← Quay lại trang sách

Chương 7 Một nhân vật đi tìm tác giả

Vì nhiều lẽ, viết là hành vi nhằm xưng tội, trấn áp người khác và truy hỏi họ: Hãy lắng nghe tôi, hãy nhìn mọi việc theo cách của tôi, hãy thay đổi ý kiến. Đó là một hành vi hung hăng, thậm chí thù địch.

Joan DIDION

1

Phía Nam Williamsburg, bến Marcy Avenue

Cảm giác nghẹt thở. Giữa đám đông chật cứng, đôi chân run rẩy không rõ bằng cách nào đã đưa tôi đến được cửa ra bến tàu điện ngầm. Cơn sóng người đổ ào ra vỉa hè. Cuối cùng cũng có được chút không khí. Nhưng kèm theo là tiếng còi ô tô, tiếng xe cộ qua lại, tiếng ầm ì của thành phố làm tôi điếc tai.

Tôi bước vài bước trên vỉa hè. Loạng choạng. Đây là lần đầu tiên tôi xuất hiện trong một câu chuyện hư cấu của mình.

Tình huống này rất gần với chứng tâm thần phân liệt: một phần tôi ở Paris, đằng sau màn hình máy tính, một phần khác ở đây, tại New York, trong khu phố tôi không hề biết và vận hành dần từng chút một theo nhịp gõ phím của một tôi-khác ở phía bên kia.

Tôi ngắm nhìn quang cảnh, tôi hít thở không khí xung quanh. Cảm nhận đầu tiên, chẳng có thứ gì thực sự quen thuộc với tôi. Tôi thấy đau ở vùng bụng và những cơn đau nhói ở cơ bắp. Việc dứt mình khỏi thực tại đã để lại những dấu tích. Toàn bộ cơ thể khiến tôi cảm thấy như mình đang bị xé toạc, như thể tôi là một yếu tố lạ mà thế giới tưởng tượng đang cố loại bỏ. Tôi không ngạc nhiên chút nào: tôi đã biết từ lâu rằng thế giới hư cấu có luật lệ riêng, nhưng chắc hẳn tôi đã đánh giá thấp sức mạnh của nó.

Tôi ngước mắt nhìn lên. Trên bầu trời màu xám kim loại, một cơn gió mát thổi rung rinh những chiếc lá dẻ. Xung quanh tôi, ở cả hai bên phố đang diễn ra một điệu ba lê kỳ lạ. Khoác trên mình những chiếc áo khoác dài tối màu, những người đàn ông rậm râu đội mũ đen hai lọn tóc quăn buông xuống hai bên má* đi lại ngược xuôi trên vỉa hè và ném cho tôi ánh nhìn kỳ quặc. Vợ họ mặc những chiếc váy dài, khoác nhiều lớp áo và giấu mái tóc sau những chiếc khăn turban khắc khổ. Những dòng chữ khắc trên tường bằng tiếng Hebrew và những cuộc trò chuyện bằng tiếng Yiddish giúp tôi hiểu ra mình đang ở đâu: trong khu Do Thái Hasidim ở Williamsburg. Khu vực này của quận Brooklyn được chia ra thành hai thế giới trái ngược: phía Bắc, khu bobo-hipster, phía Nam, cộng đồng Satmar*. Một bên là những “nghệ sĩ” đầy hình xăm trổ, tín đồ của diêm mạch và bia thủ công, bên kia là những người Do Thái bảo thủ cách xa sự hiện đại của Manhattan cả cây số, duy trì lối sống truyền thống tách biệt với những tiến bộ của xã hội.

Một kiểu tóc điển hình của đàn ông Do Thái giáo Chính thống.

Một nhánh của Do Thái giáo Hasidim.

Tôi vẫn đau bụng, nhưng đã dần tỉnh táo hơn và hiểu vì sao mình lại ở đây. Khi khởi động viết Mặt thứ ba của tấm gương, tôi đã tìm tư liệu để chọn khu phố làm nơi sinh sống cho Flora, và tôi chọn Williamsburg chính bởi nó ở gần khu Do Thái chính thống này. Do những cư dân ở đây như bước thẳng ra từ một shtet* của thế kỷ 19, có vẻ họ đã mở thành công một lỗ hổng thời gian. Tôi không phải người duy nhất tìm cách chạy trốn cái thực tại và thời đại này. Tôi làm việc đó bằng trí tưởng tượng, nhưng những người khác đã thực hiện thành công bằng những cách khác. Bằng cách không để thế giới hiện đại tóm được họ. Ở đây, hệ thống trường học, các cơ sở chăm sóc y tế, các vấn để tư pháp, lương thực được giám sát bởi cả cộng đồng. Và trong không gian cũ xưa này, các phương tiện truyền thông, mạng xã hội, sự dồn dập cấp bách của thế giới hiện đại không tồn tại.

Thị trấn với phần lớn cư dân là người Do Thái ở Trung và Nam Âu trước khi xảy ra thảm họa diệt chủng Holocaust.

Dạ dày trống rỗng cào xé và một cơn buồn nôn dữ dội dâng lên, như thể cơn đói đang giày vò tôi. Tôi đẩy cửa hiệu tạp hóa kosher đầu tiên hiện ra trên đường đi. Nằm trong một tòa nhà xây bằng gạch ngả vàng, cửa hàng được ngăn đôi bằng rào tre để chia khách nam và nữ. Tôi gọi cả hai món đặc biệt của cửa hàng: một chiếc bánh mì pita nhồi đầy viên bột đâu rán falafel và một chiếc club sandwich với trứng tráng và thịt pastrami. Tôi cắn ngập răng và nhai ngấu nghiến hai chiếc bánh, rồi dần dần, khi cơn đói đã lui, tôi cảm thấy cuối cùng mình cũng bám trụ được trong thế giới hư cấu và dần quen với khung cảnh xung quanh.

Sau khi đã hồi sức, tôi thẳng hướng lên khu Bắc Williamsburg. Một cây số rưỡi đường ngập trong sắc màu của mùa hè Anh Điêng*, giữa những cây tiêu huyền lá đã chuyển vàng và những tòa nhà bằng đá sa thạch nâu của đại lộ Bedford.

Cách nói có nguồn gốc từ Bắc Mỹ, chỉ khoảng thời gian cuối thu, đầu đông, khi ngày ngắn đi, thường diễn ra vào cuối tháng Mười, đầu tháng Mười một ở bán cầu Bắc.

Khi tôi tới ngã tư giao giữa phố Berry và phố Broadway, hình dáng tòa nhà Lancaster trông còn oai vệ hơn trong tiểu thuyết của tôi. Khoảng chục tay thợ ảnh và phóng viên đi đi lại lại chờ đợi trước cửa kính một hiệu giặt tự phục vụ: những tay lính quèn buồn bã và mệt mỏi, những lính bấm máy nhỏ mọn làm nô lệ cho sự tục tĩu chợt thoáng tỉnh cơn uể oải khi thấy tôi đi vào trong tòa nhà.

Tôi đang đứng trong tiền sảnh mới toanh, xa hoa hơn cả tưởng tượng của tôi: gạch lát là đá hoa Carrara, ánh sáng dịu nhẹ, tường ốp bằng gỗ thô và độ cao của trần nhà thật ấn tượng.

– Tôi giúp gì được không, thưa ngài?

Trevor Puller Jones, người trông coi sảnh tòa nhà, ngước len từ màn hình. Ông ta giống hệt như tôi nghĩ trong đầu. Đóng bộ cứng đơ trong chiếc áo vest nâu thêu những dải viền vàng, có vẻ ông ta coi tôi là một trong số những tên rêu rao tin đồn nhảm mà ông ta đã phải giải quyết kể từ khi bắt đầu “vụ Conway”. Suốt vài giây, tôi đứng như trời trồng trước mặt ông ta, miệng há hốc, do dự chưa biết nên làm gì tiếp theo. Rồi tôi quyết định.

– Xin chào, tôi muốn lên nóc tòa nhà.

Trevor nhướng mày.

– Vì lý do gì vậy, thưa ông?

Như mọi khi, tôi tỏ ra thực thà:

– Tôi nghĩ cô Conway đang gặp nguy hiểm.

Người gác cổng lắc đầu.

– Còn tôi, tôi nghĩ ông nên rời khỏi nơi này.

– Tôi năn nỉ đấy. Nếu ông không muốn vụ tự sát của cô ấy đè nặng lương tâm, tốt hơn ông nên để tôi đi lên.

Lần này, Trevor Fuller Jones buông một tiếng thở dài bực dọc, và bất chấp thân hình nặng nề, ông ta nhổm dậy sau quầy lễ tân. Nhanh như chớp, ông ta nắm cánh tay tôi kéo ra tận cửa, không chút nể nang. Tôi cố chống cự, nhưng ông ta cao đến hơn một mét chín và nặng ít nhất phải một trăm mười cân. Khi ông ta sắp sửa tống được tôi ra vỉa hè, tôi nhận ra tương quan sức mạnh giữa hai bên không phải như tôi tưởng. Và tôi sở hữu mọi vũ khí để vô hiệu hóa đối thủ của mình.

– Đừng ép tôi phải kể toàn bộ cho Bianca!

Người gác cổng khựng lại. Ông ta tròn mắt, như thể không chắc chắn về những gì mình vừa nghe thấy. Tôi nhắc lại:

– Nếu không để tôi vào, ông sẽ gặp nhiều vấn để với Bianca đấy.

Ông ta bóp chặt hơn nữa quanh tay tôi.

– Vợ tôi có dính dáng gì đến chuyện này? ông ta gầm gừ.

Tôi nhìn Puller Jones không chớp mắt. Làm sao để ông ta hiểu ông ta chỉ là một trong số những nhân vật do tôi sáng tạo ra? Một vai phụ trong một câu chuyện đang viết dở chỉ tồn tại trong tâm trí tôi? Nhất là làm thế nào để ông ta hiểu rằng tôi biết mọi thứ về cuộc đời ông ta?

– Bianca hẳn sẽ thích các tin nhắn SMS và những bức ảnh mà ông đều đặn gửi cho Rita Beecher, cô thợ cắt tóc trẻ chỉ mới mười chín tuổi mà ông đã gặp ở tiệm cắt tóc Sweet Pixie trên phố Jackson.

Đó là một trong những thói quen của tôi với tư cách tiểu thuyết gia: trước khi bắt đầu viết, tôi xây dựng tỉ mỉ các nhân vật bằng cách soạn cho mỗi nhân vật một phiếu tiểu sử chi tiết. Kể cả khi ba phần tư những chi tiết đó sẽ không xuất hiện trong sách, nhưng chúng vẫn là phương tiện không thể thiếu để hiểu hơn về họ.

– Tôi không biết liệu vợ ông có thấy vui không khi biết ông viết cho Rita những thứ kiểu như: “Anh nghĩ về cặp mông em suốt cả ngày” hay “Anh muốn bắn hạt giống của anh lên ngực em để xem chúng nảy mầm.”

Mặt ông gác cổng biến sắc, dấu hiệu cho thấy tôi đã chạm đúng điểm yếu. Tôi nhớ lại câu nói của Malraux: nhìn chung con người chính là “thứ họ che giấu, một đống bí mật nho nhỏ khốn khổ”.

– Nhưng, làm sao ông biết? ông ta ấp úng.

Tôi giáng cho ông ta đòn kết liễu:

– Tôi còn lo ngại phản ứng của bà ấy khi phát hiện nhân dịp lễ Tình nhân, ông đã tặng Rita một chiếc ghim cài bằng bạc tráng men có giá tám trăm năm mươi đô la. Còn bó hoa ông mang về tặng vợ lần đó thì giá bao nhiêu nhỉ? Hai mươi đô la, tôi đoán vậy.

Fuller Jones gục đầu xuống và thả tôi ra. Lúc này, trước mắt tôi chỉ là một con búp bê vải vô hại. Khi ta đang cảm thấy tội lỗi thì thật khó mà tỏ ra hung hăng được.

2

Tôi bỏ mặc ông ta sau lưng và tiếp tục tiến bước. Ở cuối sảnh dàn ra ba chiếc thang máy có cửa bằng đồng gò. Tôi ấn gọi một thang rồi nhấn vào nút Rooftop. Buồng thang rung lên kèm theo tiếng kèn kẹt của kim loại. Khi cửa thang khép vào, trong lúc di chuyển tới điểm đến, tôi nhận ra còn phải leo bộ thêm một tầng mới lên được nóc tòa nhà.

Lên đến nơi, tôi bị bất ngờ trước một cơn gió mạnh. Tôi che tay chắn trước trán rồi bước vào sân cầu lông. Khung cảnh thật đáng ngạc nhiên. Còn say lòng hơn cả trong bản thảo của tôi. Những bầu trời, hãy còn trong veo và sáng sủa vài phút trước, đã chuyển đen kịt. Gần như miễn cưỡng, tôi dừng lại một chút dể ngắm nhìn toàn cảnh ấn tượng. Phía bên kia eo biển, nổi bật trên đường thẳng ánh kim loại của những dãy nhà chọc trời là những biểu tượng huyền thoại của các công trình kiến trúc New York: hai cây cột của cầu Williamsburg, tòa nhà Empire State, chỏm tháp nhọn của tòa Chrysler Building, dáng to bè của tòa nhà MetLife.

– TA CHO MI BA GIÂY ĐỂ NGĂN TA LÀM CHUYỆN NÀY: MỘT, HAI, B…

Bị những tiếng thét làm choàng tỉnh khi đang lặng ngắm, tôi giật mình quay phắt lại. Ở đầu kia sân, chỗ gần bể nước, tôi trông thấy Flora Conway. Cô ta đang cầm khẩu súng của Rutelli gí vào thái dương và chuẩn bị bắn.

– Dừng lại! tôi hét lên để cho biết sự có mặt của mình.

Một cách ngây thơ, tôi tự nhủ khi trông thấy tôi, Flora sẽ thôi cảnh giác. Nhưng, cũng hoảng sợ y hệt tôi, cô ta nhìn tôi thách thức bằng đôi mắt màu ngọc thạch.

– Nào, đừng làm chuyện ngu ngốc. Đặt súng xuống đi.

Cô ta chầm chậm hạ khẩu Glock xuống, nhưng thay vì thả ra, cô ta chĩa nó về phía tôi.

– Ối chà! Chúng ta nói chuyện được không?

Thay vì dịu bớt, Flora nắm báng súng bằng cả hai tay và quặp ngón tay vào cò súng, giơ về phía tôi, sẵn sàng khai hỏa.

Khi ấy tôi chợt hiểu ra rằng trái ngược với ông gác cổng, tôi tuyệt đối không thể làm gì để chống lại Flora Conway. Tôi tưởng tôi đang ở trên lãnh địa của mình, nhưng hoàn toàn không phải vậy. Lúc này, tôi cay đắng hối hận vì đã nghe lời Jasper và Diane Raphaël. Thật dỗ dàng cho họ khi đứa ra những lời khuyên mà không phải xử lý. Thế giới hư cấu rất nguy hiểm, tôi vẫn luôn biết điều đó. Cũng như tôi vẫn luôn biết là sẽ cực kỳ mạo hiểm khi liều lĩnh bước vào vùng đất này. Tôi sẽ kết thúc đời mình một cách thê thảm với hai viên đan găm vào người được bắn từ một nhân vật sinh ra từ trí tưởng tượng của tôi. Câu chuyện cuộc đời tôi từ khi còn nhỏ. Luôn luôn cùng một kẻ thù duy nhất: chính bản thân tôi.

– Flora, tỉnh táo lại đi. Thực sự cần có một cuộc nói chuyện giữa hai chúng ta.

– Anh là ai, mẹ kiếp?

– Tôi tên là Romain Ozorski.

– Không quen.

– Có, cô biết rõ mà, là tôi: kẻ thù, tên khốn, tiểu thuyết gia…

Tôi cố che giấu nỗi sợ của mình. Flora vẫn tỏ thái độ phòng vệ, vừa tiếp tục ngắm bắn tôi vừa tiến lên.

– Vậy anh từ đâu tới?

– Từ Paris. Paris ngoài đời thực.

Cô ta cau mày. Lúc này, cô ta chỉ còn cách tôi vài mét. Tuy có nhiều mây thấp, nhưng một lỗ hổng trên bầu trời làm những tia nắng phản chiếu xuống sông Đông. Flora gí nòng khẩu Glock lên trán tôi. Tôi nuốt nước bọt trước khi cố thuyết phục cô ta lần cuối.

– Tại sao lại giết tôi trong khi chính cô đã yêu cầu tôi đến!

Tôi nghe thấy hơi thở của cô ta: nặng nề, hổn hển, giật cục. Xung quanh chúng tôi, cảnh vật run rẩy và phình ra như trong một tấm gương phóng đại. Sau một hồi lâu do dự, và vào thời điểm tôi ít ngờ tới nhất, cô ta hạ súng xuống rối nói:

– Sẽ tốt hơn nếu anh cho tôi một lời giải thích hợp lý chết tiệt.

3

Khu bến cảng Brooklyn

Tôi bước vào cuộc đời Flora Conway mới chưa đầy một giờ đồng hồ, nhưng cô ta ở trong cuộc đời tôi thì lâu hơn thế rất nhiều. Sau cuộc cãi vã trên nóc tòa nhà Lancaster, tôi đã thuyết phục được cô ta để có một cuộc nói chuyện bình tĩnh.

Cuộc trao đổi đầu tiên này thật sự gây bối rối, vì Flora chấp nhận khá nhanh sự trái khoáy của hoàn cảnh. Một khe hở đã mở ra ở sâu trong ý thức của cô. Khi xé tan lớp màn ngăn cách cô với sự thật, Flora đã mãi mãi ra khỏi hang. Bởi vậy, cô không mất thời gian chối bỏ mình là một nhân vật tiểu thuyết. Điều mà cô không chấp nhận, trái lại, là việc tôi ngừng viết câu chuyện về cô. Chúng tôi bắt đầu cãi cọ, và bởi Flora đang thấy ngột ngạt trong căn hộ của mình, cô đưa tôi đến một quán bar kiểu Brasil ở Williamsburg.

Nằm dọc khu bến cảng, Favela là quán bar nằm gọn bên trong một ga ra cũ nhìn ra khoảng sân có mái che đầy ắp khách vào giờ ăn trưa, người dân xung quanh gọi nơi này là “vườn bia.” Vì không biết rõ mình có bao nhiêu thời gian, nên tôi lập tức đi thẳng vào vấn đề:

– Tôi sẽ không viết tiếp câu chuyện của cô nữa, Flora ạ. Tôi đến đây chính là để nói với cô điều này.

– À, nhưng anh không thể tự quyết định chuyện đó một mình.

– Cô biết rõ là có thể mà.

– Vậy cụ thể như thế nghĩa là sao?

Tồi nhún vai.

– Nghĩa là tôi sẽ dừng làm việc với câu chuyện này. Tôi sẽ không nghĩ về nó nữa và chuyển sang thứ khác.

– Anh sẽ xóa các tập tin trong ổ cứng, phải vậy không? Anh sẽ cho cuộc đời tôi vào thùng rác chỉ bằng một cú nhấp chuột đơn giản trên máy tính?

– Nói như thế có hơi giảm nhẹ, nhưng cũng không sai.

Cô nhìn tôi chằm chằm với ánh mắt đầy giận dữ. Thực tế, khuôn mặt cô trông hiền hơn trong tưởng tượng của tôi. Cô mặc một chiếc váy len chui đầu màu kem, một áo khoác bò ôm sát và đi đôi giày cổ thấp màu cánh gián. Sự cứng rắn của cô không nằm ở ngoại hình, nó nằm trong ánh nhìn, sự nôn nóng, những lúc chuyển giọng.

– Tôi sẽ không để anh tự ý làm gì thì làm, cô nói bằng giọng kiên quyết.

– Hãy tỉnh táo đi, cô không hề tồn tại!

– Nếu tôi không tồn tại, thì anh đang làm cái quái gì ở đây?

– Đây là một dạng luyện tập, theo sáng kiến từ đại diện của tôi và một bác sĩ tâm thần. Một điều ngu ngốc, thừa nhận với cô là thế.

Một nhân viên pha chế mặc áo may ô tay xăm kín mang đến hai cốc cocktail caipirinha mà chúng tôi đã gọi. Flora uống một hơi hết nửa cốc rồi nói:

– Tôi chỉ yêu cầu anh một việc, là trả lại con gái cho tôi.

– Tôi không phải người đã mang cô bé khỏi cô.

– Khi viết, người ta phải chịu mọi trách nhiệm.

– Tôi chẳng có trách nhiệm gì với cô cả. Đối với độc giả thì có, nhưng…

– Độc giả chỉ là cái cớ mị dân, cô cắt lời tôi.

Tôi tiếp tục lý lẽ của mình:

– Tôi có trách nhiệm đối với các độc giả, nhưng chỉ khi tôi lựa chọn xuất bản một câu chuyện. Điều này không phải trường hợp câu chuyện của cô.

– Vậy tại sao anh lại viết nó?

– Còn cô, cô xuất bản tất cả những gì cô viết ư? Tôi thì không.

Tôi uống một ngụm rượu và nhìn quanh. Thời tiết đã trở lại êm dịu đến không thể tin được. Nơi này thật độc đáo, với phần mái kẽm thủng là dàn leo của cây trinh đằng năm lá và chiếc food truck cũ bán bánh taco. Quả đúng là quán rượu ngoại ô phiên bản salsa.

– Điều cốt yếu của sáng tạo, là thử nghiệm nhiều thứ, thử nữa và thử mãi, không nhất thiết phải đi đến cùng hoặc muốn để lại dấu ấn. Mọi môn nghệ thuật đều như vậy. Soulages đã đốt hàng trăm bức tranh mà ông không vừa ý, Bonnard đến sửa lại tranh của mình treo trong bảo tàng, Soutine mua lại tranh của mình từ những người bán tranh để trau chuốt lại. Tác giả là chúa tể đối với tác phẩm của mình, không phải ngược lại.

– Thôi trình bày luận điệu của anh đi…

– Điều tôi muốn nói đó là, cũng giống như một nghệ sĩ piano, tôi cần phải tập chạy gam. Ngày nào tôi cũng viết, kể cả Chủ nhật, kể cả lễ Giáng sinh, kể cả khi tôi đang đi nghỉ. Tôi bật máy tính và viết các đoạn truyện, các truyện ngắn, các suy ngẫm. Nếu thứ tôi viết ra mang lại cảm hứng, tôi sẽ viết tiếp. Nếu không, tôi chuyển qua thứ khác, chỉ đơn giản vậy thôi.

– Vậy thứ gì không “mang lại cảm hứng” cho anh trong câu chuyện của tôi?

– Chuyện của cô làm tôi thấy chán như con gián. Vậy đấy! Tôi không có hứng viết. Tôi không thấy thú vị.

Flora ngước mắt lên trời (và giơ tay ra hiệu cho phục vụ rằng cô muốn một cốc cocktail nữa).

– Nếu viết mà thú vị, thì ai cũng viết rồi.

Tôi thở dài và nghĩ tới Nabokov, người từng tuyên bố rằng các nhân vật của ông là những “tên tù khổ sai”. Những nô lệ trong một thế giới mà ông là “độc tài tuyệt đối”, “người duy nhất chịu trách nhiệm về sự ổn định và cái đúng trong thế giới đó”. Nhà văn thiên tài người Nga đã rất có lý khi không để mình dính líu vào. Còn tôi, tôi lại ở đây, nói chuyện lăng nhăng với một tạo vật ảo sinh ra từ trí óc mình…

– Nghe này, Flora, tôi không tới đây để tranh luận với cô văn học là phải thế nào.

– Anh không thích các tiểu thuyết của tôi à?

– Không hẳn.

– Vậy tại sao?

– Chúng quá tự phụ, kiểu cách, tinh hoa chủ nghĩa.

– Hết chưa?

– Chưa. Điều tồi tệ nhất…

– Anh nói đi.

– … là chúng không bao dung.

Bất chấp quy định cấm hút thuốc tại đây, cô vẫn châm một điếu thuốc và nhả ra một ngụm khói.

– Cái chứng chỉ bao dung của anh, anh có thể…

– Chúng không bao dung bởi vì cô không nghĩ đến độc giả. Đến niềm vui mà việc đọc mang lại. Đến cảm giác độc nhất chiếm trọn lấy cô khi cô háo hức trở về nhà vào buổi tối để đọc tiếp một cuốn truyện hay. Tất cả những điều đó là một thứ rất trừu tượng đối với cô. Vậy đấy, bởi thế mà tôi không thích các tiểu thuyết của cô: vì chúng quá lạnh lùng.

– Xong chưa? Anh đã kết thúc bài diễn văn nho nhỏ của mình chưa?

– Rồi, và tôi nghĩ chúng ta cũng sẽ dừng trò chuyện.

– Bởi vì anh đã quyết định thế?

– Bởi vì chúng ta đang ở trong tiểu thuyết của tôi. Dù cô có chấp nhận hay không, thì tôi cũng là chúa tể duy nhất ở trong này. Tôi là người quyết định tất cả, cô hiểu chứ? Cũng bởi vì thế mà tôi đã muốn trở thành nhà văn.

Cô nhún vai.

– Anh muốn trở thành nhà văn vì việc đó cho anh thỏa mãn khao khát làm tên bạo chúa khiến các nhân vật kinh sợ?

Tôi thở dài. Nếu định khiến tôi mềm lòng, thì cô ta đi sai nước rồi. Mặt khác, những lời của cô ta lại làm nhiệm vụ của tôi thêm dễ dàng.

– Nghe này, Flora, tôi sẽ nói thật lòng. Cả ngày lẫn đêm, bảy ngày một tuần, tôi bị cả thế giới kéo vào đủ thứ rắc rối, không phút nào ngừng. Vợ tôi, nhà xuất bản của tôi, người đại diện của tôi, kho bạc, tòa án, các phóng viên. Tên thợ sửa ống nước chết tiệt tôi đã gọi ba lần mà hắn không đến sửa chỗ rò nước cho tôi, những kẻ muốn tôi dừng ăn thịt hoặc muốn tôi đừng đi máy bay nữa hoặc muốn tôi cai thuốc hoặc không muốn phục vụ tôi đến ly rượu thứ hai hoặc đòi hỏi tôi phải ăn năm loại rau quả mỗi ngày. Những kẻ cực kỳ nghiêm túc nói với tôi rằng dù là tiểu thuyết gia, tôi cũng không thể đặt mình vào hoàn cảnh của một người phụ nữ, hoặc một đứa thiếu niên hoặc một lão già hoặc một người Trung Quốc, hoặc nếu tôi có làm được vậy, tôi sẽ phải đọc lại các truyện mình đã viết để chắc chắn là chúng không xúc phạm ai. Tôi chán ngấy vũ hội của những kẻ quấy rầy đó rồi và…

– Được rồi, tôi nghĩ là tôi đã hiểu ý anh, Flora ngắt lời tôi.

– Ý tôi là, tôi sẽ không để mình gặp rắc rối vì ai nữa và càng không phải vì một nhân vật tiểu thuyết chỉ tồn tại trong đầu tôi.

– Anh biết gì không? Anh rất đúng đắn khi đã đi gặp bác sĩ tâm thần.

– Còn cô, có lẽ cô cũng cần một phiếu khám đấy! Lần này, tôi nghĩ chúng ta đã nói hết với nhau.

– Vậy, anh sẽ không trả Carrie cho tôi?

– Không, vì tôi không phải người lấy mất cô bé khỏi cô.

– Rõ ràng anh không có con.

– Cô thật sự tin rằng tôi sẽ bắt tay vào viết câu chuyện này mà bản thân lại không có con ư?

– Tôi sẽ nói với anh một điều, Ozorski. Anh có thể xóa tập tin trong máy tính, nhưng anh không thể xóa nó trong đầu.

– Cô không thể làm gì chống lại được tôi.

– Đó là anh tưởng vậy thôi.

– Giờ thì, ciao.

– Anh sẽ trở về bằng cách nào?

– Như thế này: một, hai, ba! tôi vừa nói vừa đếm ngón tay.

– Nhưng anh vẫn còn ở đây đấy thôi.

Tôi gập ngón cái và ngón trỏ. Chỉ còn ngón giữa đang chĩa về phía cô ta.

Flora lắc đầu khi tôi dần tan biến trước mắt.