Chương 6 Cái bẫy giăng sẵn chờ nhân vật chính
Milan KUNDERA
1Paris, thứ Ba ngày 12 tháng Mười năm 2010
Một tấm màn ánh sáng rung rinh sau mí mắt đang nhắm của tôi.
Cuộn chặt người trong tấm khăn, tôi tránh mọi chuyển động nhỏ nhất để không làm tan mất hơi ấm. Tôi muốn màn đêm kéo dài vô tận. Muốn cuộc sống không còn tác động đến tôi nữa. Được mãi mãi tách rời khỏi những xấu xa của thế giới.
Nhưng một tiếng động không dứt ngăn trở tôi. Tiếng gõ đều đặn và khó chịu. Tôi co rúm người lại, cố lẩn trốn trở lại vào giấc ngủ, nhưng tiếng động càng mạnh hơn, bắt buộc tôi phải mở một mắt ra. Ít nhất, trời đã hết mưa. Bên ngoài khung cửa kính, tán lá mùa thu của cây phong và cây hạch dương đùa giỡn với ánh mặt trời. Những ánh kim cương trên bầu trời quang đãng.
Chói mắt, tôi đưa tay lên che trước trán. Một dáng hình như con cú to lớn nổi bật trên vách kính. Hút tẩu phì phèo, Jasper Van Wyck ngồi trên chiếc ghế bành cách trường kỷ của tôi hai mét và đang giậm chân theo nhịp.
– Mẹ kiếp Jasper! Ông làm cái quái gì ở đây vậy? tôi vừa hỏi vừa khó nhọc đứng dậy.
Ông ta đặt máy tính xách tay của tôi trên đầu gối. Đằng sau màn hình, đôi mắt tròn nhỏ hấp háy. Ông ta có vẻ thích thú vì vố vừa chơi tôi.
– Cửa không khóa! ông ta giải thích, như thể đó là một cái cớ hợp lẽ.
Jasper Van Wyck là một huyền thoại trong ngành xuất bản. Một người Mỹ say mê nước Pháp thân thiết với Salinger, Norman Mailer và Pat Conroy. Ông ta nổi tiếng vì làm đại diện cho Nathan Fawles* và cho xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tác giả này, Loreleï Strange, trước đó bị phần lớn các nhà xuất bản Mỹ từ chối. Sống luân phiên giữa Paris và New York kể từ đó, ông ta nhận lời chăm lo cho các quyền lợi của tôi từ lúc tôi thay nhà xuất bản, cách đây ba năm.
•
Nhân vật chính trong tiểu thuyết Cuộc sống bí mật của các nhà văn của Guillaume Musso.
– Đã giữa tháng Mười rồi, ông ta nhắc tôi. Nhà xuất bản đang đợi bản thảo của cậu.
– Tôi chẳng có bản thảo nào hết, Jasper ạ. Rất tiếc.
Vẫn còn đang đờ đẫn, đầu nặng trịch và cái mũi tắc tịt, tôi đứng yên một lúc lâu, tựa người vào chiếc trường kỷ, quấn chặt chiếc khăn trong lúc cố lấy lại tỉnh táo.
– Cậu có đoạn đầu của bản thảo, ông ta vừa chữa lại vừa gõ gõ lên màn hình. Bốn chương, đó chính là khởi đầu.
– Ông ăn cắp được mật khẩu của tôi à?
Vị đại diện nhún vai.
– Tên và năm sinh con trai cậu. Quá dễ đoán…
Đến lượt Jasper đứng dậy đi vào bếp, ông ta quyết định làm cho tôi một cốc grog*. Trong lúc đi theo ông ta, tôi nhìn đồng hồ treo tường. Đã gần giữa trưa. Kim đồng hồ đã đi được một vòng rưỡi, tôi đã ngủ mười tám tiếng!
•
Đồ uống nóng gồm nước và rượu rhum.
– Tôi đã lấy thư cho cậu, ông ta nói và chỉ vào đống phong bì to bự đặt trên bàn.
Jasper rất quý tôi. Ngoài mối quan hệ công việc, ông ta luôn hiếu kỳ và khoan dung với tôi. Có thể bởi tôi gợi sự tò mò đối với ông ta. Bản thân ông ta cũng là một người kỳ quặc với phong cách có phần old school, luôn hồn nhiên đi dạo khắp nơi với thân hình béo tròn trong bộ vest đỏm dáng. Thường thì tôi rất thích nói chuyện với ông ta. Jasper là bộ nhớ của ngành xuất bản và ông ta có cả kho giai thoại về những tác giả ông ta đã gặp. Nhưng sáng nay, tôi quá kiệt sức nên chẳng thể duy trì cuộc trò chuyện.
– Có rất nhiều hóa đơn, ông ta nhắc trong lúc vắt nốt một quả chanh vào nước đang sôi.
Tôi mở phong bì đựng sao kê ngân hàng mới nhất. Tình trạng tài chính của tôi thật bi thảm. Để mua căn nhà này, tôi đã ngốn sạch không chỉ tiền tiết kiệm, mà cả phần lớn tiền tác quyển sẽ nhận trong tương lai.
– Tôi đã từng có những ngày khá khẩm hơn, tôi nhượng bộ và đẩy tờ sao kê ra khỏi tầm mắt.
Jasper rót một ly đầy rượu rhum và một thìa mật ong vào nồi.
– Cậu nghĩ khi nào cậu sẽ hoàn thành cuốn tiểu thuyết? ông ta hỏi.
Tôi ngồi phịch xuống một cái ghế, khuỷu tay đặt lên bàn, úp khuôn mặt khốn khổ vào hai bàn tay.
– Tôi không thể tiếp tục câu chuyện đó, Jasper. Tôi thấy nó quá tệ.
– Vậy à? Tôi đã đọc năm mươi trang đầu và tôi thấy có tiềm năng.
Ông ta đặt trước mặt tôi một cái tách nóng giãy bốc lên mùi quế và rượu rhum.
– Không, nó sẽ chẳng đi đến đâu, tôi nói chắc nịch. Nó quá tăm tối và bị đuối.
– Thử cố thêm hai ba chương nữa xem.
– Rõ ràng người viết đâu phải ông!
Jasper nhún vai: mỗi người một vai trò.
– Trong lúc này, hãy uống cốc grog của cậu đi! ông ta ra lệnh cho tôi.
– Vẫn đang nóng!
– Đừng có đỏng đảnh. À, tôi quen chưa nói với cậu: tôi đã đặt lịch hẹn cho cậu với bác sĩ của tôi vào lúc hai giờ chiều.
– Tôi chẳng đòi hỏi gì ông hết. Tôi không cần bảo mẫu.
– Chính xác, tôi không đưa cậu đi gặp bảo mẫu, mà là gặp bác sĩ. Cậu biết Henry de Montherlant gọi Gaston Gallimard để ông ta cử thợ sửa ống nước đến khi bồn rửa bát nhà Henry bị tắc chứ?
– Tôi cũng không cần bác sĩ, Jasper.
– Tỉnh táo lại đi, cậu đang ho như cuốc ấy. Tình trạng đã nặng lên so với cuộc điện thoại hồi tuần trước của cậu.
Ông ta nói không sai. Tôi đã ho dai dẳng mười lăm ngày nay và hiện tại bệnh viêm xoang và cơn sốt có vẻ đang thay nhau khiến tôi đờ đẫn.
– Trong lúc chờ đợi thì ta đi ăn thôi, ông ta nói giọng vui vẻ. Tôi mời cậu đến Grand Café.
Tôi càng ủ rũ thì ông ta như càng hớn hở. Đây không phải lần đầu tiên tôi để ý thấy đồ ăn làm ông ta vui sướng.
– Tôi không đói lắm, Jasper, tôi thú thực và uống vài ngụm grog toàn rượu là rượu.
– Đừng lo: tôi mới là người ăn! Với lại, ra ngoài để cậu hít thở không khí trong lành luôn.
2Ra đến ngoài phố, Jasper quát tháo một viên cảnh sát trật tự khi người này đang viết phiếu phạt ông ta vi đỗ xe sai quy định. Ông ta lái (rất tệ) một chiếc Jaguar Type E serie 3 sản xuất từ những năm 1970. Một chiếc xe cổ vào tay ông ta thì trở nên vừa nguy hiểm vừa ô nhiễm.
Ông ta đưa tôi đến đại lộ Montparnasse và đỗ xe (rất tệ) ở ngã tư giao với phố Delambre. Grand Cafe là quán ăn của khu phố nằm đối diện một cửa hàng hải sản. Một quán ăn kiểu Paris với lối trang trí truyền thống: ghế Baumann bằng gỗ cong, bàn nhỏ kiểu quán rượu, khăn trải bàn kẻ ca rô và thực đơn viết trên bảng đen.
Đang là giờ đông khách, nhưng trước cái thở dài thườn thượt của Jasper, người quản lý đã tìm cho chúng tôi một chỗ nằm sâu trong góc quán. Không chờ đợi, ông ta gọi một chai vang chardonnay (hãng Matt Delucca ở thung lũng Napa Valley) còn tôi chỉ gọi một chai nước khoáng Châteldon.
– Nào, chuyện gì không ổn vậy, Ozorski? ông ta hỏi ngay sau khi đã ngồi yên vị.
– Chẳng có gì ổn cả, ông biết rõ điều đó mà. Cả thế giới nghĩ tôi là một gã khốn nạn, tôi không thể gặp con trai trong điều kiện bình thường nữa và tôi vừa được biết vợ tôi sẽ đưa thằng bé sang Mỹ.
– Vậy thằng bé sẽ được khám phá thế giới.
– Chuyện này không buồn cười đâu.
– Nhưng cậu lo lắng cho thằng bé quá mức, thật nực cười! Hãy để nó lớn lên cùng mẹ và cậu lo cho tác phẩm của mình đi! Đến tuổi trưởng thành, nó sẽ biết ơn cậu hơn vì chuyện đó đấy.
Rồi ông ta tuôn ra một tràng độc thoại triết lý, nuối tiếc sự điên rồ của thời đại chúng ta, thứ đang lâm nguy khi thần thánh hóa con người và thiêng liêng hóa trẻ con.
– Ông nói thì dễ lắm, ông đâu có làm bố!
– Không, lạy Chúa, cảm ơn! ông ta thở ra.
Sau khi kêu một suất patê nhồi vỏ bánh mì kèm lá lách bê và chừng chục con hàu dẹt, ông ta trở lại với cuốn sách của tôi:
– Dẫu sao thì, Ozorski, cậu cũng không thể bỏ mặc một nhân vật với khẩu súng trên đầu.
– Tôi mới là người viết, Jasper ạ, tôi làm bất kỳ điều gì tôi muốn.
– Ít nhất hãy nói cho tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Chuyện gì đã xảy ra với cô bé Carrie đó?
– Tôi không biết gì hết.
– Tôi không tin.
– Đó là việc của ông. Nhưng đó là sự thật.
Vẻ nghĩ ngợi, ông ta vuốt vuốt sợi ria vểnh.
– Cậu đã viết văn lâu rồi, Ozorski…
– Thế thì…?
– Cậu thừa biết rằng đối với một tiểu thuyết gia, cô Flora Conway trong cuốn sách của cậu đó, đúng là món quà từ Thượng đế!
– Món quà ư?
– Tạo vật đòi hỏi được gặp kẻ sáng tạo. Thật tài tình. Cậu có thể viết nên một Frankenstein hiện đại!
– Tôi không hứng thú lắm. Trong trí nhớ của tôi, tạo vật đó gieo rắc kinh hoàng ở bất cứ nơi nào nó đặt chân đến và Victor Frankenstein chết ở cuối truyện.
– Đó chỉ là một chi tiết. Nào, Ozorski, đừng nhìn mọi thứ tối tăm nữa. Chúng ta cuối cùng đều chết cả mà!
Ông ta tạm dừng một lúc lâu, để nhấm nháp món patê nhồi vỏ bánh mì.
– Cậu biết cậu phải làm gì không? ông ta đột nhiên giơ nĩa lên hỏi.
– Ông nói đi.
– Đưa cậu vào cuốn sách và chấp thuận gặp Flora.
– Never.
– Có đấy! Đó chính là điều tôi thích trong các tiểu thuyết của cậu: người ta có cảm giác cậu duy trì mối quan hệ rất mật thiết với các nhân vật! Và tôi chắc chắn mình không phải người duy nhất nghĩ như vậy.
– Phải, nhưng lần này mọi chuyện đã đi quá xa.
Ông ta nhìn tôi với vẻ ngờ vực, rồi nổi:
– Cậu đang sợ, phải không? Ozorski, cậu thật sự đang sợ nhân vật của mình ư?
– Tôi có những lý do của riêng mình.
– À, nhưng tối lại rất muốn biết chúng!
– Không phải vấn đề sợ hay muốn hay…
– Cậu ăn cùng tôi một chiếc bánh nghìn lớp với rượu Grand Marnier không? Hình như nó rất ngon đấy.
Tôi tiếp tục lời đang nói mặc kệ câu hỏi đó:
– … và bởi ông có biết chút ít về nghề này, ông sẽ biết rằng nếu không có hứng viết, sẽ chẳng bao giờ có cuốn tiểu thuyết thành công.
– Cẩn thận bắn nước bọt! Hãy giữ lại lũ vi trùng của cậu.
Còn tôi rất tò mò muốn biết một cuốn tiểu thuyết thành công là như thế nào.
– Một cuốn tiểu thuyết thành công, trước tiên là cuốn tiểu thuyết khiến người đọc nó cảm thấy hạnh phúc.
– Hoàn toàn không phải.
– Và một cuốn tiểu thuyết thành công cũng giống một chuyện tình thành công.
– Vậy một chuyện tình thành công là như thế nào?
– Là khi ông gặp đúng người đúng thời điểm.
– Thế có liên quan gì đến cuốn sách?
– Có một câu chuyện hay và những nhân vật tốt, thế vẫn chưa đủ để khiến một cuốn tiểu thuyết trở nên thành công. Còn cần phải ở vào một thời điểm trong đời mà ông có thể rút ra thứ gì từ nó.
– Hãy dành những lời tầm phào đó cho đám phóng viên, Ozorski à. Cậu đang tìm đủ mọi lý do để không chịu làm việc.
3Chiếc xe già nua của Anh rẽ trái vào đại lộ Raspail. Sau khi đã nốc khá nhiều vang trắng, Jasper thực sự là mối nguy hiểm nơi công cộng. Ông ta lái xe theo đường zigzag, radio trên xe phát inh tai những tổ khúc violoncelle của Bach, chân nhấn ga liên tục để tăng tốc bất chấp tình hình giao thông.
– Bác sĩ của ông tên là gì? tôi hỏi trong lúc ông ta đang rẽ trái vào phố Grenelle.
– Raphaël.
– Ông ta bao nhiêu tuổi?
– Diane Raphaël, bác sĩ đó là phụ nữ.
Vờ như nhớ ra gì đó khi đến phố Bellechasse, ông ta chỉ vào một thùng các tông ở ghế sau:
– Tôi có mang cho cậu một món quà.
Tôi quay người lại liếc nhìn những thứ trong hộp: đó là những bức thư tay và thư điện tử in ra giấy được các độc giả gửi cho tôi thông qua nhà xuất bản. Tôi xem qua vài bức. Phần lớn là những lời nhắn trìu mến, nhưng khi bạn không thể viết tốt, biết rằng mình sẽ làm họ thất vọng thì sự trông đợi đó thật là một món quà tẩm độc.
Chiếc Jaguar rẽ sang phố Las-Cases và dừng lại ở số 12 phố Casimir-Périer, không xa hai ngọn tháp của nhà thờ Sainte-Clotilde.
– Đến rồi Jasper nói với tôi. Cậu có muốn tôi đi cùng không?
– Không cần đâu, cảm ơn. Ông về ngủ trưa đi thì hơn, tôi vừa khuyên vừa bước xuống xe.
– Có gì mới nhớ báo cho tôi.
Trên vỉa hè, tôi nhìn tấm biển phòng khám của vị bác sĩ.
– Nhưng cái cô Diane Raphaël đó là bác sĩ tâm thần mà này!
Jasper hạ kính xe. Trong vòng vài giây, vẻ mặt ông ta trở nên nghiêm trang hơn. Trước khi đột ngột nổ lại máy, ông ta thốt ra với tôi như cảnh báo:
– Lần này, cậu sẽ không phải vượt khó một mình, Ozorski ạ.
4Cho đến tận hôm nay, tôi chưa bao giờ bước chân đến phòng khám của một bác sĩ tâm thần, điều đó, thật ngớ ngẩn, lại khiến tôi thấy có chút hãnh diện. Tôi vẫn luôn nghĩ việc viết cho phép tôi nhận dạng, cô đọng và tống khứ chứng loạn thần kinh và những ám ảnh ở mình.
– Chào mừng anh đã tới, anh Ozorski.
Tôi đã hình dung vị bác sĩ tâm thần này là một Freud tái sinh, nhưng hoàn toàn không phải. Diane Raphaël là một phụ nữ tầm tuổi tôi với gương mặt duyên dáng. Đôi mắt sáng và chiếc áo len màu xanh oải hương bằng vải mohair hệt như được lấy từ một quảng cáo nước giặt Woolite trước đây hay một tư liệu của Ina* về Anne Sinclair.
•
Viện Nghe nhìn quốc gia Pháp (Institut national de l’audiovisuel).
– Mời anh ngồi.
Phòng khám nằm ở tầng lầu trên cùng, là một căn phòng dài có cửa sổ trong suốt cho phép tầm nhìn hướng ra nhà thờ Saint-Sulpice, điện Panthéon và trải dài đến tận đồi Montmartre.
– Ở đây, tôi có cảm giác mình như một thủy thủ đứng gác trên đài quan sát của một con tàu cướp biển, từ đây tôi có thể nhìn những cơn dông, cơn bão hay những cơn áp thấp* đang tới. Rất tiện cho một bác sĩ tâm thần.
•
Nguyên văn trong tiếng Pháp: dépression. Tác giả chơi chữ ở đây, “dépression” vừa là cơn áp thấp vừa có nghĩa là bệnh trầm cảm.
Ẩn dụ thật khéo léo. Hẳn cô ta đã nói câu này với tất cả các bệnh nhân của mình.
Tôi ngồi đối diện với Diane Raphaël trên một chiếc ghế da màu trắng.
Sau hai mươi phút của một cuộc trò chuyện không đến nỗi quá khó chịu, cô đã khoanh vùng được vấn đề của tôi: những cuộc tấn công lặp đi lặp lại của thế giới hư cấu khiến đời sống tình cảm và gia đình của tôi bị hủy hoại. Khi dành phần lớn thời gian trong ngày để lang thang trong một thế giới tưởng tượng, đôi khi bạn không dễ mà ngược trở lại được. Và bạn bàng hoàng khi các ranh giới bị xóa nhòa.
– Không thứ gì bắt ép anh phải chịu đựng điều đó, bác sĩ tâm thần nói. Nhưng anh cần quyết tâm giành lại quyền kiểm soát.
Tôi tán thành, nhưng không rõ lắm phải làm thế nào. Tôi kể cho bác sĩ nghe câu chuyện tôi vừa bắt đầu viết và việc Jasper muốn tôi đối phó với thách thức mà Flora Conway đưa ra bằng cách chấp thuận gặp cô ta thông qua việc viết.
– Một ý tưởng rất tuyệt mà! Hãy coi nó như một bài luyện tập. Một hành động mang tính biểu tượng mạnh mẽ để tái khẳng định sự vượt trội của cuộc sống thực trước thế giới tưởng tượng, và để bảo vệ lãnh địa riêng thuộc về nhà văn cùng sự tự do đi kèm với nó.
Những lời này có vẻ rất hấp dẫn, nhưng tôi nghi ngờ hiệu quả của bài luyện tập.
– Anh sợ người phụ nữ đó à?
– Không, tôi khẳng định.
– Vậy hãy trực tiếp nói chuyện với cô ấy!
Vì đã chuẩn bị kỹ cho buổi điều trị, cô ấy mang bài báo ra và đọc cho tối nghe đoạn phỏng vấn Stephen King, trong đó ông nói đại ý rằng việc đưa các con quỷ của ông vào câu chuyện hư cấu là một kỹ thuật cũ mang tính trị liệu, một phép trừ tà cho phép ông tuôn vào những trang giấy sự giận dữ, thù hận và thất vọng. “Ngoài ra, tôi được đền đáp điều đó, King lưu ý. Có nhiều kẻ trong những khám tù chật ních trên khắp thế giới không có được may mắn đó.”
5Tôi đang trên đường tới trường của con trai thì nhận được tin nhắn SMS của Kadija: “Cẩn thận, Almine vừa quyết định đến đón Théo!”
Thỉnh thoảng cô ta lại làm vậy, một hoặc hai lần một tháng, như một ý muốn ngông nghênh: Almine đột nhiên tuyên bố cô ta không còn cần bảo mẫu. Thậm chí cô ta còn nói với Kadija rằng chị ấy không phải mất công đến nữa, và từ giờ cô ta sẽ chăm lo cho Théo toàn thời gian. Thường thì ý định này có tuổi thọ từ hai mươi tư đến bổn mươi tám giờ. Trong thời gian đó thì tôi bị lỡ mất cuộc hẹn với Théo.
Bực mình, tôi vòng ra nhà thuốc để mua bổ sung Doliprane, xi rô và tinh dầu. Tôi về nhà, lần mò bảng điện vì cầu chì lại nhảy, rồi đun nước để chuẩn bị xông. Sau đó, tôi nằm phịch xuống trường kỷ và nhắm mắt một lúc để nghĩ về những gì Jasper và bác sĩ tâm thần đã nói. Khi tôi mở mắt ra, đã gần nửa đêm. Cái lạnh bất thình lình đã làm tôi thức giấc. Cái nồi hơi chết tiệt…
Tôi nhóm lửa trong lò sưởi rồi khật khừ vào phòng đọc sách một lúc, ở đó tôi với tay lấy một cuốn Frankenstein cũ mà tôi đã nghiên cứu hồi cấp ba.
Một đêm âm u tháng Mười một, cuối cùng tôi cũng có thể chiêm ngưỡng thành quả sau thời gian làm việc miệt mài. […] Đã một giờ sáng. Tiếng mưa gõ sầu thảm lên kính cửa sổ, và ngọn nến sắp cháy hết. Đột nhiên, trong ánh lửa chập chờn, tôi thấy tạo vật đó hé mỏ đôi mắt màu vàng nhạt. Nó hít một hơi sâu, và tứ chi động đậy với những cử động co giật.
Hay tuyệt.
Tôi pha một bình cà phê arabica đầy, gom những người bạn duy nhất còn sót lại trên đời - Doliprane, lọ thuốc xịt mũi Derinox, thuốc ngậm họng - rồi quấn mình vào chiếc khăn choàng trước khi ngồi vào bàn làm việc.
Tôi mở máy tính, mở tiếp một trang trắng trong chương trình soạn thảo văn bản, nhìn con trỏ đang nhìn lại mình khinh thường. Tốt hơn là nên thừa nhận, vài tháng vừa rồi, tôi đã hoàn toàn mất kiểm soát cuộc đời mình. Tôi phải cố gắng giành lại sự tự chủ. Nhưng điều đó có khả thi không nếu cứ ngồi trước màn hình? Tôi gõ lên bàn phím. Tôi yêu âm thanh nhẹ nhàng êm dịu này. Âm thanh của dòng nước mà ta không bao giờ biết nó sẽ cuốn mình đến đâu. Cơn đau và thuốc giải. Thuốc giải và cơn đau.
1Phía Nam Williamsburg
Bến Marcy Avenue
Cảm giác nghẹt thở. Giữa đám đông chật cứng, đôi chân run rẩy không rõ bằng cách nào đã đưa tôi đến được cửa ra bến tàu điện ngầm. Cơn sóng người đổ ào ra vỉa hè. Cuối cùng cũng có được chút không khí. Nhưng kèm theo là tiếng còi ô tô, tiếng xe cộ qua lại, tiếng ầm ì của thành phố làm tôi…