó là điều tôi đã ngây thơ tin vào, ngay cả khi Almine chưa bao giờ thực sự chấm dứt những lời lải nhải trách móc. Ban đầu, cô ta thích thú được sống cùng một nhà văn, được là độc giả đầu tiên của tôi, được tham gia một chút vào trò lắp ghép Meccano khổng lồ của công cuộc sáng tác một cuốn truyện hư cấu. Nhưng về lâu dài, chuyện này ngày càng kém thú vị thấy rõ. Tôi dễ dàng nhận ra rằng phần lớn thời gian, tôi chìm đắm trong một dạng thế giới song song là nơi cư ngụ của những nhân vật tưởng tượng mà những vấn đề của họ khiến tôi trăn trở đêm ngày.

Và kinh nghiệm không giúp ích gì trong việc này. Tôi là tác giả của gần hai mươi tiểu thuyết nhưng ích gì, tôi vẫn không biết công thức viết một cuốn sách. Vì lý do đơn giản là công thức đó không hề tồn tại. Mỗi lần viết, cần phải học lại mọi thứ. Mỗi lần viết, tôi lại tự hỏi mình đã làm gì những lần trước đó. Mỗi lần viết là thấy mình chân trần đứng trước dãy Himalaya. Mỗi lần viết, tôi thậm chí lại phải rút thêm thứ gì đó từ mình để tái tạo nó thông qua câu chuyện hư cấu.

Sự thiếu khuôn mẫu và điều bất ngờ có thể xuất hiện sau mỗi lần lật giở một trang sách tạo nên sự thú vị và kích thích khi viết, nhưng nó cũng biến việc viết thành nỗi khiếp sợ. Sự nghi ngờ và nỗi bất an luôn hiện diện trong tôi có thể cắt nghĩa được một số chuyện, nhưng chúng không tài nào giải thích được cái bẫy độc địa mà Almine giăng ra.

Đại lộ Observatoire, trước cổng trường, tôi nhận ra đồng minh duy nhất tôi có trong cuộc đời mình kể từ khi đó: Kadija Jebabli, bảo mẫu của Théo từ khi thằng bé còn nhỏ xíu. Kadija là người Pháp gốc Maroc tuổi ngũ tuần. Lần đầu tiên tôi gặp Kadija, chị làm nhân viên bán hàng trong một cửa hàng rau quả trên phố Grenelle. Sau khi trò chuyện, Kadija nói chị sẵn sàng làm công việc trông trẻ. Tôi thuê chị trông Théo vài tiếng một ngày và ngay lập tức thấy tin tưởng. Một tuần sau, tôi thuê chị làm toàn thời gian.

Chị là người duy nhất biết sự thật. Chị là người duy nhất vẫn tin tưởng tôi. Kadija biết tôi là một người cha tốt. Đã nhiều lần chứng kiến những hành vi kỳ quặc và thái quá của Almine, Kadija không tin vào công trình tâm huyết chống lại tôi của cô ta. Chị tự đề nghị làm nhân chứng bảo vệ tôi, nhưng tôi đã can ngăn. Trước tiên bởi tôi không nghĩ lời làm chứng của chị đủ sức nặng trước mưu mô của phe kia. Nhưng trên hết là bởi tôi muốn có một người tin cậy ở bên Théo khi tôi vắng mặt. Và nếu về phe tôi thì chị sẽ bị đuổi việc ngay lập tức.

– Chào chị, Kadija.

– Chào cậu.

Tôi thấy ngay có chuyện gì đó không ổn. Mỗi buổi chiều, không để ai biết chuyện này, Kadija lại cho tôi một giờ được gặp trực tiếp Théo khi tan học. Đó là một giờ đồng hồ kỳ diệu. Nó đã giúp tôi đứng vững và ngăn tôi suy sụp. Nhưng hôm nay, vẻ mặt không vui của Kadija báo hiệu cho tôi điều tồi tệ nhất.

– Chuyên gì xảy ra vậy, Kadija?

– Almine định đi Mỹ.

– Mang cả Théo theo?

Chị bảo mẫu gật đầu. Chị cho tôi xem nhiều bức ảnh chụp màn hình máy tính của Almine trên điện thoại của chị. Đang kết nối vào trang web của Air France, trình duyệt hiển thị yêu cầu đặt ba vé máy bay một chiều tới New York vào ngày 21 tháng Mười hai. Ngày đầu tiên của kỳ nghỉ ở trường. Một cho cô ta, một cho Théo và vé thứ ba cho một người phụ nữ tên Zoé Domont.

Tôi hiểu như vậy nghĩa là gì. Từ vài tháng nay, một ý định điên khùng mới lại nảy ra trong đầu Almine: nhổ neo và đến sống trong một làng sinh thái ở Pennsylvania. Chính người phụ nữ kia, Zoé Domont - một cô giáo tiểu học ở Lausanne mà chúng tôi gặp cách đây hai năm tại Genève trong một cuộc biểu tình chống Diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos -, đã gieo ý tưởng đó vào đầu cô ta. Thực ra, tôi không phản đối gì ý tưởng này, chỉ trừ việc điều đó nghĩa là giữa con trai và tôi sẽ có sáu nghìn cây số và một đại dương ngăn cách.

Tin này làm tôi xáo trộn trong lòng, nhưng vì Théo vừa ra khỏi trường và đang bước đến bên chúng tôi, tôi lấy nét mặt vui vẻ để không làm thằng bé lo lắng.

– Chào con, Théo!

– Con chào bố! thằng bé vừa hét vừa nhào đến ôm chầm tôi.

Tôi ôm chặt Théo một lúc lâu, hít lấy mùi hương từ tóc và cổ thằng bé. Trong cảnh âm u của ngày sắp tàn, tôi thèm làn hơi ấm áp và yên bình này. Théo là thằng bé có mái tóc hoe vàng, luôn luôn vui tươi, đôi mắt sáng lanh lợi nằm sau cặp kính tròn màu xanh thủy thủ. Với tôi, thằng bé chính là “mùa hè bất diệt” giữa lòng mùa đông như Camus từng nói. Một cú chọc nhắc cho tôi nhớ rằng chỉ một nụ cười của thằng bé cũng có thể phá vỡ những bức tường di động của nỗi buồn trong tôi.

– Con đói!

– Bố cũng vậy!

Vào giờ này, nơi tụ họp ưa thích của chúng tôi là quán Ba mụ phù thủy, một coffee shop nằm ở ngã tư giao giữa đại lộ Observatoire và phố Michelet do một chàng trai người Ý mà mọi người hay gọi là Marcello làm chủ. Tại đây, sau khi ngắm Théo ăn ngấu nghiến món quả nghiền và một chiếc bánh cannoli chanh, tôi cho thằng bé làm bài tập. Đây là thời kỳ tuyệt vời với những trang sách đọc đầu tiên, những bài chính tả đầu tiên, những bài học thuộc lòng của Paul Port Claude Roy hay Jacques Prévert nói vở một chú ngựa nhỏ bi kẹt “ở nơi xấu trời” hay “hai chú ốc sên đi” dự đám tang mốt chiếc lá rụng.

Sau khi làm bài tập, Théo biểu diễn cho tôi xem một trò ảo thuật. Đây là thứ thằng bé cực kỳ say mê mấy tháng nay. Kể từ khi Kadija, để làm Théo bận rộn, có thói quen cho thằng bé xem trên điện thoại của chị những video trên một kênh YouTube chuyên biệt, do một người nào đó tên Gabriel Keyne lập ra. Hôm nay, Théo đã hoàn thành màn trình diễn đồng xu xuyên qua đáy cốc cùng một trò xào bài khá ấn tượng. Mạnh dạn sau thành công của mình, thằng bé thử một màn thứ ba, màn này cần tôi cho thằng bé mượn một tờ 20 euro. Khá tự tin, thằng bé xé tờ tiền làm đôi, xếp hai nửa lên nhau rồi gập đôi, rối gập làm tư.

– Xong! thằng bé nói giọng tự hào và đưa cho tôi tờ tiền gập thành hình vuông. Bố mở ra đi và sẽ có một bất ngờ.

Tò mò, tôi làm theo yêu cầu, nhưng đương nhiên, tờ tiền của tôi vẫn rách đôi.

Con trai tôi giàn giụa nước mắt. Một cơn khủng hoảng thật sự, vừa bất ngờ vừa dữ dội. Trong lúc tôi cố gắng xoa dịu, thằng bé thú nhận trong tiếng nức nở, nắm chặt hai tay tôi bằng đôi bàn tay bé xíu của mình:

– Con không muốn đi, bố ơi, con không muốn đi!

Vậy là thằng bé đã biết chuyện đi Mỹ. Almine không nghĩ rằng việc thông báo một tin như vậy khi chỉ còn hơn hai tháng sẽ khiến con trai chúng tôi bị chấn động. Và với sự thù dịch triệt để dành cho tôi, cô ta thậm chí còn không ngờ thằng bé sẽ kể cho tôi chuyện đó.

– Đừng lo, Théo, chúng ta sẽ tìm cách. Bố sẽ lo chuyện đó.

Phải mất gần năm phút tôi mới dập được cơn xúc động bùng cháy.

Trời gần như đã tối hẳn khi chúng tôi rời quán cà phê. Vườn hoa Những nhà khám phá vắng vẻ, chìm trong bầu không khí ẩm ướt và u tối.

– Con muốn làm một ảo thuật gia đích thực, Théo nói với tôi. Để con và bố khỏi phải xa nhau.

– Chúng ta sẽ không xa nhau, tôi hứa.

Là cái gã tiểu thuyết gia trong tôi đã lên tiếng. Cái con người luôn tưởng một sự kiện mơ mộng như trong tiểu thuyết có thể giải quyết những ngõ cụt của cuộc sống ngoài đời thực. Nhờ một deus ex machina* hay một cú lật ngược tình thế đúng lúc, ở chương cuối cùng, sẽ sửa chữa thực tại, đưa nó về đúng với “cái mà nó phải là”. Và trong tích tắc, giúp người tốt thực sự giành thắng lợi, khiến những kẻ vô liêm sỉ, tầm thường, ngu ngốc lâm vào tình thế khốn đốn.

Tiếng Latin trong nguyên bản, thuật ngữ trong kịch nghệ để chỉ sự xuất hiện bất ngờ có thể giải quyết một tình huống nan giải tưởng chừng không thể giải quyết được.

– Chúng ta sẽ tìm ra cách, tôi nhắc lại với Théo khi nhìn thằng bé đi xa dần.

Một tay con trai tôi nắm tay Kadija, tay kia vẫy chào tạm biệt tôi. Tôi căm ghét hình ảnh này.

Chán nản, tôi lê bước chân đi về. Tôi bật công tắc, nhưng chắc hẳn cầu chì đã nhảy và căn phòng chỉ được chiếu sáng bằng thứ ánh sáng xanh phát ra từ màn hình máy tính. Cơn sốt đã quay trở lại. Tôi rét cóng và run rẩy từ đầu đến chân. Một cơn đau nửa đầu khủng khiếp bùng lên, dập tắt mọi ý định làm bất cứ việc gì. Không còn cả sức lực để bước lên phòng. Tôi run cầm cập, co ro trong chiếc khăn choàng và để mình chìm vào cái lạnh giá của màn đêm.

*Tác giả chơi chữ giữa tên nhà văn Romain và từ Roman (nghĩa là Tiểu thuyết).