Chương 13 Vinh quang của cha tôi
Tôi phát ngán vì chỉ được là chính mình. Tôi phát ngán với hình ảnh Romain Gary mà người ta dán chặt lên lưng tôi suốt ba mươi năm qua.
Romain GARY
1Hai ngày sau
Paris
Tôi đẩy cánh cửa, nó mở ra êm ái, không một tiếng cọt kẹt. Đã mười hai năm tôi không đặt chân đến căn hộ này. Lâu lắm rồi.
Cha đã nói dối tôi. Suốt những năm qua, cha nói rằng cha đã bán văn phòng mà cha thường tới làm việc khi tôi còn nhỏ. Cha không chỉ giữ lại nó, mà nơi này - có hương thơm của hoa cam và chanh khô - hoàn toàn không bị bỏ hoang. Đó là một căn hộ hai phòng nằm trên tầng áp mái ở quảng trường Panthéon, nơi đây mẹ tôi và cha đã sống trước khi tôi ra đời. Ba gian áp mái gộp lại về sau được cha biến thành nơi làm việc, cha tới đây viết mỗi ngày hoặc gần như thế cho đến đầu năm 2010.
“Bố có một việc muốn nhờ con giúp, ĩhéo…” Ở bệnh viện, khi tỉnh lại sau cuộc đại phẫu, đó là câu đầu tiên cha nói với tôi. “Bố muốn con về văn phòng của bố ở quảng trường Panthéon và mang cho bố một thứ.”
Theo lời chỉ dẫn của cha, tôi đến lấy chìa khóa ở chỗ người gác cổng, người này khẳng định với tôi đã không gặp ông Ozorski ít nhất mười năm nay, mặc dù có người đến đây dọn dẹp ba tuần một lần.
Tôi mở cửa cuốn chạy điện bên ngoài cửa vách kính. Bên trong phòng vẫn hệt như trong trí nhớ của tôi. Sàn nhà rất đẹp bằng gỗ sồi quét dầu, cách trang trí tối giản - ghế xoay Barcelona, trường kỷ da, bàn thấp bằng gỗ hóa thạch, bàn làm việc bằng gỗ óc chó đánh xi - cùng vài tác phẩm nghệ thuật mà thuở xưa cha rất yêu thích trước khi thôi quan tâm đến tất cả, trừ tôi: một bức tranh ghép nhỏ của Invader*, một tác phẩm điêu khắc hình quả táo có miệng của Claude Lalanne, một bức tranh đáng sợ của Sean Lorenz có hình một tên người thỏ với bộ mặt hớn hở khiến tôi nhiều lần gặp ác mộng hồi còn bé.
•
Tức Franck Slama, nghệ sĩ tranh ghép người Pháp.
Trong phòng đọc sách, những tác giả mà cha ngưỡng mộ: Georges Simenon, Jean Giono, Pat Conroy, John Irving, Roberto Bolano, Flora Conway, Romain Gary, François Merlin. Trong một khung hình, có bức ảnh chụp gia đình ba người chúng tôi trên bãi biển Vịnh Khỉ. Tôi ngồi trên vai cha còn mẹ đi bên cạnh. Mẹ lúc ấy rất xinh đẹp và có vẻ đang hạnh phúc trong tình yêu. Chúng tôi tỏa ra mùi cát, muối, và mặt trời rắc những vảy vàng lên tóc chúng tôi. Chúng tôi có vẻ rất hạnh phúc. Tôi vui vì cha đã giữ bức ảnh này. Điều đó chứng tỏ có điều gì tươi đẹp và mạnh mẽ đã từng tồn tại một thời gian giữa hai người họ, bất chấp những gì xảy ra sau đó. Và tôi chính là kết quả của điều ấy.
Được đóng khung bên cạnh bức tranh tôi vẽ tặng nhân dịp sinh nhật cha là trang báo Le Monde trứ danh ngày 16 tháng Một năm 2011: New York, một bé trai bảy tuổi người Pháp đi máy bay một mình mà không có vé!
Tôi nhìn bức ảnh, đã hơi bạc màu theo thời gian, nằm chính giữa tờ báo. Tôi ở giữa hai viên cảnh sát, giơ ngón tay làm chữ V chiến thắng. Nụ cười tươi rói của tôi để lộ những chiếc răng sữa mọc thưa. Tôi đeo cặp kính tròn có màu, mặc áo khoác parka đỏ, quần jean với một chiếc móc chìa khóa hình rô bốt Grendizer đeo ở thắt lưng.
Đó là khoảnh khắc vinh quang của đời tôi. Thời đó, bức ảnh này được phát đi phát lại trên CNN và là hình ảnh mở đầu cho nhiều bản tin. Một bộ trưởng của chính quyền Barack Obama suýt phải từ chức. Sau vụ việc này, mẹ tôi đã bỏ cuộc, chấp nhận để tôi đi học ở Paris và sống cùng cha. Tôi đã lấy lại tên tuổi, gột rửa danh dự cho cha và thậm chí ép tờ báo này, vốn chưa bao giờ nói tốt về mười chín cuốn tiểu thuyết của cha, phải đưa Ozorski lên trang nhất. Tôi đã thuộc lòng đoạn kết bài báo, nhưng vẫn đọc bởi mỗi khi đọc lại, nó khiến tôi vừa đau lòng vừa được an ủi:
Khi được hỏi, Romain Ozorski nói anh “khâm phục và tự hào” về hành động của con trai, thán phục “sự can đảm và anh hùng” của cậu và xem đó là bằng chứng về một tình yêu mạnh mẽ nhất mà anh từng nhận được.
Khi mới khởi đầu cuộc đời, tôi là nhà ảo thuật đại tài ấy, có thể dùng trái tim và trí thông minh của mình để điều chỉnh thực tại theo ý muốn. Tôi bẻ cong thực tại và biến điều không thể thành có thể.
Nắng chiếu bừng sáng sàn gỗ. Tôi từng đến đây nhiều lần vào mỗi chiều thứ Bảy và thứ Tư khi bác Kadija không thể trông tôi. Cha đã mua một bàn bi lắc và một cái máy trò chơi arcade cho tôi chơi. Chúng vẫn hiện diện trong một góc của căn phòng, bên cạnh bộ sữu tập đĩa nhựa vinyl của cha và tấm áp phích bộ phim Điệp viên bá chảy.
“Có hai thứ bố muốn con lấy từ căn hộ đó, Théo. Đầu tiên là một tập hồ sơ đóng bìa các tông màu đen con sẽ tìm thấy ở ngăn kéo trên cùng bàn làm việc của bố.
– Con mở nó được không?
– Con cứ làm gì tùy ý.”
Tôi ngồi lên chiếc ghế xoay bằng da sáng màu, nơi cha từng ngồi để viết. Trước mắt tôi, trên mặt bàn làm việc, một chiếc cốc lớn bằng đất nung đựng những chiếc bút sang trọng do nhà xuất bản tặng cho cha, nhưng cha chẳng dùng chúng bao giờ. Trong ngăn kéo, là tập hồ sơ đó. Tôi tháo dây chun ngoài bìa để xem nó chứa gì bên trong. Một tạp giấy khổ A4 có đánh số, trên đó in một văn bản. Các chương, cách dàn trang, không còn nghi ngờ gì nữa: tôi đang có trong tay một bản thảo chưa từng phát hành của Romain Ozorski! Tuy nhiên, nó được ghi chữ ở phần lề băng nét chữ nguệch ngoạc của cha và có nhiều chỗ sửa chữa.
Bản thảo đánh máy này không có nhan đề, nhưng văn bản được chia ra làm hai phần riêng biệt. Phần đầu có tên là Cô gái trong Mê cung, phần thứ hai, dài hơn, Một nhân vật của Roma(i)n. Ban đầu tôi quyết định sẽ đọc nó sau, nhưng khi xem qua các trang, những cái tên quen thuộc đập vào mắt tôi, đầu tiên là tên tôi! Tiếp đến là cha tôi, mẹ tôi, và Jasper Van Wyck. Thật kỳ lạ. Cha chưa bao giờ viết nhật ký hay tự truyện. Những tiểu thuyết của ông, ca ngợi tính tiểu thuyết và sự giải thoát, trái ngược với chủ nghĩa ái kỷ và việc tự nghiên cứu bản thân. Một điều kỳ lạ nữa thu hút chú ý của tôi: thời điểm câu chuyện diễn ra. Những tháng cuối năm 2010 đầy khó khăn đã khiến tất cả chúng tôi đau khổ đó. Cám dỗ thật mãnh liệt. Tôi cầm lấy bản thảo và ngồi lên trường kỷ để bắt đầu đọc.
2Khi giở đến trang cuối cùng, sau mệt tiếng rưỡi đồng hồ, nước mắt dâng trào trong mắt tôi và hai bàn tay tôi run rẩy. Cảm xúc khi đọc cứ luân phiên giữa xúc động và đau buồn. Tôi vẫn giữ những kỷ niệm rõ nét và đau đơn vô giai đoạn này, nhưng chưa bao giờ hiểu mức độ của nỗi đau khổ mà cha tôi phải chịu trong khoảng thời gian đó. Cũng không hiểu mẹ tôi có thể thủ đoạn đến mức nào. Trong những năm sau đó, cha đã rất đúng mực, không bao giờ đay nghiến mẹ trước mặt tôi, luôn tìm ra cho mẹ những tình tiết giảm nhẹ. Tôi còn phát hiện vì sao cha tôi ngừng viết. Đó là vì lời hứa vào buổi tối trời tuyết trong một nhà thờ Chính thống giáo. Tất cả những chuyện này làm tôi bị xáo trộn, và chúng hiện ra với tôi như một đống hỗn độn vô tận.
Trái lại, có một thứ làm tôi lúng túng: sự sắp đặt cho nữ nhà văn Flora Conway. Tôi nhớ vài năm trước cha từng khuyên tôi đọc một trong những cuốn sách của cô, nhưng theo hiểu biết của tôi, họ không thân thiết nhau và tôi chưa bao giờ nghe nói đến câu chuyện bi thảm về cái chết của con gái cô ấy do rơi từ tầng cao nhất của một tòa nhà ở New York.
Tôi lấy điện thoại và xác minh trên Wikipedia. Theo những gì tôi đọc trong bản in, tiểu sử về Flora giới thiệu rằng cô là một tiểu thuyết gia bí ẩn, được tôn thờ và ca ngợi, từng giành giải Kafka. Cô luôn sống sau hậu trường văn đàn và không xuất bản gi thêm từ nhiều năm nay. Tấm ảnh duy nhất người ta có về cô là bức chân dung xinh đẹp này, hơi mờ một chút, trong ảnh trông cô hơi giống Veronica Lake. Tôi không tìm được thêm gì nhiều trên trang web về các xuất bản phẩm của nhà De Vilatte.
Bối rối, tôi đứng dậy rót cho mình một cốc nước. Tôi hiểu rằng cha chưa bao giờ tìm cách xuất bản bản thảo này. Cha đề cập đến một khía cạnh quá riêng tư của những vấn đề đã tàn phá gia đình chúng tôi và những đau khổ của việc sáng tạo và cua cuộc đời một nhà văn. Nhưng Flora Conway có vai trò gì trong câu chuyện này? Vì sao cha tôi không tạo ra một nữ tiểu thuyết gia hư cấu?
“Còn thứ tiếp theo con phải lấy là gì vậy bố?”
– Ba quyển sổ to.
– Cũng ở trong phòng làm việc ạ?
– Không, được giấu trong ống máy hút mùi ở trên bếp điện.”
Tôi hỏi khéo để mượn người gác cổng hộp dụng cụ. Trong mười phút, tôi đánh vật với những chiếc tuốc nơ vít đủ kích cỡ trước khi rốt cuộc cũng tháo được vít tấm lưới máy hút mùi. Thò tay vào ống máy bằng inox, tôi sờ trúng những cuốn sổ cha nhắc đến. Chúng to hơn rất nhiều so với tưởng tượng của tôi. Những cuốn sổ khổ rất lớn, bìa bằng da sần, của hãng giấy Đức Leuchtturm. Nối với nhau bằng những tay giấy khâu lại, chúng gồm ba trăm trang giấy có đánh số viết kín cả hai mặt, kể cả ở phần lề, bằng nét chữ không lẫn đi đâu được của Romain Ozorski.
Lại thêm những bản thảo chưa từng xuất bản? Ít có khả năng, tất cả chúng đều được soạn bằng tiếng Anh. Mỗi cuốn sổ có một tiêu đề: The Girl in the Labyrinth, The Nash Equilibrium, The End of Feelings. Mặc cho điều hiển nhiên bày ra trước mắt, tôi cũng không hiểu ngay được ý nghĩa của chúng. Tôi đọc những dòng đầu tiên của mỗi bản thảo và giở ngẫu nhiên vài trang. Đây là nét chữ của cha tôi, nhưng không phải phong cách, cũng không phải thể loại tiểu thuyết ông thường viết. Trầm tư suy nghĩ, tôi xếp ba quyển sổ và bản thảo đánh máy vào trong ba lô.
Trước khi ra về, tôi lắp lại tấm lưới vào vị trí cũ và khi sắp sửa rời căn hộ, tôi đi qua phòng đọc sách nhìn những cuốn sách một lần cuối. Tại đó mọi chuyện trở nên sáng tỏ. Những nhan đề đó là tên các tiểu thuyết của Flora Conway! Kinh ngạc, tôi lại lấy những quyển sổ ra và dành thời gian khá lâu để so sánh các văn bản. Ngoài chút khác biệt về sắc thái, do sự chuyển dịch từ tiếng Anh sang tiếng Pháp, chúng giống nhau tuyệt đối.
Tôi gọi cho cha để nghe giải thích nhưng lại được chuyển tới hộp thư thoại. Tôi gọi lại hai lần nữa, nhưng đều không được. Tôi vẫn chưa hết kinh ngạc. Vì sao Romain Ozorski lại cất giấu những bản thảo gốc này, được chính tay ông viết và để tên Flora Conway? Không thể có đến ba mươi sáu lời giải. Tôi thậm chí chỉ thấy có hai: hoặc cha tôi ghostwriter của Flora Conway.
Hoặc cha tôi chính là Flora Conway.
3Tôi bắt tàu điện ngầm ở bến Place Monge. Trên tàu, khi đang tra cứu về một trong số những tiểu thuyết của Conway, tôi tìm thấy địa chỉ nhà xuất bản của cuốn sách. Đến bến Place d’Italia, tôi chuyển sang tuyến số 6 đến Raspail.
Trụ sở nhà xuất bản Fantine de Vilatte là một tòa nhà nhỏ hai tầng nhìn ra sân ở số 13 bis phố Campagne-Première, con phố lớn nơi Belmondo bị cảnh sát hạ gục ở cuối phim Nghẹt thở, trước mắt Jean Sebcrg.
Không gian bên ngoài gợi lên sự thơ mộng: khoảng sân lát đá, một đài phun nước có dây thường xuân bao quanh, một băng ghế đá xinh đẹp, tượng các con vật rải rác giữa đám dương xỉ và gốc táo gai.
Tôi đẩy cửa bước vào mà chính bản thân cũng không thực sự biết mình chờ đợi điều gì từ việc này. Quang cảnh bên trong nhà xuất bản trông giống xưởng nghệ thuật với trần nhà rất cao và cửa sổ kính phía bên trên các bàn làm việc. Qua ánh mắt cô ta nhìn tôi, tôi hiểu người phụ nữ trẻ ở lối vào - không nhiều tuổi hơn tôi là bao - mang hầu hết phẩm chất của kẻ học đòi làm sang, đặc biệt là các mục “kiêu kỳ”, “ban ơn” và “khinh khỉnh”.
– Xin chào, tôi muốn gặp Fantine de Vilatte.
– Không hẹn trước thì không được.
– Vậy tôi muốn đặt hẹn.
– Về vấn đề gì?
– Tôi muốn nói nói chuyện với bà ấy về một bản thảo mà…
– Bản thảo thì gửi qua thư điện tử hoặc bưu điện.
– Tôi có mang theo nó.
– Nhà xuất bản chúng tôi phát hành rất ít bản thảo mới…
– Tôi chắc chắn bà De Vilatte sẽ hứng thú với nó.
Tôi mở túi, chìa ba quyển sổ dày do cha tôi soạn.
– Được rồi, đưa chúng cho tôi, tôi sẽ chuyển cho bà ấy.
Tôi chỉ muốn cho bà ấy xem, tôi không thể rời xa chúng. Xin cô.
– Vậy thì tạm biệt! Ra khỏi nhớ đóng cửa.
Thất vọng. Chán nản. Bất lực. Giận dữ. Những kẻ thù bên trong tôi. Những kẻ thù tôi phải cố kìm nén để chúng không chế ngự tôi, nhưng vẫn phải giữ chúng nóng bỏng như than, bởi chúng thường xuyên là phương tiện để tháo gỡ một hoàn cảnh bế tắc. Đôi khi giúp tốt lên, đôi khi làm tệ đi. Rủi ro khi phải sống…
Tôi cụp mắt xuống. Không phải vì đầu hàng, mà để xem xét bàn làm việc của người đang trò chuyện với tôi. Một máy tính xách tay, nhiều tập giấy lộn xộn, tai nghe AirPod loại mới nhất, một vé tàu điện ngầm, một hộp Tupperware rỗng không, một chiếc điện thoại đang mở Instagram, một tách cà phê đặt trên một cuốn sách của Echenoz mua cũ vẫn còn cái nhãn màu vàng “Gibert Jeune”, ngoài ra còn có một cái chặn giấy khá đồ sộ bằng đá trông giống một bức tượng Moai, những bức tượng bằng đá nguyên khối trên đảo Phục sinh. Tôi chộp lấy tác phẩm điêu khắc đó và lấy hết sức ném nó vào ô cửa kính.
Đó là một trong những điều răn của các nhà ảo thuật: giữ hiệu ứng bất ngờ càng lâu càng tốt. Và lần này, khán giả của tôi không thể ngờ chuyện sẽ xảy ra.
Một ô kính vỡ toang thành hàng nghìn mảnh bay xuống trong một âm thanh khủng khiếp, khiến người phụ nữ học đòi làm sang phải thét lên. Lúc này, cô ta chẳng còn tí gì kiêu kỳ, chỉ còn thấy sự khiếp hãi. Nhiều giây im lặng trôi qua trước khi nhiều người lao vào sảnh, ánh mắt hướng về tôi.
Một trong số đó là Fantine de Vilatte. Trên tàu điện ngầm, tôi đã tìm ảnh của bà ta trên Internet, nhưng kể cả không làm vậy, chắc tôi vẫn nhận ra bà ta. Bà ta nhiều tuổi hơn trong tiểu thuyết của cha tôi, nhưng vẫn có dáng vẻ như thế, vầng hào quang kín đáo vừa mê hoặc vừa khiến nhân vật Flora Conway tức giận.
Bà ta là người lại gần tôi. Chầm chậm. Có lẽ bà ta cảm thấy một mối nguy hiểm, nhưng tôi có cảm giác bà ta thấy sự cố tấm kính vỡ rất xa vời, như thể bà ta linh cảm thấy có một đám cháy nghiêm trọng hơn cần dập tắt.
– Tôi tin là bà nợ tôi nhiều lời giải thích, tôi vừa nói vừa chìa cho bà ta quyển sổ mà tôi đã lấy lại từ bàn tiếp đón.
Fantine nhận lấy nó, có vẻ cam chịu, như thể bà ta đã biết trước nó chứa cái gì. Không một lời hay cử chỉ nào với đám nhân viên, bà ta đi ra sân và ngồi xuống chiếc ghế băng gần đài phun nước. Vừa say sưa vừa lơ đãng, với duy nhất tiếng thì thầm của đài phun nước vọng ra, bà lật giở quyển sổ suốt nhiều phút. Bà ta đợi tôi đến và ngồi xuống bên cạnh rồi mới ngước mắt lên khỏi bản thảo và thổ lộ với tôi:
– Từ gần hai mươi năm nay, tôi tin sáng nào mình cũng cầu nguyện để ngày này không bao giờ đến.
Tôi gật đầu, giả vờ hiểu và chờ đợi biết thêm điều gì đó. Fantine nhìn tôi chằm chằm với vẻ dò hỏi. Có gì đó làm bà ta bối rối, trong ngoại hình hoặc trong ánh mắt của tôi.
– Rõ ràng cậu còn quá trẻ để tự mình viết bản thảo này, bà ta nhận xét.
– Thật ra, cha tôi là người viết nó.
Bà ta đứng bật dậy, ôm chặt quyển sổ vào ngực.
– Cậu là con trai Frederik Andersen ư?
– Không, tôi là con trai Romain Ozorski.
Bà ta lảo đảo và bước lùi lại, như thể tôi vừa đâm một nhát dao vào bụng bà ta.
– Gì cơ? Ro… Romain?
Khuôn mặt bà ta méo mó. Rõ ràng tôi vừa tiết lộ một điều mà bà ta không trông đợi. Tiếp theo, đến lượt bà ta làm tôi chao đảo:
– Vậy, cậu là… Théo.
Tôi gật đầu thay cho câu trả lời và hỏi:
– Bà biết tôi ư?
Cha tôi đã đúng khi bảo tôi phải thận trọng với các tiểu thuyết gia. Ngay cả khi không viết nữa, họ vẫn rải sỏi và gieo hạt để, nhiều năm sau, tạo ra những cú lật ngược tình thế trong chính cuộc đời bạn vào lúc bạn không ngờ tới nhất.
Có thể đó cũng là những gì Fantine de Vilatte tự nhủ ngay trước khi trả lời tôi.
– Phải, tôi biết cậu, Théo. Vì cậu mà cha cậu đã rời bỏ tôi.
Nhà xuất bản Fantine de Vilatte kỷ niệm mười lăm năm ngày thành lập
Le Journal du dimanche, 7 tháng Tư năm 2019
Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập của nhà xuất bản, gặp gỡ với người sáng lập, bà Fantine de Vilatte, một người kín đáo.
Tại văn phòng của bà ở Montparnasse, số 13 bis phố Campagne-Première, nằm sâu trong khoảng sân trong nho nhỏ xinh đẹp, Fantine de Vilatte tiếp đón chúng tôi. Nhân dịp này, người sáng lập nhà xuất bản mang tên bà tổng kết về mười lăm năm tồn tại.
Nữ biên tập viên kín đáo
Ngay từ đầu, quy định là: “Tôi ở đây không phải để nói về mình, mà về những cuốn sách tôi xuất bản”, nữ biên tập viên vừa cảnh báo chúng tôi vừa gạt ra sau tai lọn tóc vàng của mái tóc ngắn cắt vuông. Là người phụ nữ thanh lịch tuổi tứ tuần, bà mặc quần jean mài, áo phông thủy thủ có cổ kiểu Peter Pan và áo vest bó bằng vải tweed. Dù Fantine de Vilatte không muốn nói về mình, nhưng rất nhiều đồng nghiệp của bà lại không hề ngần ngại ca ngợi óc ham hiểu biết, sự nhạy bén và trực giác của bà. “Bà là một độc giả tuyệt vời, một nữ biên tập viên đối thù thừa nhận, và còn là người yêu công việc bán sách và không hề cau có khi lo toan khía cạnh thương mại của nghề này.” Trong mười lăm năm, nữ biên tập viên đã gây dựng được cả một catalog mang hình ảnh của mình. Điều hành một trụ sở nhỏ với bốn nhân viên, bà xuất bản chưa đầy mười cuốn tiểu thuyết mỗi năm.
Mỗi sáng, bà là người đẩy cánh cửa nhà xuất bản trước cả khi mặt trời lên. Trong hai giờ, bà tự mình xem các bản thảo đến qua đường bưu điện hoặc qua thư điện tử. Buổi tối, bà là người sau cùng rời văn phòng. Bản sắc nhà xuất bản của bà dựa trên hai trụ cột: phát hiện những tài năng mới và ra mắt trở lại những tác phẩm đã bị lãng quên, chẳng hạn như Thánh địa của nữ nhà văn Rumani Maria Georgescu (giải Médicis cho sách nước ngoài năm 2007) hay tác phẩm rất giàu chất thơ Cơ học của cá hồi hun khói của nhà văn Hungary Tibor Miklós, viết năm 1953 và nằm im trong ngăn kéo suốt hơn nửa thế kỷ.
Fantine de Vilatte đã mang niềm say mê với văn chương này từ thuở còn thơ. Chính trong những chuyến nghỉ hè dài, được tới nhà bà mình ở Sarlat, mà cô bé con đã trót yêu Tchekhov, Beckett và Julien Gracq.
Bước mở đầu rực rỡ
Là học sinh giỏi, bà theo học hai năm dự bị ngành sư phạm văn học ở trường trung học Bertran-de-Born, Périgueux, trước khi sang New York du học, ở đó bà thực tập trong rất nhiều nhà xuất bản nổi tiếng như Picador và Little, Brown. Bà trở về Pháp năm 2001. Sau đợt thực tập tiếp theo ở nhà Fayard, bà trở thành trợ lý xuất bản cho nhà xuất bản Kỳ Lân.
Fantine de Vilatte tròn hai mươi bảy tuổi khi bà thành lập nhà xuất bản riêng bằng khoản vay thời hạn hai mười năm và đổ vào đó toàn bộ số tiền mình có. Vài tháng trước đỏ, bà có cuộc gặp làm thay đổi cuộc đời. Đó là cuộc gặp với cô gái xứ Wales trẻ tuổi lập dị trạc tuổi bà: Flora Conway, làm phục vụ trong một quán bar New York và viết văn khi có thời gian rảnh. Fantine hoàn toàn bị chinh phục bởi bản thảo cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Conway. Bà hứa với cô sẽ chiến đấu bằng cả tinh thần lẫn sức lực để bảo vệ cuốn sách đó. Lời hứa đã được giữ. Tháng Mười năm 2004, tác quyền cuốn Cô Gái trong Mê cung được ký tại hội chợ sách Frankfurt và chuyển nhượng cho hơn hai mươi nước. Khởi đầu cho vinh quang của Flora Conway và bước mở đầu rực rỡ đối với nhà xuất bản của nữ biên tập viên.
Bí ẩn Fantine de Vilatte
Fantine de Vilatte luôn nói về những cuốn tiểu thuyết bà xuất bản với sự nhiệt tâm và lòng nhiệt tình dễ lan tỏa. “Một đam mê có phần hơi thái quá”, một đồng nghiệp “công kích” và nhận định rằng, “ngoại trừ Flora Conway viết văn bằng tiếng Anh và đã không phát hành cuốn nào từ hơn mười năm nay”, danh mục các sách được xuất bản của De Vilatte “đáng buồn như một ngày mưa ở Toledo”. Nữ biên tập viên cũng vướng những lời gièm pha từ một trong số các tác giả cũ của mình: “Bà ấy rất biết cách làm việc này: khiến bạn tin rằng bạn là duy nhất và bà ấy sẽ làm tất cả vì bạn, nhưng nếu cuốn sách của bạn không gây được tiếng vang trong báo giới hay không tìm được công chúng, bà ấy sẽ bỏ rơi bạn không chút áy náy”, nữ tiểu thuyết gia này kể. “Ẩn sau dáng vẻ cực kỳ nhún nhường thậm chí mong manh, là một chiến binh không biết thương xót”, một nữ nhân viên cũ xác nhận, đối với cô “Fantine luôn là một bí ẩn. Không ai rõ đòi sống gia đình của bà, cũng không biết bà sử dụng thời gian ngoài công việc ra sao, bởi lý do đơn giản rằng với bà, cuộc sống không tồn tại bên ngoài việc xuất bản. Ngôi nhà của bà ấy, chính là bản thân bà.”
Một khẳng định mà đương sự không thể nào chối bỏ. “Biên tập là nghề đòi hỏi cao và rất thú vị. Một hoạt động tỉ mẩn và phải thông thạo nhiều thứ luôn yêu cầu bạn phải xông pha vào những việc khó nhằn. Bạn khi là chủ xưởng sửa chữa ô tô khi là nhạc trưởng, khi là thầy chép, khi lại là người đại diện thương mại.” Về câu hỏi liệu những cuốn sách còn có thể thay đổi cuộc đời không, Fantine de Vilatte trả lời rằng “dẫu sao một cuốn sách cũng có thể thay đổi một cuộc đời” và chính bởi điều đó mà bà làm nghề này, với kim chỉ nam duy nhất là được xuất bản những cuốn sách bà thích đọc với tư cách độc giả. “Tôi có cảm tưởng rằng qua nhiều năm, tất cả những cuốn tiểu thuyết mà tôi xuất bản là những viên sỏi đánh dấu trên một con đường dài”, bà khẳng định. “Con đường dẫn đến đâu?” chúng tôi hỏi trước khi tạm biệt bà. “Một con đường dài để tới với thứ gì đó hoặc ai đó”, bà trả lòi một cách bí ẩn.
Fantine de Vilatte qua 6 mốc thời gian
– 12 tháng Bảy 1977: chào đời ở Bergerac (Dordogne).
– 1995-1997: học dự bị ngành sư phạm văn học.
– 2000-2001: làm việc ở Mỹ trong các nhà xuất bản Picador và Little, Brown.
– 2004: thanh lập nhà xuất bản Fantine de Vilatte. Xuất bản Cô Gái trong Mê cung.
– 2007: giải Médicis dành cho sách nước ngoài với cuốn Thánh địa của Maria Georgescu.
– 2009: Flora Conway nhận giải Franz Kafka cho toàn bộ các tác phẩm của mình.