Chương 14 Tình yêu đi theo ta
Nhưng ta luôn cảm ơn điều đó bởi vì nó xuất phát từ tình yêu
William SHAKESPEARE
FantineTôi tên là Fantine de Vilatte.
Năm 2002, năm tôi hai mươi lăm tuổi, tôi bắt đầu một mối quan hệ với tiểu thuyết gia Romain Ozorski. Chín tháng khổ sở và lén lút. Ozorski đã kết hôn, còn tôi, tôi không thấy thoải mái trong hoàn cảnh đó. Nhưng cũng là chín tháng hạnh phúc và hòa hợp. Để có thời gian bên tôi, Romain chấp thuận mọi lời mời quảng bá sách của anh ở nước ngoài. Tôi chưa bao giờ đi nhiêu đến vậy như trong vài tháng đó: Madrid, London, Kraków, Seoul, Đài Bắc, Hồng Kông.
“Nhờ có em, mà lần đầu tiên cuộc đời anh thú vị hơn những tiểu thuyết của anh”: đó là điều Romain luôn nhắc đi nhắc lại với tôi. Rằng tôi thêm “tính tiểu thuyết” vào cuộc đời anh ấy. Tôi hình dung đó hẳn là lời mà anh nói với mọi ngươi phụ nữ, nhưng phải thừa nhận một điều ở Romain Ozorski: anh biết cách phát hiện ở người khác những phẩm chất mà chính họ không nhận ra và truyền sự tự tin cho bạn.
Đây là lần đầu tiên cái nhìn của mọt người đàn ông cho tôi sức mạnh và khiến tôi xinh đẹp. Cũng là lần đầu tiên mà, để không sợ mất đi ai đó, tôi thích tự thuyết phục rằng mình chưa tìm ra người đó. Nghĩ về giai đoạn này trong đời làm tôi run rẩy và bàng hoàng. Một hạt cứng trong khối kỷ niệm nổi lên. Năm của chiến tranh ở Iraq, cái chết của Daniel Pearl, nỗi sợ hãi al-Qaeda. Năm của “Nhà chúng tôi bị cháy và chúng tôi đang tìm nơi khác để ở”, của vụ bắt giữ con tin kinh hoàng tại một nhà hát ở Moscow.
Dần dần, tôi rốt cuộc phải đầu hàng và thừa nhận là mình yêu Romain. Phải, sự thật là tôi đã trải qua cùng anh ấy một kiểu chuyện tình sẽ để lại vết bỏng trên da thịt ta. Sự “rối loạn to lớn ở mọi chiều hướng” như Rimbaud nói. Và thậm chí ngay trong lúc đang sống trong tình yêu mê say đó, tôi đã biết sẽ không bao giờ trong đời mình còn cảm nhận được những cảm xúc mãnh liệt như thế. Chúng làm nên đỉnh cao trong đời sống yêu đương của tôi. Đến nỗi tất cả những gì tôi trải qua sau đó sẽ đều nhạt nhòa không thể khác đi được.
Vậy là, cuối cùng tự tôi cũng tin vào tình yêu này.
Tôi gạt bỏ hết mọi ràng buộc khi chấp nhận có những dự định với anh. Khi tôi cho phép mình nghĩ rằng chuyện tình của chúng tôi có thể đi đến cuối và tôi đã chấp thuận cho Romain thực hiện điều mà anh muốn làm từ vài tháng nay: thông báo với vợ anh cuộc hôn nhân của họ đã chấm hết và anh muốn ly hôn.
Điều tôi không ngờ là bản thân Almine cũng có điều muốn báo cho chồng mình vào tối đó: cô ấy sắp có con. Một bé trai. Cậu bé Théo.
Romain
Từ: Romain Ozorski
Đến: Fantine de Vilatte
Tiêu đề: Sự thật về Flora Conway
21 tháng Sáu năm 2022
Fantine yêu dấu,
Sau hai mươi năm im lặng, hôm nay anh quyết định viết cho em từ trên giường bệnh. Theo lời các bác sĩ, nhiều khả năng anh sẽ không chết ngay trong vài ngày tới, nhưng sức khỏe anh sẽ rất yếu, và nếu chuyện đó xảy ra, anh muốn em biết một vài chuyện.
Cuối những năm 1990, sau khi xuất bản hơn một chục tiểu thuyết, anh ấp ủ dự định ra mắt những cuốn sách dưới một bút danh. Mặc dù sách của anh bán được (rất) tốt, nhưng chúng chỉ được đọc dưới một thương hiệu. Chúng không còn tạo thành một sự kiện, nhất là một cuộc hẹn thường niên. Anh mệt mỏi phải nghe mãi những thử giống nhau về mình, phải trả lời những câu hỏi giống nhau trong các cuộc phỏng vấn, phải giải thích vì sao mình có thành công, có độc giả, có trí tưởng tượng.
Vậy là trong cuộc tìm kiếm một sự tự do nghệ thuật mới, anh quyết định lao vào một thử thách: viết nhiều câu chuyện bằng tiếng Anh. Thay đổi ngôn ngữ, phong cách, thể loại. Viễn cảnh tự mình tạo ra hai hướng văn chương có cái thú vị riêng - tiếp tục cuộc chơi của mình với các độc giả đồng thời đeo vào một chiếc mạt nạ - nhưng nó cũng khơi lại một giấc mơ xưa mà nhiều người từng có trước anh: được tái sinh làm một con người khác.
Sống nhờ vào những mảnh cuộc đời khác với cuộc đời của bản thân đã là số phận mỗi ngày của tiểu thuyết gia. Lần này, phương pháp phân thân chỉ là diễn ra theo một khía cạnh khác và ở quy mô lớn hơn.
Từ năm 1998 đến cuối 2002, anh đã viết được ba cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Anh và cất chúng trong ngăn kéo đợi thời điểm thích hợp để xuất bản. Anh chưa từng nói với em về ý định này khi chúng ta bên nhau, Fantine ạ. Vì sao ư? Có lẽ là vì anh ý thức rõ rằng có quá nhiều hợm hĩnh trong phương pháp này. Với Émile Ajar, Vernon Sullivan hay Sally Mara, những người khổng lồ của văn học đã thành công trước anh trong việc sáng tác hai hướng văn chương. Vậy thì bắt chước họ để làm gì? Có lẽ là để trả thù. Nhưng trả thù cái gì và trả thù ai?
Fantine
Biết tin vợ mang thai, Romain đột ngột cắt đứt mối quan hệ của chúng tôi. Cha mẹ anh chia tay ít lâu sau khi anh ra đời. Anh chưa bao giờ biết mặt cha và thiếu thốn này ám ảnh anh suốt cuộc đời. Để mang đến môi trường gia đình vững chắc cho con trai, anh quyết định làm mọi thứ để tạo ra cơ hội thứ hai cho hai vợ chồng. Tôi nghĩ lý do chính là anh kinh hãi trước viễn cảnh rằng nếu đổ vỡ, Almine sẽ không cho phép anh chứng kiến con trai lớn lên trong những điều kiện tốt.
Khi Romain rời bỏ tôi, tôi chìm sâu trong khu rừng tối tăm của bệnh trầm cảm. Suốt nhiều tháng tôi quan sát sự sụp đổ bên trong con người tôi với tư cách khán giả, không thể làm gì để ngăn mình lún sâu hơn nữa.
Vai trò mà tôi phải miễn cưỡng thực hiện trong đoạn kết của chuyện tình chúng tôi, trì hoãn thời điểm Romain nói chuyện với vợ anh, khiến cho vết thương trong lòng tàn phá tôi mãi không khép miệng. Thân thể tôi nằm dài trên đất, trái tim tôi hấp hối, linh hồn tôi tan vỡ. Đưa cuộc đời sang trang mới là việc tưởng như không thể vượt qua. Tôi thấy xa lạ với chính mình. Cuộc đời tôi không còn ý nghĩa, không còn ánh sáng, không còn tương lai.
Giai đoạn đó, tôi làm trợ lý biên tập bản thảo của một nhà xuất bản nằm trên phố Rue de Seine. Văn phòng của tôi là một phòng áp mái nhỏ xíu cách âm kém nằm trên tầng cao nhất một tòa nhà có mặt tiền màu xám nhạt. Khoảng không gian nơi tôi phải tranh đấu lũ bồ câu và hàng trăm bản thảo chất đống dưới sàn nhà, cao đến tận mặt bàn làm việc, tạo thành chiếc thang ngắn để trèo lên giá sách và đôi khi còn cao đến tận trần nhà.
Nhà xuất bản nhận hơn hai nghìn bản thảo mỗi năm. Nhiệm vụ của tôi là thực hiện lựa chọn vòng một các bản thảo. Đó loại bỏ những thể loại mà nhà xuất bản không phát hành (tư liệu, thơ, kịch) và đưa ra nhận xét ban đầu về các bản thảo thuộc thể loại hư cấu. Tiếp đến, tôi chuyển nhận xét của mình cho các biên tập viên kinh nghiêm hơn. Tôi từng có rất nhiều mơ mộng đối với vị trí này, nhưng sau một năm làm nghề, tôi đã mất hết mọi ảo tưởng.
Đó là thời kỳ lạ lùng. Mọi người đọc ít đi và viết nhiều lên. Ở Los Angeles, ai cũng có một kịch bản trong USB của mình, từ nhân viên trạm xăng vừa bơm đầy bình cho bạn đến cô gái làm bồi bàn trong một hộp đêm. Ở Paris, mỗi người đều có một bản thảo cất trong ngăn kéo hoặc một ý tưởng tiểu thuyết trong đầu. Nói thật lòng, một nửa số bản thảo tôi nhận được cực kỳ tệ hại: lối viết nghèo nàn, cú pháp lung tung, không văn phong, lời kể lộn xộn. Nửa còn lại thì chán ngán, không có chút gì thú vị, nằm giữa những người phụ nữ tự coi mình là Duras và những gã đạo văn Dan Brown (Mật mã Da Vinci khi ấy vừa phát hành ở Mỹ và đã sản sinh ra những tạo vật hư cấu kinh khủng)… Chưa bàn đến kiệt tác hay câu chuyện hấp dẫn, tôi chưa từng nhận dược một tiểu thuyết nào mà bản thân có thể coi là yêu thích.
Và rồi đến cái ngày cuối tháng Chín đó. Tôi đến văn phòng nhỏ bé lạnh ngắt của mình lúc tám giờ ba mươi. Tôi bật máy sưởi (nó chỉ khạc ra luồng hơi âm ấm), cắm máy pha cà phê (chỉ phun ra thứ nước loãng toẹt) và khi ngồi vào bàn làm việc tôi nhìn thấy nó: một phong bì bằng giấy kraft nằm trên sàn, thò ra một nửa từ đằng sau chiếc tủ. Tôi đứng dậy để nhặt. Có lẽ nó rơi xuống từ chiếc bàn bằng gỗ ép bị sập dưới đống bản thảo.
Tôi đang sắp sửa bỏ nó lên chồng bản thảo lung lay thì nhận ra nó được gửi đích danh cho mình. Tôi, người không là ai cả trong nghề, rất xúc động vì sự quan tâm đó, tôi hình dung tác giả đã tìm kiếm trên các diễn đàn Internet hoặc ở đâu đó tên một người có thể sẽ thực sự để tâm đến tác phẩm của mình. Và tôi mở chiếc phong bì. Bên trong là một bản thảo đánh máy và được viết bằng tiếng Anh.
Bằng tiếng Anh, chết tiệt… Con người ta quả là chẳng ngại điều gì.
Tôi đang định ném thẳng nó vào thùng đựng bản thảo từ chối thì nhan đề câu chuyện thu hút trí tò mò của tôi. The Girl in the Labyrinth. Tôi lơ đãng đọc trang đầu tiên, vẫn đứng nguyên trước tủ. Rồi hai trang tiếp theo. Tôi ngồi lại vào bàn để đọc chương đầu tiên. Rồi hai chương tiếp theo, rồi… Đến trưa, tôi bỏ bữa để đọc tiếp và khi giở đến trang cuối cùng, trời đã tối.
Tim tôi đập dồn dập. Tôi bị sốc, chấn động, nụ cười nở trên môi, như thể tôi đã yêu. Vậy là, sau cùng tôi cũng có được bản thảo chạm đến tim mình. Cuốn sách khác biệt này không giống bất kỳ cuốn nào tôi từng đọc trước đây. Một cuốn sách dặc biệt, không thể phân loại, đã chộp lấy tôi, tóm tôi vào tấm lưới của nó. Một làn gió tươi mới, khác hoàn toàn với cái giới nhỏ bé trì trệ này.
Tìm trong phong bì, tôi thấy một bức thư gửi kèm viết khá ngắn gọn:
Paris, ngày 2 tháng Hai năm 2003. Thưa cô, tôi gửi kèm trong đây bản thảo tiểu thuyết của tôi, Cô Gái trong Mê cung, có lẽ nhà xuất bản Kỳ Lân sẽ thấy hứng thú. Khả năng tài chính của tôi có hạn, tôi gửi bàn thảo này cho duy nhất nhà xuất bản của cô và xin cảm ơn nếu cô hồi đáp trong thời hạn thích hợp và xin gửi trả bằng chiếc phong bì đính kèm nếu nó không phù hợp với nhà xuất bản. Trân trọng, Frederik Andersen.
Phần chữ ký làm tôi ngạc nhiên - suốt lúc đọc, tôi đã hình dung tác giả là phụ nữ - nhưng ý muốn gặp Andersen trong tôi càng tăng gấp bội. Bức thư có ghi địa chỉ, phố Lhomond, kèm một số điện thoại. Tôi gọi ngay không chần chừ. Bức thư để ngày gửi cách đây đã hơn sáu tháng, nên hy vọng là tác giả đã không nản lòng vì chờ đợi và không gửi bản thảo cho nhà xuất bản khác. Nhưng kể cả trường hợp đó, tôi vẫn còn cơ hội nếu không nhà xuất bản nào phát hiện ra bản thảo trước tôi, vì nó viết bằng tiếng Anh. Không ai trả lời và tôi cũng không để lại được lời nhắn.
Tôi về nhà mà không nói với ai về phát hiện của mình. Ngay khi đọc xong, bất chấp sự háo hức muốn chia sẻ niềm phấn khởi, tôi vẫn giữ cái đầu lạnh và sự im lặng. Ở Kỳ Lân, tôi là bóng ma trên lầu sáu. Quý cô Trong Suốt. Rất ít người tôn trọng công việc của tôi và phần lớn không biết đến sự tồn tại của tôi. Tôi là “cô gái của các bản thảo”, “nữ trợ lý”. Thực ra, tôi căm ghét những kẻ ngu ngốc cổ lỗ sĩ đó cùng những mụ đàn bà học đòi sang chảnh suốt ngày tiệc tùng chè chén với nhau. Tại sao phải dâng bản thảo này cho họ? Tại sao phải tặng họ Cô gái trong Mê cung của tôi? Dẫu sao nó cũng được gửi cho riêng tôi cơ mà. Tôi gọi lại cho Frederik Andersen vào lúc bảy giờ tối và cứ một tiếng một lần cho đến nửa đêm. Vì không nhận được hồi đáp, tôi gõ tìm tên ông ấy trên Google và kết quả tìm được khiến tôi rụng rời.
Khu Val-de-Grâce: thi thể một người đàn ông được tìm thấy trong căn hộ bốn tháng sau khi chết
Le Parisien, 20 tháng Chín năm 2003
Tấn bi kịch về sự cô độc đang diễn ra ngày càng thường xuyên tại thủ đô và vùng ngoại ô một cách đáng buồn. Thi thể ông Frederik Andersen đã được tìm thấy vào thứ Năm vừa qua trong căn hộ nhỏ của ông ở quận V. Một đôi vợ chồng trẻ hàng xóm, vừa trở về sau chuyến du lịch dài ngày ở Nam Mỹ, đã báo cho lực lượng cứu hộ khi họ thấy có mùi lạ và thư báo chất đống trong hộp thư. Đầu giờ tối, lực lượng thuộc Đội Cứu hỏa số 3 đã dựng thang trên phố Lhomond đến tận ban công căn hộ. Lính cứu hỏa đập vỡ một cửa sổ kính để tiếp cận nơi ở của nạn nhân. Cùng với cảnh sát, họ phát hiện ra thi thể đang trong tình trạng phân hủy. Không có dấu hiệu bị bẻ khóa và cửa ra vào được chốt từ bên trong. Tất cả hướng tới suy nghĩ đây là cái chết tự nhiên, nhưng khám nghiệm tử thi vẫn được yêu cầu để loại trừ chính thức hướng điều tra hình sự. Bác sĩ pháp y cũng sẽ xác định thời điểm chính xác người đàn ông sáu mươi bảy tuổi này tử vong. Theo các chi tiết thu thập tại chỗ, cái chết xảy ra vào đầu tháng Năm, các tờ báo được dừng lấy khỏi hòm thư từ thời điểm đó.
Là người không kết hôn, Frederik Andersen luôn sống một mình, và chi trả phần lớn các hóa đơn bằng thanh toán tự động. Là người có nhiều vấn đề về sức khỏe, từ vài năm nay thầy giáo về hưu này di chuyển bằng xe lăn và rất ít khi ra khỏi nhà. Việc ông không xuất hiện những tháng gần đây không đặc biệt gây ngạc nhiên cho những người hàng xóm mà ông vốn cũng ít tiếp xúc.
Trong phố, mọi người nhớ đến ông là người dè dặt và sống xa cách, hay suy tư và rất thích ở trong nhà. “Không phải lúc nào ông ấy cũng cất lời chào khi mọi người gặp ông ấy ở thang máy”, Antonia Torres, bà gác cổng của tòa nhà, kể. […]
Fantine
Tôi không ngủ đêm đó, tôi thấy mình như bị bản thảo này ám. Tôi không muốn để mất nó vì bất cứ thứ gì trên đời. Cuốn tiểu thuyết này là dành cho tôi. Chính vì những thứ như thế mà tôi muốn làm nghề này: để khám phá ra một bản thảo hay một tác giả. Tôi thấy khó mà tin nổi một người đàn ông sáu mươi bảy tuổi lại viết được một tiểu thuyết hiện đại đến vậy, rồi tôi nhớ về những buổi học triết và vị giáo sư lớp dự bị luôn trích dẫn Bergson: “Chúng ta không thực sự thấy bản chất của mọi thứ; thường thì ta chỉ tự giới hạn mình ở việc đọc nhãn dán trên chúng.” Trong cơn mất ngủ, một kế hoạch điên rồ bắt đầu nảy mầm trong tâm trí tôi, nhưng nó cần một cuộc điều tra thực sự.
Ngày hôm sau, tôi gọi điện cho nhà xuất bản để nói rằng tôi thấy khó ở và xin phép không đến văn phòng. Sau đó tôi tới phố Lhomond. Tôi chưa bao giờ tới đây. Sáng sớm, con phố lớn dẫn xuống khu mua bán của phố Mouffetard không mấy nhộn nhịp và có cái vẻ yên ắng của một thị trấn. Tưởng như một tập phim Maigret cũ trên đài France Televisions đang được phát lại. Tòa nhà nơi Frederik Andersen đã kết thúc đời mình là một trong những góc xấu nhất của khu phố. Một trong vô số tòa nhà “hiện đại” với mặt tiền màu nâu nhạt bằng bê tông mà thập niên 1970 đã để lại. Đầu tiên tôi tưởng sẽ không có người gác cổng, nhưng hóa ra khối nhà này được hợp thành từ ba tòa nhà khác nhau và phòng của người gác cổng nằm ở tòa nhà bên cạnh.
Tôi gõ cánh cửa phòng bà - người phụ nữ tên Antonia Torres mà bài báo đã nhắc đến - và nói rằng mình đang đi tìm một căn hộ nằm trong khu này. Tôi nói với bà là tôi đã đọc tờ Le Parisien tuần trước và tôi tự hỏi căn hộ của ông Andersen đã có người thuê chưa. Antonia thao thao bất tuyệt về chủ đề này. Ban đầu xác nhận với tôi rằng Federik Andersen không còn liên hệ với gia đình. Không ai xuất hiện kể từ khi ông ta chết. Chủ nhà cho thuê đã dọn sạch se căn hộ và để tạm đồ dạc của ông ta vào một buồng chứa lớn ở tầng hai dưới hầm trong lúc chờ một công ty đến lấy chúng. Bà ta còn cho tôi biết Andersen từng là giáo viên một trường cấp ba ở quận XIII, nhưng vì sức khỏe yếu nên ông ta đã nghỉ hưu sớm. “Ông ấy là giáo viên tiếng Anh à? - Có lẽ vậy” Antonia trả lời.
Tôi đã biết đủ để thực hiện thứ gì đó. Tôi dành toàn bộ thời gian còn lại của buổi sáng ngồi ở một quán cà phê trên phố Mouffetard để xới đảo trong đầu mọi giả thiết. Tôi tin rằng cuộc đời đang trêu đùa mình. Rằng các hành tinh sẽ không nằm thẳng hàng với nhau như thế thêm lần nào nữa. Mặc dù có những rủi ro, chắc chắn rồi, và khoảng thời gian thuận lợi là rất eo hẹp, nhưng chuyến phiêu lưu này chợt mang đến ý nghĩa lần nữa cho sự tồn tại của tôi.
Một cơn dông kéo đến vào giờ ăn trưa. Tôi trở lại phố Lhomond và tranh thủ cơn mưa để đi theo sau một chiếc ô tô xuống tầng hai hầm đỗ xe của tòa nhà. Có nhiều ngăn đóng, nhưng duy ba ngăn trong số đó có cửa vào lớn hơn nhiều, hay như bà gác cổng gọi là “buồng chứa lớn”. Trong ba buồng này, một buồng trống, buồng thứ hai có một chiếc ô tô đỗ. Buồng thứ ba khóa bằng một cái khóa to. Loại thường thấy dùng để khóa xe tay ga hoặc xe mô tô. Tôi đứng hồi lâu trước cánh cửa, nhìn chòng chọc vào ổ khóa. Vậy là hết. Tôi sẽ không bao giờ bẻ được cái khóa này. Tôi không có dụng cụ, cũng không đủ sức khỏe để làm việc đó.
Trong đầu tôi, các ý nghĩ bắt đầu nảy ra với tốc độ hàng trăm cây số trên giờ. Tôi rời phố Lhomond và đội mưa đi đến hãng Hertz trên đại lộ Saint-Michel. Tôi thúc ngay chiếc ô tô đầu tiên có thể thuê và chạy quãng đường gần một trăm cây số ngăn giữa Paris và Chartres. Tôi có một người em họ ở đó - Nicolas Gervais tức “Nico béo” tức “Ngốc béo” tức “Chim quả ớt” dù không vần chút nào - hiện đang là lính cứu hỏa. Cậu ta không phải đứa tinh ranh nhất vùng Eure-et-Loir và cũng rất lâu rồi tôi không tới thăm cậu ta, nhưng Nico rất hay giúp đỡ và dễ điều khiển. Dù cả thế giới có nghĩ ngược lại, thì thực sự tôi không hề tốt bụng và khoan dung. Tôi rất đố kỵ, hay ghen tức, hiếm khi thấy thỏa mãn. Nguyên do có lẽ tại mặt tôi trống có duyên và chừng mực, nên họ nghĩ tôi bình thản, thật ra tôi luôn thấy bứt rứt. Họ nghĩ tôi hiền lành, thật ra tôi rất tàn nhẫn. Họ nghĩ tôi ngây thơ, thật ra tôi rất nham hiểm. Romain Ozorski là người duy nhất thật sự hiểu tôi. Anh đã tìm ra con bọ cạp nấp trong đóa hồng. Nhưng anh vẫn yêu nó.
Tôi tìm được Nico ở nhà mẹ cậu. Tôi vào vai cô gái tuyệt vọng và nhờ cậu giúp đỡ để mở cánh cửa một hầm để xe mà bạn trai cũ của tôi nói là đã tống hết đồ đạc của tôi vào trong đó. Cậu ta cắn câu, rất vui vẻ được đóng vai người bảo vệ. Gần sáu giờ chiều, tôi trả xe trên đại lộ Courtille ở Chartres, và khi Nico vênh váo đón tôi trên chiếc 4x4, cậu đã lấy một chiếc kìm cắt dài hơn sáu mươi phân mà lính cứu hỏa dùng để phá ổ khóa trong trường hợp khẩn cấp. Ổ khóa trên phố Lhomond không thể chống cự nổi. Tôi cảm ơn Ngốc béo vì dã giúp đỡ rồi đuổi cậu ta về, không cho cậu ta cơ hội hỏi sâu hơn hay hiểu chuyện gì đã xảy ra với mình.
Tôi dành gần như cả đêm trong ngăn đậu xe này, kiểm kê đống đổ đạc tìm được trong căn hộ của Frederik Andersen với chiếc đèn pin thó từ chiếc 4x4. Vài món đồ gỗ nội thất, một chiếc ghế xoay, một máy chữ chạy điện Smith Corona, hai va li to bằng vải tráng nhựa đựng đĩa vinyl và đĩa CD trải dài từ Tino Rossi đến Nina Hagen, Nana Mouskouri và Guns N’Roses. Tôi tìm thấy cả những số báo The New Yorker cũ và trong ba thùng các tông là bản in đầu một số tiểu thuyết tiếng Anh: nhà xuất bản Penguin Classics, các tiểu thuyết trinh thám paperback, có ghi chú của Thư viện Hoa Kỳ. Hầm để xe còn thú vị bởi thứ mà nó không chứa: không có ảnh, không có thư từ trao đổi. Và nhất là, trong một chiếc tủ sắt có nhiều ngăn kéo, tôi tìm thấy thứ mà mình thậm chí không dám tưởng tượng ra: hai bản thảo đánh máy mới. The Nash Equilibrium và The End of Feelings. Bồn chồn, tôi đọc những trang đầu của chúng trong lo sợ. Đây hoàn toàn không phải bản nháp, mà là những tiểu thuyết đã hoàn thành, và những trang tôi đọc cũng xuất sắc hệt như The Girl in the Labyrinth.
Tôi rời phố Lhomond lúc năm giờ sáng. Tôi vẫn còn nhớ những cảm giác của mình vào buổi sáng hôm đó khi bước đi dưới mưa, ướt đẫm từ đầu đến chân, kiệt sức nhưng vui sướng, ôm chặt vào ngực cả hai tập bản thảo mới.
Những tiểu thuyết của tôi…
Romain
Từ: Romain Ozorski
Đến: Fantine de Vilatte
Tiêu đề: Sự thật về Flora Conway
[…] Những tháng sau cuộc chia tay của chúng ta là những tháng ngày vừa đẹp đẽ nhất vừa đau đớn nhất của đời anh. Đẹp đẽ nhất vì nó trùng với thời điểm Théo xuất hiện và niềm hạnh phúc được làm cha. Kinh khủng nhất vì không được gặp em nữa là một nỗi đau dai dẳng. Nỗi nhớ em làm anh thao thức suốt đêm và thổi bùng lên mọi con quỷ trong anh. Chính là để tiếp tục được làm điều gì đó cùng em mà anh nảy ra ý tưởng gửi cho em bản thảo cuốn Cô gái trong Mê cung. Như một món quà, như một lời xin em thứ lỗi. Nhưng để cuộc phiêu lưu được mỹ mãn, thì nó phải đáng tin, và anh biết em sẽ không dễ bị lừa. Anh dựng lên một nghìn kịch bản, nhưng không có cái nào anh thấy đứng vững. Ý tưởng nảy ra vào giờ ăn nhẹ buổi chiều, giữa hàng dài những người đứng đợi ở cửa hiệu bánh ngọt gần quảng trường Contrescarpe. Những vị khách nữ đứng trước anh nói về xác một người đàn ông được tìm thấy nhiều tháng sau khi ông ta qua đời tại căn hộ của mình trên phố Lhomond. Anh kiên nhẫn lắng nghe chi tiết vụ việc này. Andersen là một người đàn ông sống tách biệt, ốm yếu, không con cái cũng không có quan hệ xã hội. Một cựu giáo viên nhỏ bé, nhạt nhòa và cô độc, sống trong thế giới nhưng không để lại nhiều dấu vết. Con người hoàn hảo để hóa thân làm một nhà văn chết trong sự vô danh.
Như thể đang xây dựng tình tiết cho một cuốn tiểu thuyết, anh chuẩn bị một cú chọc bóng bi a ba băng đầy tham vọng. Tòa nhà trên phố Lhomond do OPAC, Phòng Quản lý Cư trú thành phố Paris, quản lý. Điều này nghĩa là không chỉ căn hộ của Andersen sẽ không bị để trống lâu, mà những đồ đạc của ông ấy, cất trong một ngăn dưới hầm để xe, cũng sẽ không ở đó mãi mãi. Anh bẻ khóa ngăn để xe đó, rồi, để tạo niềm tin cho phiên bản một ông Andersen thành thạo hai thứ tiếng, anh rải vài manh mối giả dưới dạng những tạp chí Mỹ và tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh. Anh để lại cả chiếc máy chữ mà anh đã dùng để soạn các bản thảo cùng hai bản thảo The Nash Equilibrium và The End of Feelings. Sau cùng, anh khóa cửa bằng một ổ khóa mới - cũng dày như ổ khóa cũ để không làm nhiệm vụ của em trở nên quá đơn giản - rồi chuyển sang bước hai của kế hoạch.
Trước đây, đã có vài lần anh tới đợi em trên phố Rue de Seine. Anh biết văn phòng em ở đâu. Anh biết những cảm xúc trái ngược mà em nuôi dưỡng với giới xuất bản. Để vào được trong tòa nhà, anh đồng ý nhận một cuộc hẹn với chủ nhà xuất bản. Rất đơn giản: về phương diện nghề nghiệp, anh đã có những năm tháng rực rỡ và vào thời gian đó, mọi nhà xuất bản đều nuôi hy vọng thu hút được “tác giả được yêu thích nhất nước Pháp”. Anh ngồi lại cuộc hẹn tới một giờ mười lăm phút chiều, rồi khi họ tiễn anh ra thang máy, anh đã lên tầng trên cùng thay vì xuống dưới sảnh. Vào giờ đó, hành lang hoàn toàn vắng lặng. Em đang nghỉ ăn trưa và văn phòng em không khóa: bọn trộm hiếm khi lấy các bản thào… Anh đặt chiếc phong bì bằng giấy kraft sau một chiếc bàn thấp làm sao để nó thò ra và đổ nghiêng.
Anh đã xếp đặt mọi thứ vào vị trí. Giờ thì, Fantine ạ, đến lượt em tham gia cuộc chơi.
Fantine
Cha mẹ tôi, bạn bè tôi, ông bà tôi, Nico ngốc: tôi vay tiền của tất cả mọi người để thành lập nhà xuất bản riêng. Vài đồng chỗ này, vài đồng chỗ kia. Tôi bỏ kế hoạch tiết kiệm mua nhà, thanh lý hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và ký giấy vay nợ. Cả thế giới coi tôi là một con mụ gàn dở và đã phao cả tin đồn về thất bại được báo trước của tôi. Những cuốn sách không thay đổi được thế giới, nhưng Cô gái trong Mê cung đã thay đổi cuộc đời tôi. Nhờ tiểu thuyết này, tôi đã trở thành người phụ nữ khác, tự tin hơn, quyết đoán hơn. Và ngọn lửa mới này, tôi có được nó còn nhờ bản sao của tôi: Flora Conway. Nhân vật tôi đã tạo ra để gánh vác bản thảo của Frederik Andersen. Tôi nhào nặn cô ấy theo những ước muốn của tôi. Flora Conway, đó là tác giả mà tôi hằng mơ được đọc sách. Xa khỏi cộng đồng những kẻ bốc mùi ở Saint-Germain-des-Prés và những mối quan hệ loạn luân của những tên trùm giới văn chương, tôi tạo ra cho cô ấy một tuổi thơ ở xứ Wales, một tuổi trẻ nổi loạn ở New York, một quá khứ làm phục vụ bàn ở quán Mê cung, một căn hộ trên tầng cao nhất một tòa nhà ở Brooklyn với tầm nhìn hướng ra sông Hudson.
Flora, là định nghĩa của tôi về tự do: một linh hồn được giải phong không chèo kéo để bán sách, người xem thường các phương tiện truyền thông, người mà về căn bản sẽ nói các phóng viên cút đi. Một người phụ nữ không sợ gì cả, người sẽ ngủ với bất cứ ai cô ấy muốn khi cô ấy muốn, người sẽ không ve vuốt những bản năng thấp kém của độc giả, mà là trí thông minh của họ, người không che giấu sự khinh bỉ với các giải thưởng văn học, nhưng vẫn giành được chúng. Flora ra đời như thế, từng nét nhỏ một, trong lúc tôi dịch các bản thảo của cô sang tiếng Pháp và về sau, theo những thành công văn chương của cô, dần dà đến lượt, tôi ngồi sau bàn phím để trả lời các lời mời phỏng vấn qua thư điện tử. Khi phải tìm một khuôn mặt cho Flora, tôi chọn một bức ảnh thời trẻ của bà tôi. Một bức ảnh ưa nhìn trên đó cô ấy trông giống tôi. Flora ở trong đầu và trong ADN của tôi. Flora Conway, là tôi.
Tôi ở phiên bản tốt hơn.
Romain
Từ: Romain Ozorski
Đến: Fantine de Vilatte
Tiêu đề: Sự thật về Flora Conway
[…] Anh phải thú nhận là em làm anh ngạc nhiên. Thật sự. Anh đã viết những bản thảo đó trong vui sướng và thậm chí thỉnh thoảng còn là một dạng hứng khởi, điều đã không xảy ra với anh từ lâu lăm rồi. Khi anh là bản sao đó, ma lực của nghề viết lại hiện ra.
Anh nghe nói về Flora Conway lần đầu tiên khi các nhà xuất bàn trên khắp thế giới háo hức với cuốn tiểu thuyết của cô ấy ở hội chợ sách Frankfurt. Cả giới xuất bản xôn xao về việc em lập hẳn một nhà xuất bản dành riêng cho sự xuất hiện mới này. Anh thán phục đầu óc kinh doanh của em, nó đã khiến em biến ông lão giáo viên có phần mờ nhạt mà anh áp đặt cho em thành nữ tiểu thuyết gia bí ẩn làm việc trong một quản bar ở New York.
Ban đầu, anh thật sự thấy mừng. Đột nhiên, một sự nghiệp mới đã bắt đầu. Tác phẩm của anh cuối cùng cũng được gỡ cái mác. Anh trải qua sự đón nhận này như một cuộc tái sinh, một nhiên liệu mới cho cuộc đời sáng tác của mình. Như thể được yêu một lần nữa vậy! Anh nếm mùi sự bất nhã trong vài hoàn cảnh. Trong một chương trình về văn chương, một nhà phê bình liên tục công kích cuốn sách mới nhất của anh và nịnh hót cuốn của Flora. Vài tuần sau, một tờ nhật báo đề nghị anh viết một bài nhận xét về Cô gái trong Mê cung. Trái ngược hoàn toàn với những gì mọi người nói, anh đưa ra một ý kiến tiêu cực và cả thế giới kết tội chắc chắn là anh đang ghen tức! Ban đầu anh rất vui vì việc làm táo bạo này, nhưng niềm vui không kéo dài lâu. Trước tiên, anh không có ai để chia sẻ nỏ. Tiếp đến, mặc dù bản thảo của Flora Conway là của anh, nhưng cô ta lại là nhân vật sáng tạo của em. Anh không phải người duy nhất giật dây mọi chuyện. Và, nói thật lòng, anh thậm chí không điều khiển được thứ gì nữa.
Sau nhiều năm, cuối cùng Flora Conway đã hoàn toàn thoát khỏi anh và khiến anh khó chịu. Cứ mỗi lần họ nói với anh về cô ta, mỗi lần anh đọc được một bài báo về cô ta hoặc khi người ta hót những lời ca ngợi cô ta trước mặt anh, anh cảm thấy một nỗi thất vọng mà, theo thời gian, nó biến thành sự tức giận. Đã nhiều lần anh muốn tiết lộ bí mật của mình và hét lên với cả thế giới: “Lũ ngu, Flora Conway chính là tôi!”
Nhưng anh vẫn đứng vững trong cuộc chiến mỗi ngày chống lại sự kiêu căng này.
Vào một trong những thời điểm đau đớn nhất cuộc đòi anh, mùa thu đông năm 2010, khi vợ cũ tìm cách tước quyền nuôi con của anh và anh cảm thấy mình bị tất cả xa lánh và bỏ rơi, anh đã muốn hé lộ cho em bí mật của câu chuyện đó. Chỉ riêng em. Vì không biết phải làm sao để nối lại với em, anh làm điều duy nhất mà anh biết cách thực hiện: anh cố gắng kể cho em sự thật bằng một cuốn tiểu thuyết. Một cuốn tiểu thuyết có Flora Conway và Romain Ozorski. Tạo vật và kẻ sáng tạo, nhân vật nổi loạn chống lại nhà văn “của mình”. Một cuốn tiểu thuyết mà em sẽ là độc giả duy nhất. Cuốn tiểu thuyết này, anh đã khởi động viết, mùa đông năm đó, nhưng anh không bao giờ hoàn thành được.
Bởi vì Flora không phải nhân vật đơn giản.
Bởi vì anh đã có một lời hứa và chưa bao giờ anh viết thêm một dòng nào.
Và có thể cũng bởi câu chuyện này chỉ có thể đi đến hồi kết ở ngoài đời thực. Bởi, như câu nói của Miller mà em rất thích trích dẫn: “Những cuốn sách còn để làm gì nếu chúng không dẫn ta về với đời thực, nếu chúng không thể làm ta khao khát được uống thêm?”
Bênh viện Bastia
Khoa tim mạch - Phòng 308
22 tháng sáu năm 2022
Giáo sư Claire Giuliani (bước vào phòng): Ông định sửa soạn như thế để đi đâu?
Romain Ozorski (khóa chiếc túi); Đến nơi tôi cho là tốt.
Claire Giuliani: Không nên như thế, ông trỏ lại giường ngay lập tức đi!
Romain Ozorski: Không, tôi biến đây.
Claire Giuliani: Ông hãy thôi bày trò đi, ông không phải đứa trẻ lên tám.
Romain Ozorski: Tôi không thể ở đây thêm một giây nào nữa. Nơi này toàn mùi chết chóc.
Claire Giuliani: Ông dễ chịu hơn khi người ta cáng ông đến đây với những mạch máu tắc nghẽn đấy.
Romain Ozorski: Tôi chẳng yêu cầu ai hồi sinh cho mình.
Claire Giuliani (đứng chắn trước tủ để ngăn Romain lấy áo bu dông): Khi thấy ông thế này, tôi tự nhủ đáng nhẽ khi đó tôi nên tự đặt cho mình nhiều câu hỏi hơn, thật sự là như vậy.
Romain Ozorski: Bà tránh ra!
Claire Giuliani: Tôi làm điều gì tôi muốn. Tôi đang ở nhà mình!
Romain Ozorski: Không, bà đang ở nhà tôi. Những đồng thuế tôi nộp là để trả lương cho bà và cho phép xây dựng bệnh viện này! Claire Giuliani (đứng dịch ra); Khi đọc những cuốn sách của ông, người ta hình dung ông là người dễ mến, nhưng thật sự ông là lão già ngu ngốc đáng khinh.
Romain Ozorski (khoác áo bu dông vào): Toàn bộ phép lịch sự của tôi đã hết, tôi biến đây.
Claire Giuliani (cố nói ngọt): Ông không được đi trước khi viết xong lời đề tặng lên sách của ông cho tôi. Để tôi không cứu mạng ông một cách vô ích, ít nhất là như vậy.
Romain Ozorski (viết nguệch ngoạc lên một trang trong cuốn tiều thuyết mà vị bác sĩ chìa cho mình): Đây, bà vừa lòng chưa? Claire Giuliani: Nghiêm túc thì, ông định đi đâu?
Romain Ozorski: Đến nơi sẽ không ai làm tôi tức phọt cứt.
Claire Giuliani: Thật nhã nhặn làm sao. Ông nên biết là, nếu không có chăm sóc y tế, ông sẽ chết đấy.
Romain Ozorski: Ít nhất tôi cũng sẽ tự do.
Claire Giuliani (nhún vai): Tự do thì được ích gì nếu ta chết?
Romain Ozorski: Sống thì ích gì nếu bị cầm tù?
Claire Giuliani: Chúng ta không có cùng định nghĩa về sự cầm tù.
Romain Ozorski: Chào bà, bác sĩ.
Claire Giuliani: Đợi thêm năm phút nữa đi. Mặc dù không phải giờ vào thăm nhưng có một người muốn gặp ông.
Romain Ozorski: Đến thăm ư? Ngoài con trai tôi, tôi không muốn gặp ai.
Claire Giuliani: Con trai ông, con trai ông, ông chỉ có mỗi từ đó trên môi. Hãy để cậu ấy được sống chút đi!
Romain Ozorski (nóng lòng muốn đi): Ai muốn gặp tôi?
Claire Giuliani: Một người phụ nữ. Cô ấy tên là Fantine. Cô ấy nói là rất thân với ông. Nào, ông muốn tôi đưa cô ấy lên không, có hay không?