← Quay lại trang sách

Chương 9 Mạch truyện

Cái thời anh ấy tìm thấy hạnh phúc trong một thế giới sinh ra hoàn toàn từ trí tưởng tượng của mình đã từ lâu lắm rồi.

John IRVING

1

New York - 5 giờ chiều.

Đằng sau mí mắt tôi, một tấm màn ánh sáng rung rinh. Xung quanh tôi có tiếng ì ầm nho nhỏ. Tôi mở mắt. Một quầng sáng màu cam ngập tràn khắp nơi. Tôi trôi trên bầu trời vàng cam. Chìm trong ánh nắng, cabin của hệ thống cáp treo trôi qua đỉnh những tòa nhà ở khu Midtown và dòng nước sông Đông. Khoang cáp treo - chở theo vài vị khách du lịch và một số người New York sau ngày làm việc của họ - chuẩn bị đáp xuống đảo Roosevelt.

Đầu óc mụ mị, hai chân như sắp khuỵu xuống, tôi không có một ý tưởng nào dù là nhỏ nhất rằng mình sẽ làm gì ở đây. Một lần nữa, tôi lại có cảm giác nghẹt thở như lần đầu xuất hiện trong thế giới này. Có lẽ áp lực không khí trong thế giới hư cấu không giống như ở ngoài. Ngay sau đó là cảm giác đói cồn cào, như thể tôi không có gì bỏ bụng từ lâu lắm rồi và giờ tôi đang bị hạ đường huyết.

Cabin đã tới điểm cuối. Tôi biết đảo Roosevelt. Đó là một hòn đảo nhỏ xíu, một dải đất hẹp không mấy hấp dẫn nằm giữa Manhattan và quận Queens. Tôi muốn nói chuyện với Flora Conway, nhưng không đoán ra được cô ta đang ở đâu.

Nhưng, mày mới là chủ nhân chứ, một giọng nói thì thầm trong đầu tôi. Phải, có lẽ vậy. Tôi biết lời văn đang được viết theo dòng ý tưởng ập đến ở phía bên kia bộ não của tôi, nửa kia của tôi dẫn đường cho tôi, đang ngồi sau màn hình cùng với tách trà và chiếc khăn choàng.

Để tìm manh mối - hay cảm hứng tôi nhìn quanh mình. Trong số những người rời khỏi cabin, tôi để ý thấy một gã trẻ tuổi - bộ râu hung đỏ, áo sơ mi kẻ ca rô, đội mũ phớt vành hẹp - cầm trên tay một máy quay chuyên nghiệp và vai đeo chiếc túi to đựng đồ nghề. Có thể hắn là phóng viên. Tôi quyết định bám theo hắn.

Hòn đảo chỉ lớn hơn chiếc khăn mùi soa. Mất chưa đầy mười phút, chúng tôi đã tới mũi đảo phía Nam. Tại đây có bệnh viện Blackwell án ngữ, một cơ sở điều trị được mọi người đặt biệt danh là Lầu Năm Góc vì hình dáng tòa nhà có năm mặt tiền. Ngay lúc tôi bước vào bên trong thì cơn đói cồn cào dâng lên dữ dội. Một cơn choáng váng khiến tôi phải dừng chân và tôi mất dấu tay phóng viên.

Lần này tôi thực sự thấy nguy kịch, gần như phải đầu hàng. Một cơn đau dữ dội cào xé trong bụng, trong mạch máu tôi như có lửa đốt và tay chân như bị đổ bê tông. Tôi phải ăn gì đó để trụ lại được trong thê giới hư cấu. Tôi quay lại để xem kỹ sơ đồ bệnh viện mà tôi đã phát hiện thấy ở lối vào. Trên sơ đồ cho biết sự hiện diện của một quán ăn nhanh thuộc hệ thống Albertos, một điều khá phi lý bởi thương hiệu này chuyện kinh doanh loại thức ăn sẽ làm tăng vọt lượng cholesterol của bạn.

Quán fast-food được đặt trong một toa tàu lớn mạ crôm. Tôi leo lên ngồi vào một chiếc ghế đẩu bọc da màu đỏ trong loạt ghế xếp thẳng hàng ở quầy và gọi món “có thể được mang ra nhanh nhất”. Gần như ngay lập tức, trước mắt tôi là hai quả trứng nằm trên một miếng bánh mì nướng, tôi nhai chúng ngấu nghiến như vừa tỉnh dậy sau khi nhịn đói mười ngày.

Một cốc Coca và một ly cà phê giúp tôi lại sức. Sau khi tỉnh táo trở lại, tôi nhìn quanh căn phòng của coffee shop. Bên cạnh tôi, một tờ New York Post được đặt trên quầy. Đập vào mắt tôi là dòng tiêu đề trên trang nhất. Tôi vớ lấy tờ báo và giở ra để đọc bài báo đó.

Nữ tiểu thuyết gia Flora Conway nhập viện sau ý định tự sát

Brooklyn - Tối thứ Ba ngày 12 tháng Mười, cảnh sát và các lực lượng cấp cứu đã được gọi tối nơi ở của Flora Conway vào khoảng 22 giờ. Được phát hiện đã bất tĩnh, mạch máu trên cô tay bị cắt, cô được chuyển tới bệnh viện Blackwell đảo Roosevelt trong tình trạng nguy kịch.

Lo lắng vì không nhận được tin tức từ nhà văn, biên tập viên nhà xuất bàn và đồng thời là bạn cô, Fantine de Vilatte, đã liên lạc với người gác cổng của Lancaster, một tòa chung cư ở Williamsburg, để báo động.

Theo một nguồn tin từ người tham gia đêm cấp cứu, nữ tiểu thuyết gia đã tỉnh lại và qua cơn nguy kịch. Một thông tin được cô de Vilatte xác nhận: “Sau hành động đáng tiếc này, Flora đang dần hồi phục. Như các vị đã biết, từ vài tháng nay cô ấy trải qua một giai đoạn cực kỳ khó khăn. Cá nhân tôi sẽ làm mọi việc trong khả năng của mình để bạn tôi vượt qua được những thử thách này.” Xin nhắc lại rằng ý định tự sát này xảy ra sáu tháng sau vụ mất tích của con gái cô Flora Conway, cô bé Carrie, bé…

2

Tôi ngẩng lên khỏi tờ báo. Cuối cùng tôi cũng biết Flora đang ở đâu và tại sao cô ta lại ở đó. Trong lúc chuẩn bị rời khỏi quán ăn nhanh, tôi nghĩ mình nhận ra một dáng người quen thuộc ở trong góc nhà hàng. Bộ ria muối tiêu rậm, đầu hói, bụng phệ: Mark Rutelli đang ngồi trong một ngăn riêng, hơi uể oải trên chiếc ghế băng giả da. Tôi rời khỏi quầy để đến chỗ ông ta. Chìm trong những suy nghĩ riêng, ông ta để mặc chiếc bánh hamburger và suất khoai tây rán nguội ngắt, nhưng đã uống cạn vài cốc bia.

– Ta quen nhau không? ông ta hỏi tôi, vẻ ngờ vực, khi tôi ngồi xuống trước mặt ông.

– Theo một cách nào đó.

Chính tôi đã đưa ông đến với cuộc đời, nhưng không cần gọi tôi là bố đâu.

Bản năng cảnh sát của ông ta nhìn thấu tôi ngay lập tức:

– Anh không phải người ở đây, phải không?

– Không, nhưng chúng ta đang ở cùng một phe.

– Phe nào?

– Tôi là một người bạn của Flora Conway, tôi giải thích.

Nghi ngại, ông ta nhìn tôi chòng chọc như để cố dò thấu trong đầu và trong bụng tôi có gì. Tôi nhớ tới những ghi chép và những phiếu tiểu sử tôi đã soạn kỹ trước khi bắt đầu viết câu chuyện này. Tôi hiểu rõ Rutelli: một người tốt bụng, một cảnh sát có lương tâm. Suốt cuộc đời, ông ta chiến đấu để thoát khỏi nanh vuốt của bệnh trầm cảm và chứng nghiện rượu kinh niên đã tàn phá sự nghiệp, gia đình, những mối tình của mình. Sự nhạy cảm thái quá giết dần giết mòn ông. Một cái tên nữa trong danh sách dài những nạn nhân của lời nguyền lên những người tử tế, quy luật tàn nhẫn hủy hoại những người không được trang bị vũ khí để đối đầu với sự bạo tàn và vô liêm sỉ.

– Tôi mời ông một cốc bia nhé? tôi hỏi và giơ tay để gọi người phục vụ.

– Tại sao không. Ít nhất trông anh không giống bộ mặt một tên sâu bọ. Hoặc có thể anh giả vờ rất giỏi.

– Một tên sâu bọ ư?

Ông hất đầu về phía cửa sổ. Tôi nheo mắt để nhìn qua.

Khoảng chục người đàn ông và phụ nữ, nằm vạ vật trên những bậc thang. Đây chính là nhóm “phóng viên” tôi gặp ở Williamsburg, trước căn hộ của Flora. Đơn giản là họ đã chuyển địa điểm sang đảo Roosevelt.

Bia của chúng tôi tới, Rutelli uống một hơi cạn một phần ba cốc rồi đặt cho tôi mệt câu hỏi khó:

– Anh biết họ đang chờ cái gì không?

– Flora ra viện, tôi đoán.

– Cái chết của Flora, ông ta sửa lại. Họ chờ cô ấy ngỏm.

– Đừng phóng đại quá.

Ông ta chùi bọt bia trên ria.

– Nhìn những chiếc máy quay đó đi! Chúng chĩa về phòng của cô ấy, trên lầu bảy.

Để xác nhận lời mình nói, ông đứng dậy và vật lộn như điên với chiếc cửa sổ có cánh lật vào trong. Rồi ông cũng làm cho nó ngửa ra được trên trục ngang, hé mở nửa phía trên. Chừng đó đủ để chúng tôi nghe được những đoạn trò chuyện của nhóm người. Thực sự cũng không phải thứ gì hay ho để nghe. “Nếu cô ta phải chết, thì nên chết luôn! Đợi đến đít mọc cả rễ lên rồi”, một gã ngu ngốc to xác cằm chìa tai vểnh thốt ra. Khoác một chiếc áo măng tô đen như áo choàng, hắn tạo cho mình dáng vẻ bí ẩn. “Ánh sáng hoàn hảo, chết tiệt! Với mặt trời thấp thoáng phía sau, tôi có thể quay cho cô một cảnh đúng theo phong cách Scorsese*!” tay quay phim mà tôi đi theo từ điểm dừng cáp treo nói luyên thuyền. Người phụ nữ duy nhất trong nhóm cũng không kém cạnh. “Chúng ta thì lạnh sun cả vòi”, cô ta vừa nói vừa cười phá lên, thích thú với câu đùa lố bịch của mình. Rồi cô ta cất giọng hát một bài: “Cô ta sắp chết! Cô ta sắp chết! sau đó hát đồng thanh cùng những người khác trong hội: “Cô-ta-sắp-chết! Cô-ta-sắp-chết!”

Martin Scorsese: đạo diễn, nhà sản xuất phim, biên kịch và diễn viên của điện ảnh Mỹ.

Dù đã đi quá giới hạn cuối cùng của sự khiếm nhã, nhưng họ vẫn tiếp tục đào sâu. Sự khiêu dâm của thông tin giải trí. Sự buồn nôn. Cơn nôn ọe.

– Ngay từ đầu, đó là điều họ mong đợi, Rutelli than vãn: vụ tự sát của Flora. Cái chết để khép kín vòng tròn. Với nhiều bức ảnh trực tiếp nếu có thể. Một đoạn clip ngắn ba mươi giây, một đoạn ảnh động cảnh cô ấy rơi xuống. Hoàn hảo để câu lượt like và retweet.

– Ông biết số phòng của Flora không?

– Phòng 712, nhưng nhân viên bệnh viện không cho tôi vào.

Ông ta uống nốt cốc bia và dụi mắt. Tôi thích ánh mắt của ông, trong đó hiện rõ sự mệt mỏi vô hạn nhưng cũng có cả vài đốm lửa sẽ lại nhen lên.

– Đi nào, tôi nói, tôi thì họ sẽ cho qua.

3

Thang máy đưa chúng tôi lên lầu bảy. Chúng tôi vừa đi qua sảnh bệnh viện mà không gặp trở ngại gì. Không ai hỏi chúng tôi bất kỳ câu hỏi nào, như thể chúng tôi là nhân viên bệnh viện. Rutelli cảm thấy vừa bối rối vừa khâm phục.

– Làm thế nào anh làm được? Anh là ảo thuật gia hay gì?

– Không, con trai tôi mới là ảo thuật gia. Còn tôi là một loại khác.

– Tôi không hiểu.

– Tôi nghĩ mọi người có thể nói tôi là chủ nhân.

– Chủ nhân của cái gì?

– Của tất cả. Thật ra thì, của thế giới này.

Lông mày nhíu lại, ông ta nhìn tôi chằm chằm.

– Anh tưởng mình là Chúa à?

– Sự thật thì tôi là một dạng chúa nào đấy.

– Vậy đấy…

– Nhưng ông đừng nghĩ rằng chuyện đó ngày nào cũng dễ dàng.

Ông ta lắc đầu, rõ ràng đang nghĩ là tôi loạn trí hoàn toàn rồi. Tôi định nói thêm với ông ta về chuyện đó, nhưng cửa thang máy đã mở dẫn vào một hành lang dài hẹp được một y tá nam có bộ dạng kỳ quặc trông coi: một gã khổng lồ lực lưỡng có nửa khuôn mặt bị bỏng hoàn toàn.

– Chúng tôi tới thăm cô Conway, phòng 712. Cô ấy thế nào rồi?

– Công chúa không muốn ăn gì, gã Hai-Mặt trả lời gọn lỏn và chỉ cho chúng tôi thấy cái khay kim loại.

Tuy nhiên bữa ăn trông có vẻ ngon lành: dưa chuột ngâm trong một thứ nước khả nghi, món cá màu xam xám tỏa mùi khắp hành lang, nấm dai như cao su, táo héo.

Mặc dù gã y tá có thân hình đồ sộ, nhưng Rutelli cũng đi qua và gạt hắn ta sang bên như một cỗ máy ủi, và tôi lao theo ông ta vào phòng 712.

Căn phòng được bày biện khắc khổ: một chiếc giường hẹp, một chiếc ghế Bertoia bằng kim loại trần trụi và một chiếc bàn làm việc bằng gỗ ép, phía trên là chiếc điện thoại treo tường bằng nhựa bakelite màu đỏ để gọi cấp cứu.

Flora Conway đang nằm trên đệm, ánh mắt lơ đãng, nửa thân trên dựa vào hai chiếc gối.

– Xin chào, Flora.

Cô ta nhìn chúng tôi ma không hề tỏ ra ngạc nhiên. Trong một thoáng, tôi thậm chí có cảm giác điên rồ là cô ta đang đợi chúng tôi.

Rutelli có phần hơi lúng túng. Vốn nhút nhát, ông có vẻ bối rối trong căn phòng chật hẹp này, như thể ông không rõ nên đặt thân mình vào đâu.

– Chắc cô đói lắm, cuối cùng ông ta nói. Đồ ăn trong cái nhà tù này cũng không tệ.

– Tôi đã đinh ninh ông sẽ mang thứ gì đó cho tôi ăn, Mark ạ! Những chiếc bánh blintz pho mát trứ danh ở Hatzlacha của ông đâu rồi?

Như bị bắt lỗi, viên cảnh sát vội đề nghị sẽ quay xuống quán Albertos tìm món gì đó cho cô ăn.

– Họ có rất nhiều loại salad, ông lên tiếng.

– Tôi lại đang nghĩ tới một chiếc bánh burger pho mát chảy ròng ròng bên trong lớp bánh mì giòn tan ngon lành, Flora vặn lại.

– Đồng ý.

– Kèm hành tây…

– OK.

– … dưa chuột bao tử…

– Được.

– … và khoai tây xào.

– Tôi đã ghi đầy đủ vào sổ nhiệm vụ, ông ta cam đoan trước khi rời đi.

Còn lại một mình với Flora, tôi cũng đứng im một hồi. Rồi tôi bước tới và ra hiệu để cô chú ý, đồng thời chỉ vào cổ tay bị băng của Flora:

– Có lẽ không đến mức phải làm như thế.

– Đó là tất cả những gì tôi nghĩ ra để bắt anh phải quay lại.

Tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh trong lúc cô nhìn tôi chòng chọc.

– Cả anh nữa, anh trông cũng không tươi tỉnh cho lắm.

– Tôi từng có những ngày tốt đẹp hơn.

– Khi bắt đầu viết câu chuyện về tôi, anh cũng gửi gắm vào đó một chương trong cuộc đời mình, phải vậy không?

– Một chương ít bi thảm hơn: tôi sắp mất toàn bộ liên lạc với con trai. Vợ tôi đã thao túng để tước quyền nuôi con của tôi và giờ cô ta muốn đưa nó đến sống trong một giáo phái sinh thái ở bang New York.

– Thằng bé mấy tuổi?

– Sáu tuổi.

Tôi lục trong điện thoại để cho cô xem một tấm ảnh chụp Théo mặc chiếc áo choàng Houdini*, đội chiếc mũ chóp cao, với sợi ria mảnh vẽ bằng bút chì trang điếm và chiếc đũa phép.

Ảo thuật gia người Mỹ gốc Hungary.

Cô ấy cũng làm giống tôi và cho tôi xem những bức ảnh của quãng thời gian hạnh phúc: Carrie đang chơi nhảy ô, Carrie trên vòng quay ngựa gỗ ở đảo Coney, Carrie và nụ cười tinh nghịch, cái miệng và một nửa khuôn mặt dính đầy kem sô cô la. Một sự pha trộn của nỗi nhớ nhung và nỗi buồn vô hạn điểm xuyết bằng những trận cười ngặt nghẽo và những giọt nước mắt hòa vào nhau.

– Tôi đã suy nghĩ về những gì anh nói với tôi hôm nọ, một lúc sau Flora cất lời. Tôi cũng vậy, khi viết, tôi thích đẩy nhân vật của mình đến mép vực và xem họ vật lộn.

– Đó là cuộc chơi, tôi nói. Chúng ta vừa run rẩy với họ vừa hy vọng họ sẽ thoát được ngay cả khi không có một lối ra nào. Cho dù trong hoàn cảnh tuyệt vọng, chúng ta vẫn hy vọng họ sẽ tìm được một lối thoát. Nhưng chúng ta vẫn là chủ nhân ở đó. Một nhà văn không thể cho phép mình đầu hàng trước nhân vật.

Căn phòng thừa mứa hơi ấm. Nước chảy trong ống sưởi bằng gang tạo ra tiếng ồn khủng khiếp. Như thể hệ thống sưởi đang tiêu hóa một bữa ăn thịnh soạn quá mức.

– Nhưng ngay cả trong tiểu thuyết, anh cũng biết rõ rằng tự do của người sáng tạo không phải là tuyệt đối, Flora phản bác.

– Theo nghĩa nào?

– Có một sự thực riêng cho từng nhân vật. Khi họ đã được đưa vào, anh không thể bỏ qua một điểm nào trong lai lịch của họ, trong bản chất thật của họ, trong đời sống bí mật của họ.

Tôi tự hỏi cô ấy muốn đưa tôi tới đâu.

– Đến một thời điểm nhất định, cô nói tiếp, những ảo ảnh phải tan biến và những chiếc mặt nạ phải rơi xuống.

Tôi hiểu hơn những lời của cô, nhưng không chắc mình muốn đi theo cô trên địa hạt này.

– Có một thứ mà tiểu thuyết gia nợ những nhân vật của mình, anh Romain ạ. Đó là phần sự thực của họ. Hãy hứa sẽ cho tôi phần sự thực của tôi!

Tôi đứng dậy để quan sát qua cửa sổ kính những tia nắng đang rọi ánh lửa cuối cùng phía sau những tòa nhà nhiều màu sắc của Astoria. Trong phòng nóng đến mức tôi tự cho phép mình mở cửa sổ. Bởi vậy tôi nghe thấy những tiếng la hét vang lên từ dưới lối vào. Cúi xuống xem, tôi thấy Mark Rutelli đang ẩu đả với nhóm phóng viên. Ông vừa tung một cú đấm vào tên mơ làm Scorsese khi nãy. Trong một thoáng, sáu rồi bảy đồng nghiệp của tay phóng viên định lao vào viên cảnh sát để bảo vệ hắn. Nhưng Rutelli, bất chấp cân nặng quá khổ, đánh bật những kẻ tấn công như lũ ruồi. Trong lúc các y tá nam ào tới để chấm dứt vụ xổ xát, điện thoại khẩn cấp của căn phòng chợt réo lên. Tiếng chuông inh ỏi chói tai. Flora nhấc ống nghe, lắng nghe người gọi ở đầu dây bên kia rồi đưa điện thoại cho tôi.

– Là của anh.

– Thật sao?

– Vâng, là vợ anh.

4

– Là của anh.

– Thật sao?

– Vâng, là vợ anh.

Paris - Ba giờ sáng

Trong bóng tối mờ mờ của phòng khách, điện thoại của tôi rung lên trên mặt chiếc bàn làm việc bằng gỗ hồ đào. Trên màn hình, cái tên ALMINE lóe lên thứ ánh sáng hung hăng. Trở về thực tại một cách khó nhọc. Tôi đưa tay ôm đầu. Vẫn là viễn cảnh với những nỗi buồn phiền nặng nề. Vì lý do nào đó, hẳn là Almine đã trở về từ Lausanne ngay trong đêm và phát hiện Théo không có nhà. Rồi đột nhiên, điều hiển nhiên hiện ra trước mắt tôi: cuộc đình công của ngành vận tải. Tôi quyết định không bắt cuộc gọi và, thay vào đó, tôi kết nối vào trang chủ của SNCF*. Trang tải rất chậm, cùng với một thông báo ngắn gọn nhắc nhở rằng bạn chỉ là người dùng chứ không phải khách hàng. Cuối cùng cũng tới được trang của ga Lyon-Part-Dieu và tôi tìm thấy thông tin đang tìm kiếm. Chuyến tàu TGV tới Lausanne đã không đi được quá Lyon. Almine hẳn đã phải kiệt sức chờ đợi một chuyến tàu khác và quyết định quay về Paris. Khi tắt trình duyệt, tôi tháy cô ta để lại cho tôi một tin nhắn thoại dài.

Công ty Đường sắt Quốc gia Pháp.

Tôi bật bản ghi âm, nhưng chẳng có gì khác ngoài tiếng thở mơ hồ và một câu nói lộn xộn mà tôi không hiểu một từ nào. Có lẽ tôi đã lo lắng vô ích. Có thể Almine đã tìm được phương tiện khác để đến Thụy Sĩ và cú điện thoại này chỉ là cuộc gọi vô tình bấm nhầm khi cô ta cất điện thoại. Nhưng tôi vẫn không thể yên tâm hoàn toàn. Không yên lòng vì một linh cảm chẳng lành, tôi quyết định gọi lại cho Almine, nhưng lại nhận được tin trả lời tự động.

Làm sao bây giờ?

Tôi khoác áo bu dông và ra khỏi nhà bằng cửa sau. Mưa đã rơi trở lại. Dày và nặng hạt. Tôi có một chiếc ô tô nhỏ đậu trong một ngăn đậu xe thông ra một con phố nằm vuông góc. Một chiếc Mini Cooper tôi hầu như không sử dụng, nhưng lại khởi động rất mượt. Tôi thực hiện lại hành trình giống như buổi sáng. Vào ba giờ sáng, Paris trống trải và tôi băng ngang sông Seine mất chưa đầy mười phút. Đến bến Arsenal, tôi dế dàng tìm được chỗ đậu trên đại lộ Bourdon, ngay lối vào khu bến du thuyền.

Trùm áo bu dông lên đầu, tôi bước xuống cầu thang dẫn xuống cảng. Dưới cơn mưa, những tảng đá trắng phát sáng như vải toan được phết sơn. Đi được một đoạn ngắn, một tấm lưới sắt chắn ngang đường tôi. Một tấm biển lớn bằng gỗ gắn trên cửa tấm lưới nhắc rằng người dân bị cấm vào bên ban đêm và sẽ có người canh gác mang chó đi tuần.

Chẳng có chó cũng chẳng có mèo nào ở phía trước. Chẳng ai ngu đến mức thò ra ngoài trong thời tiết như thế này. Tôi trèo lên tấm lưới chắn thả mình rơi sang phía bên kìa. Tôi không còn nhớ chính xác nơi đậu của chiếc thuyền trên bến. Dù sao thì có thể nó đã thay đổi vị trí kể từ lần cuối tôi tới đây. Vì chỉ có ánh sáng hắt ra từ những ngọn đèn đường, tôi mất già năm phút mới tìm thấy chiếc thuyền. Lúc ra đi, Almine đến trú trong một chiếc tjark, thuyền buồm kiểu Hà Lan đã tháo cột buồm mà cô ta đòi tôi mua làm quà mừng dịp kỷ niệm năm năm ngày cưới của chúng tôi. Tôi chưa bao giờ thực sự thấy thoải mái khi ở trên chiếc thuyền này, nên hiếm khi bước chân lên đó.

Tôi nhảy lên boong. Chiếc thuyền phát ra ánh sáng yếu ớt, nhưng luồng sáng cho biết trên đó có người.

– Almine?

Tôi gõ cửa buồng lái, không nhận được lời hồi đáp.

Từ buồng lái, tôi bước vào khoang chính. Một phòng khách khá đầy đủ tiện nghi với bàn thấp, trường kỷ, ti vi và một cầu thang nhỏ dẫn lên mái được bố trí làm sân thượng. Chiếc thuyền lắc lư. Qua những tấm kính cửa sổ, tôi thấy làn nước sình bùn của sông Seine. Tôi vẫn bị say sóng, kể cả trên một chiếc thuyền.

– Almine, cô có ở đây không?

Tôi bật đèn flash trên điện thoại và chạy tới hai căn phòng nằm ở một đầu thuyền. Và còn chưa kịp tới nơi, tôi đã trống thấy thân thể vợ mình nằm sõng soài ngang hành lang nhỏ.

Tôi ngồi xổm xuống chỗ ngang đầu cô ta. Cô ta đã bất tĩnh. Đôi môi tái xanh, móng tay tím ngắt. Làn da ẩm ướt và lạnh băng.

– Almine, Almine!

Bên cạnh cô ta là điện thoại di động, một chai Grey Goose và một ống oxycodone. Giờ, tôi tái hiện không khó khăn gì kịch bản diễn ra tối đó. Almine trở về với tâm trạng bực bội, với những cơn đau và có lẽ đã hơi say. Thậm chí, có thể cô ta còn không nhận ra sự vẳng mặt của con trai. Cô ta đã trộn vodka với oxycodone và có thể cả thuốc ngủ. Cách thức kinh điển dẫn tới suy hô hấp.

Tôi lay người cô ta, vạch mí mắt ra. Đồng tử đã co lại chỉ còn bằng đầu kim. Không thể kéo cô ta ra khỏi trạng thái ngủ sâu. Tôi kiểm tra mạch. Mạch đập rất chậm. Hơi thở cô ta yếu, nhưng có tiếng khàn.

Đã nhiều lần tôi cảnh báo Almine: liều dùng các thuốc giảm đau nhóm opioid của cô ta thường xuyên vượt quá liều được kê. Cô ta uống chung chúng với rượu, các loại thuốc ngủ, thuốc chống lo âu. Tôi còn từng trông thấy cô ta đập vụn các viên thuốc, nghiền chúng thành bột để gia tăng tác dụng.

Đây không phải lần dùng thuốc quá liều đầu tiên của Almine. Hai năm trước, cô ta cũng từng bất tỉnh và chính tôi là người cứu sống cô ta bằng thuốc xịt naloxone. Kể từ đó, tôi luôn cất thứ này trong tủ thuốc ở nhà. Hy vọng Almine cũng mang theo nó khi ta đi. Tôi vào phòng tắm và lục tung mọi thứ lên. Cuối cùng tôi cũng tìm thấy thứ thuốc trứ danh đó.

Tôi bóc lớp vỏ bảo vệ của bộ kit. Naloxone không phải thuốc thần, nhưng trước mắt nó giúp giảm tác dụng của moóc phin trong lúc chờ cấp cứu.

Bỗng nhiên tôi ngừng chuyển động, và một hiện tượng kỳ lạ xảy ra. Tôi tách khỏi hành động và trở thành một khán giả từ xa.

Thời gian giãn nở và một điều hiển nhiên hiện ra rõ mồn một. Tôi có thể cứu Almine, nhưng tôi cũng có thể không làm gì cả. Chỉ việc mặc kệ cô ta chết. Và mọi rắc rối của tôi sẽ biến mất cùng cô ta. Théo sẽ vẫn theo học ở Paris và tôi sẽ giành lại được quyền nuôi con. Cái chết vì dùng thuốc quá liều của Almine sẽ làm mất giá trị mọi lời cáo buộc cô ta trút lên tôi và giải thoát tôi khỏi những rắc rối tư pháp và tài chính. Cuộc đời vừa dâng trên khay cho tôi một cú lật ngược tình thế không ngờ.

Tim tôi đập rộn. Cuối cùng tôi cũng nắm quyền kiểm soát, như trong những cuốn tiểu thuyết của tôi. Rốt cuộc, anh xứng đáng với những gì xảy đến với anh: tôi lại thấy gương mặt nghiêm nghị của Kadija đang coi tôi như một tên hèn nhát. Lần này, tôi không được nao núng. Almine đã tự đẩy mình trong vào tình này. Tôi là chủ nhân số phận của mình, kẻ duy nhất có quyền quyết định đẩy cuộc đời mình theo hướng này hay hướng kia. Tôi sẽ nuôi nấng con trai, pha sô cô la cho thằng bé vào mỗi sáng, đọc truyện cho nó mỗi tối, cùng nó đi nghỉ. Không còn sợ mất nó. Cuối cùng cũng được như ý.

5

Tôi bước ra boong. Mưa càng nặng hạt hơn. Vẫn không có bóng người nào. Chẳng nhìn thấy gì cách xa quá mười mét.

Không ai trông thấy tôi vào đây. Có thể có camera theo dõi ở khu vực này của bến, nhưng cũng không thể chắc chắn điều đó. Và ai sẽ đi kiểm tra chứ? Việc dùng thuốc quá liều là quá rõ ràng. Không phải tôi là người giết Almine. Mà là cô ta. Cách hành xử của cô ta, sự điên rồ của cô ta, ý muốn gây tổn hại của cô ta.

Tôi chạy dưới màn mưa. Tôi sẽ thực sự làm thế. Tôi biết mình sẽ không quay lại. Từ xa, tôi mở khóa cửa xe ô tô rồi chui vào buồng lái. Tôi khởi động động cơ ngay lập tức, muốn tách mình xa khỏi chiếc thuyền đó càng nhanh càng tốt. Tôi cài số lùi và bật ra một tiếng thét.

– Chết tiệt! Cô làm tôi sợ hết hồn!

Flora Conway đang ngồi ở ghế cạnh ghế lái. Với mái tóc xơ xác cắt ngang tai, đôi mắt xanh lá nhìn xuyên thấu con người bạn, váy len thêu chui đầu và áo khoác bò.

– Làm sao cô vào được trong chiếc xe này?

– Chẳng có ai khác ngoài anh ở trong chiếc xe này, Romain ạ. Mọi chuyện chỉ xảy ra trong đầu anh, anh biết rõ điều đó mà. Các nhân vật đến ám nhà văn đã ban cuộc sống cho họ: anh nói về chuyện đó suốt trong các cuộc phỏng vấn.

Tôi nhắm mắt lại vài giây và hít một hơi dài, hy vọng khi mở mắt ra Flora Conway đã biến mất. Nhưng mọi chuyện không như vậy.

– Cô biến đi, Flora.

– Tôi đến để ngăn anh gây ra một vụ giết người.

– Tôi chẳng giết ai cả.

– Anh đang làm điều đó đấy. Anh đang giết vợ mình.

– Không, ta không thể nhìn nhận mọi chuyện như vậy. Chính cô ta muốn giết tôi.

– Nhưng ở thời điểm ngay lúc này, cô ấy mới là người đang ngập trong bãi nôn của chính mình.

Một bức màn mưa phủ lên kính chắn gió. Liên tiếp nhau, hai tia chớp xé toạc bầu trời, ngay sau đó là tiếng sấm nổ ầm ầm.

– Cô vui lòng đừng làm phức tạp mọi chuyện với tôi. Hãy quay về nơi cô xuất phát. Mỗi người có những vấn đề của riêng mình.

– Những vấn đề của anh cũng là của tôi, của tôi cũng là của anh, anh biết rõ điều đó mà.

– Thật ra thì, cái chết của Almine sẽ giải quyết mọi vấn đề của tôi.

– Anh không phải người như vậy, Romain.

– Mọi con người đều là kẻ sát nhân tiềm tàng. Thậm chí chính cô đã viết về điều đó: một đứa trẻ có thể giết người, một cụ bà có thể giết người.

– Nếu để Almine chết, anh sẽ ngã về bên kia. Ở đó anh sẽ không thể trở lại như trước.

– Đó chỉ là mấy câu cửa miệng rỗng tuếch.

– Không! Anh sẽ không bao giờ còn là Romain Ozorski như trước nữa. Cuộc sống sẽ không yên ổn trở lại như cũ nữa.

– Tôi không có lựa chọn nào khác để giành được quyền nuôi con. Kể cả nếu tôi cứu Almine, người đàn bà điên khùng đó cũng sẽ không bao giờ biết ơn tôi. Trái lại là khác. Cô ta sẽ vội vàng cuốn xéo sang Mỹ.

– Trong trường hợp ngược lại, anh sẽ là tên sát nhân và điều đó sẽ không ngừng ám ảnh anh bất kể ngày đêm.

Cơn dông càng mạnh thêm. Tôi cố cảm tưởng cơn mưa đang rơi lộp độp lên cửa sổ trời sẽ làm vỡ tung mặt kính. Trong xe, không khí trở nên ngột ngạt, đến mức tôi quyết định lật ngược thế cờ.

– Tôi đặt số phận mình vào tay cô, Flora. Nếu tôi bỏ mặc Almine, cô sẽ có lại Carrie. Nếu tôi cứu vợ tôi, cô sẽ không gặp lại con gái. Cô là người quyết định.

Cô ta không tính đến điều này. Biểu cảm của cô ta thay đổi và ngay lập tức trở lại vẻ cứng rắn mà tôi vẫn quen.

– Anh đúng là tên khốn.

– Cô hãy nhận những trách nhiệm thuộc về mình.

Tức giận, cô ta đấm một cú vào cửa kính xe.

Tôi cố gắng duy trì sức ép của mình:

– Nào, cô quyết định đi! Cô, chính cô, sẽ ngã về bên kia chứ?

Cô ta cụp mắt xuống, kiệt sức, kiệt quệ.

– Tôi, tôi chỉ đơn giản muốn sự thật.

Cô ta nhìn tôi lần cuối trước khi mở cửa rồi rời khỏi xe. Cả hai chúng tôi đều đang ở trong cùng một con ngõ cụt. Trong mắt cô ta, tôi đọc thấy nỗi đau của chính mình. Trong sự kiệt quệ của cô ta, tôi thấy nỗi tuyệt vọng của chính tôi. Và tôi hiểu đây có lẽ là lần cuối cùng tôi gặp Flora Conway.

Chịu thua, tôi quay lại chiếc cầu thang bằng đá trắng dẫn xuống chỗ các sà lan, và khi đã ở trong bến thuyền, tôi lôi điện thoại ra để gọi cấp cứu.